Triệu Đại Lợi-cụ Mai Sinh chìm đắm vào hồi ức. Trong lúc kể chuyện, cô con gái Triệu Kiện thỉnh thoảng lại nhắc nhở hoặc bổ sung thêm. Câu chuyện được đẩy nhanh diễn biến, số phận long đong chìm nổi của Đại Lợi vượt ngoài sức tưởng tượng của chúng tôi.
Tổ quốc lâm nguy, lòng người hừng hực tinh thần chiến đấu. Triệu Đại Lợi ở nhà đơn độc thu dọn hành trang. Cô ấy chưa biết mình sẽ đi về đâu, chỉ biết lòng quyết tâm của mình sẽ không bao giờ thay đổi. Những cuốn sách yêu thích về chủ nghĩa vô chính phủ, những bức thư trao đổi với Ba Kim, tất thảy đều được đóng gói lại và cất giữ trên trần nhà. Các bạn học đang kêu gọi, ngọn lửa kháng Nhật đang bùng cháy khắp đất Sơn Tây. Đã có biết bao học sinh sinh viên sớm đã rời khỏi Thái Nguyên để tham gia vào đội ngũ kháng Nhật. Đêm đó, Triệu Đại Lợi lại cãi vã với người cha Triệu Đình Nhã, cô giận dỗi chạy ra khỏi căn nhà “Số 20 phố Pha Tử”, lao thật nhanh tới phố Thượng Mã. Người bạn học thân thiết Văn Thái Hà sống ở đây. Con phố Thượng Mã này, tương truyền chính là nơi mà Lý Tự Thành đem quân xuất chinh tiến đến Bắc Kinh. Văn Thái Hà muốn gia nhập quân đội kháng Nhật, niềm tin của cô ấy kiên định như sắt đá. Triệu Đại Lợi muốn sát cánh cùng người bạn học có chung chí hướng, hai người sắp sửa từ chị em bạn học trở thành chiến hữu.
Chẳng ngờ, khi Đại Lợi gõ cửa lớn nhà họ Văn trong bóng đêm thì bỗng bị một người đàn ông cao lớn chặn lại ở cửa. Người này không cho Đại Lợi biết sự thực, chỉ nói Văn Thái Hà đã tới nhà chị họ. Sau này mới biết, Văn Thái Hà quả thực đã gia nhập quân đội kháng Nhật dưới sự lãnh đạo của chiến khu 2. Bấy giờ, nhà họ Văn không muốn để người ngoài biết chuyện, đặc biệt lại càng không muốn để cho những bạn học có bối cảnh gia đình phức tạp được biết. Về sau Đại Lợi đã có cơ hội chất vấn Văn Thái Hà: Tại sao cậu không hẹn mình cùng đi? Văn Thái Hà đáp: Thái Nguyên rơi vào tay địch, người nhà không ai mà tin được!
Chính sự cảnh giác của người nhà hoặc có thể nói là sự biến mất đột ngột của người bạn thân thiết đã quyết định con đường đời khác biệt giữa những người bạn học.
Kể từ đó Đại Lợi dứt khoát rời xa cha mẹ, đơn độc rời bỏ “Số 20 phố Pha Tử” ở Thái Nguyên, đi về phía Nam tới Lâm Phần để đuổi theo chính quyền Diêm Tích Sơn. Đến giờ bà vẫn còn nhớ, bỏ nhà ra đi khi vừa qua Tết, vào buổi sớm lạnh lẽo mùng chín tháng Giêng.
Thái Nguyên thất thủ, chính quyền Diêm Tích Sơn rút về phía Nam, trước tiên tới Lâm Phần để thanh trừng quân đội, sau đó tiến về phía Tây đến Cát Huyện, cuối cùng dừng chân ở làng Nam Pha ở bờ phía Đông sông Hoàng Hà. Ngôi làng nhỏ này rất gần với thác nước Hồ Khẩu, dễ phòng thủ khó tấn công. Diêm Tích Sơn đích thân chỉ đạo tướng lĩnh của các tổ chức và cán bộ của các cơ quan lớn đào hầm, xây dựng công trình quân sự, dựng doanh trại, tổ chức huấn luyện, ngày đêm không ngừng nghỉ, khổ cực xây dựng nên căn cứ chiến lược mới để chỉ huy tác chiến cho chiến khu 2. Để nghênh đón thắng lợi, Diêm Tích Sơn cảm thấy hai chữ “Nam Pha” không được hay, vậy là đã đổi tên ngôi làng thành Khắc Nan Pha. Lúc nhiều nhất có tới ba vạn người đóng quân ở đây.
Đáng tiếc rằng, khi mà con tim Đại Lợi đã sẵn sàng dấn thân vào cuộc chiến đấu chống lại quân Nhật, bất chấp hy sinh thì lại không gặp được một nhân vật chỉ đường giống như “Hồng Thường Thanh” của Đảng cộng sản Trung Quốc.
Những người theo chủ nghĩa vô chính phủ thường phản đối bất kỳ hình thức tổ chức nào, họ cho rằng, mọi chính đảng, tổ chức và thế lực đều có khả năng chuyển hóa thành chế độ thống trị chuyên chế. Người theo chủ nghĩa Anarchism sẽ không làm những việc tuy có lợi cho tổ chức nhưng gây bất lợi cho sự phát triển cá nhân. Về mặt lý luận, họ phản đối chiến tranh có mục tiêu tổ chức và chính phủ, lo ngại chế độ độc tài cá nhân của chủ nghĩa phong kiến sẽ mượn xác hoàn hồn. Thế nhưng, quân Nhật hung bạo, tàn ác như vậy, những phong trào kháng chiến vô chính phủ và vô tổ chức, cuộc đấu tranh quân sự mất đi sự chỉ huy thống nhất, ắt sẽ trở nên yếu ớt vô hiệu, cuối cùng sẽ phải chịu cảnh mất nước mà thôi. Về điều này, Ba Kim tiên sinh đã viết:
Tôi là một người theo chủ nghĩa Anarchism. Một số người cho rằng chủ nghĩa Anarchism phản đối chiến tranh, phản đối vũ lực. Điều này chưa hẳn đã đúng. Nếu đây là cuộc chiến tranh nhằm chống lại cường quyền, chống lại xâm lược, nếu cuộc chiến vũ lực này nhận được sự sự ủng hộ của dân chúng, đồng thời bảo vệ lợi ích của dân chúng, vậy thì những người theo chủ nghĩa Anarchism cũng sẽ tham gia và ủng hộ cuộc chiến vũ lực này.
Tiếng nói của Ba Kim có sức lan tỏa mạnh mẽ, Đại Lợi chắc hẳn cũng được nghe về nó.
Đại Lợi buồn bã vì không thể đồng hành cùng Văn Thái Hà, cô chông chênh đơn độc đi về phía Nam nhưng đã lỡ mất cơ hội tham gia vào đội ngũ kháng Nhật cũng như quân cách mạng. Chính quyền tỉnh dừng chân ở Lâm Phần, Đại Lợi cũng tới thành phố Phần Dương cách Lâm Phần không xa. Lúc này, cô không tìm thấy những người bạn học, cũng không tìm thấy phương hướng. Bỗng nhiên, cô nghe nói chính phủ quốc dân dời đô tới Trùng Khánh, trong khi đó người chị gái Triệu Xảo Sinh và anh rể đang thành lập công ty thực nghiệp ở Trùng Khánh để chi viện cứu trợ cho cuộc kháng chiến, vậy là cô quyết định tìm cách đến Trùng Khánh. Thế nhưng, việc nước việc nhà xoay chuyển quá nhanh, chẳng ngờ chị gái và anh rể lại sắp rời Trùng Khánh đến Cam Túc để mở nhà máy cứu trợ. Đại Lợi đành phải từ bỏ kế hoạch tới Trùng Khánh, cô nhắm mắt làm liều chuyển hướng đến khu căn cứ chính quyền tỉnh lâm thời của Diêm Tích Sơn ở vùng ngoại ô Phần Dương.
Nỗi khốn khổ của Đại Lợi ở Phần Dương khiến tôi liên tưởng tới một câu chuyện cuộc đời khác. Cô gái này người Sơn Tây, tên là Đổng Biên, cùng thế hệ với Đại Lợi, cũng là con gái của nhà địa chủ. Đổng Biên cùng hai người bạn học sát cánh bên nhau, sau khi Thái Nguyên bị chiếm đóng, họ lưu lạc tới Lâm Phần. Nhưng họ lại may mắn hơn nhiều vì được tham gia vào đội lính nữ của quân cách mạng. Đội trưởng của họ chính là Lý Bá Chiêu - phu nhân của Dương Thượng Côn. Không lâu sau, Lý Bá Chiêu đã đem đội lính nữ tới Diên An. Đổng Biên sống trong địa đạo ở Diên An, tiếp tục học tập, rèn luyện nâng cao, về sau được phân bổ công tác, còn được điều tới Văn phòng Nghiên cứu chính trị của Đảng cộng sản Trung Quốc. Chủ nhiệm của Văn phòng Nghiên cứu chính là Mao Trạch Đông, phó chủ nghiệm là Trấn Bá Đạt. Đổng Biên cần mẫn làm việc ở đây, rồi quen biết người chồng của cô sau này, chính là Điền Gia Anh. Sau này, Đổng Biên giữ chức lãnh đạo của tờ Phụ nữ Trung Quốc nổi tiếng trong suốt thời gian dài ở Bắc Kinh. Than ôi, cùng là những người rời bỏ gia đình đi theo kháng chiến, cùng là những nữ sinh theo học ở thành phố, cùng có tấm lòng hy sinh báo quốc, chia ly muôn nẻo, vậy mà số phận lại khác nhau đến vậy.
Thiếu nữ Triệu Đại Lợi theo chân hai nhân viên của chính quyền Diêm Tích Sơn di chuyển từ khu căn cứ ở Phần Dương tới Khắc Nan Pha.
Bà cụ kể, bà đã nằm trên trên lưng con la, khổ cực vượt quãng đường bảy ngày bảy đêm mới tới được Khắc Nan Pha. Nơi đây, những dải núi hoàng thổ nhấp nhô vô tận. Sông Hoàng Hà gầm thét cuộn trào dưới chân. Thác nước Hồ Khẩu, sóng lớn vỗ bờ, tung lên ngàn lớp tuyết, giang sơn tươi đẹp biết bao, thời đại sản sinh ra những đấng hào kiệt. Ở đình Vọng Hà vẫn còn khắc đôi câu đối đánh đuổi kẻ thù do Diêm Tích Sơn đích thân sáng tác, hôm nay đọc lại vẫn đủ sức lay động lòng người:
“Cừu đới ngẫu đăng lâm, khán hoàng lưu bành vi, trực hạ long môn, tẩu thạch dương ba, đào bất tận thiên cổ anh hùng nhân vật;
Phong vân mãng liêu khoát, chính hồ mã tung hoành, dục khuy Hồ Khẩu, trừu đao đoạn thủy, thệ thu phục vạn lý phá toái sơn hà!”
Đại ý như sau:
Khoác áo ngao du, sông lớn cuồn cuộn, Long Môn sóng xô, vượt núi đạp sóng, anh hùng ngàn năm chẳng bị xóa nhòa;
Gió mây muôn trùng, ngựa chiến tung hoành, quyết giữ Hồ Khẩu, rút đao chém nước, thề thu phục vạn dặm sơn hà nát tan.
Quả là câu đối hay!
Sơn hà tan nát, con tim Đại Lợi sao mà không nát tan cho được.
Vấn đề nằm ở chính điều này, Đại Lợi rời bỏ gia đình, phiêu bạt muôn nơi, không có bạn bè sát cánh, cũng chẳng có tập thể để nương tựa. Cô mất đi thân phận, trở thành một người thoát ly khỏi xã hội. Trong suốt chặng đường, cô vẫn chưa thể thoát khỏi cái bóng nặng nề của mạng lưới quan hệ trong gia đình hào môn, mỗi bước đi của cô vẫn nằm trong vòng tròn quan hệ với người thân và bạn bè. Lúc từ Phần Dương xuất phát, chính vị quan huyện quen biết với gia đình cô đã ra tay giúp đỡ. Khi tới Khắc Nan Pha, cô kiệt sức, cô đơn. Cô nhớ nhà, yếu đuối. Cô vốn là một tiểu thư yêu kiều. Cô bất lực, muốn được nghỉ ngơi. Cô ấy sẽ dừng chân ở nơi nào đây?
Như đã đề cập trước đó, tướng lĩnh cấp cao Triệu Thừa Thụ thuộc quân đội Diêm Tích Sơn và hai người chú của Đại Lợi là Triệu Đình Ngọc và Triệu Đình Anh đều tốt nghiệp khóa 5 trường quân sự Bảo Định. Lúc này, Triệu Thừa Thụ dẫn quân xuất chinh tác chiến, gia quyến của ông phải tạm lánh trong hang động ở Khắc Nan Pha. Cuộc sống trong hang động ấm áp biết nhường nào, thiếu nữ Triệu Đại Lợi đã đến bước đường cùng, chỉ đành dừng chân trú ngụ trong nhà Triệu Thừa Thụ một thời gian.
Chẳng ngờ, máy bay chiến đấu của quân Nhật đã dội bom dữ dội xuống Khắc Nan Pha, bộ đội trên mặt đất “Quyết giữ Hồ Khẩu” nhằm kiểm soát bến sông Hoàng Hà, canh giữ mạn Tây. Các cánh quân ở chiến khu 2 bất chấp hiểm nguy cố thủ bên sông lớn, quyết không nhượng bộ. Nói thực, Mao Trạch Đông ở phía bắc Thiểm Tây, Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh, tám năm an toàn, vạch định chiến lược, duy trì chỉ huy lâu dài, quả thực có liên quan mật thiết với việc Diêm Tích Sơn quyết cố thủ đánh đuổi quân địch bên sông Hoàng Hà…
Lần này, Khắc Nan Pha lại một lần nữa rơi vào cảnh nguy cấp, tất cả những ai không liên quan tới việc tác chiến, đặc biệt là nhóm người gia quyến già yếu bệnh tật đều phải sơ tán đến bờ phía Tây sông Hoàng Hà để tới Thu Lâm, phía Bắc tỉnh Thiểm Tây. Triệu Đại Lợi không kìm được nước mắt. Cánh bèo dạt trôi, chiến tranh chính là vạn nỗi hiểm ác của nhân gian. Bà cụ Đại Lợi hồi tưởng: Dưới cảnh dội bom của máy bay Nhật, bà cùng đoàn người gặp nạn di chuyển tới phía Tây sông Hoàng Hà. Thuyền bè không đủ, một số người buộc phải đi đường vòng trên cây cầu treo bằng dây sắt, máy bay lượn trên đỉnh đầu, phải bất chấp mạo hiểm để trèo sang bờ bên kia. Bà còn kể, cây cầu treo rung lắc bất định, dưới chân sóng cuộn dữ dội, lần đầu tiên trong đời bà đi trên cây cầu kinh tâm động phách đến thế, đầu óc choáng váng, khiếp đảm muôn phần.
Vượt núi đạp sóng, rút đao chém nước!
Một người theo chủ nghĩa Anarchism, một thiếu nữ yếu đuối, cô đến từ đâu? Cô là ai? Cô muốn đi về đâu?
Tôi chợt nhớ tới gia đình Triệu Phùng Đông tiên sinh từng bị nhầm lẫn, người cháu gái của ông ấy là Triệu Văn Anh, bấy giờ cũng tham gia sản xuất chi viện cho tiền tuyến ở Khắc Nan Pha. Họ rõ ràng là không được gặp gỡ, vì đây đâu phải là trong phim truyền hình.
Triệu Đại Lợi vượt sông Hoàng Hà, đôi bàn chân to kiểu mới chưa từng bị bó gót sen của cô dừng bước trên vùng đất hoàng thổ phía Bắc Thiểm Tây. Cô sống ở Thu Lâm một thời gian, sau đó được tướng chỉ huy Binh trạm đưa tới Hàn Thành. Những nơi hẻo lánh đều không thể ở lại lâu dài. Cuối cùng Đại Lợi đã lưu lạc tới thành cổ Tây An. Đúng vậy, cô ấy không tìm thấy Đảng cộng sản, cũng không đi theo Quốc dân Đảng, cô đơn độc không nơi nương tựa, khó nhọc sinh tồn. Sau khi Nora bỏ đi sẽ như thế nào? Nora sau khi bỏ đi sẽ rất nguy hiểm! Lỗ Tấn từng nói: Nora bỏ đi, nếu không trở về nhà thì sẽ trở thành kỹ nữ; phụ nữ Trung Quốc, không gì khó khăn hơn việc đơn độc hành tẩu.
Triệu Đại Lợi ở Tây An, nơi dừng chân của cô vẫn không thoát ly khỏi mối quan hệ với người quen cũ. Trong số những người từng theo học khoá 5 tại trường quân sự Bảo Định cùng với Triệu Đình Ngọc và Triệu Đình Anh, ngoài Phó Tác Nghĩa và Triệu Thừa Thụ thì vẫn còn một người đồng hương Ninh Vũ nữa tên là Dương Diệu Phương. Dương là danh tướng trong quân đội Diêm Tích Sơn, từng giữ chức Tướng chỉ huy của quân đội số 6 ở Sơn Tây, Triệu Đình Anh cũng là Sư đoàn trường Sư đoàn 17 trong cơ cấu quân đội này. Trước “Sự kiện mùng 7 tháng 7”, Mao Trạch Đông đã dẫn hồng quân đi chinh chiến vùng phía Đông Sơn Tây, đối thủ đầu tiên chính là tướng quân giữ sông – Tư lệnh cảnh vệ phía Tây Sơn Tây Dương Diệu Phương. Theo các tư liệu lịch sử của Ninh Vũ, trong trận chiến này, thủ lĩnh hồng quân phía Bắc Thiểm Tây Lưu Chí Đan đã bị cánh quân của Dương bắn chết. Chẳng biết có chính xác hay không.
Sau khi kháng chiến nổ ra, Dương Diệu Phương bất hòa với chính quyền Diêm Tích Sơn, mất đi binh quyền, quân đoàn trong tay đều thuộc về người khác. Nghe nói, việc Triệu Đình Anh đầu hàng địch cũng liên quan đến biến cố này. Diêm Tích Sơn chỉ bổ nhiệm Dương Diệu Phương làm Trung tướng của văn phòng ở Tây An thuộc Bộ tư lệnh chiến khu 2, không còn dẫn quân đi đánh trận. Gia quyến của ông cũng ở Tây An. Triệu Đại Lợi ngồi xe kéo từ Hàn Thành tới nhà họ Dương, cả ngày ngồi trò chuyện với Dương phu nhân và Dương công tử, vẫn chưa tìm thấy chốn bình yên thuộc về mình.
Về sau, Đại Lợi mang nỗi niềm ưu phiền tới các vùng miền ở tỉnh Cam Túc như Lan Châu, Thiên Thủy… rồi hội ngộ với gia đình chị gái ở đây. Thế nhưng cuộc sống trong gia đình tư bản kiểu mới này lại không hòa hợp được với tâm ý của Triệu Đại Lợi. Lúc bỏ nhà ra đi, Triệu Đại Lợi đã mang theo trên người một số tiền khá lớn, khoảng hơn ba ngàn đồng. Ngày ấy, hai mươi đồng thì đổi được một lượng vàng, tính ra khoản tiền kia tương đương với 150 lượng vàng, giá trị không hề nhỏ. Kết quả, chị gái Triệu Xảo Sinh chơi mạt chược bị thua không ít tiền, nên đã lấy số tiền kia của em gái để làm vốn kinh doanh thuốc lá. Bà cụ Đại Lợi nhớ lại: Bản thân chưa từng ra khỏi nhà nên không biết những gian khổ của cuộc sống, trong người có tiền nhưng không biết dùng vào việc gì. Chị gái cần dùng thì cứ cho. Hơn nữa, những người theo chủ nghĩa vô chính phủ đều có quan niệm coi thường tiền bạc, cống hiến hết mình. Lần này anh rể mở xưởng dệt len ở Thiên Thủy là công việc làm ăn lâu dài, nên không kiếm được tiền ngay, nhà chị gái chẳng khác nào cái động không đáy. Kể từ đó, Triệu Đại Lợi trở thành một tiểu thư nghèo.
Lúc này, người cha Triệu Đình Nhã từ Thái Nguyên đã gửi thư cho hai chị em. Ông lo lắng về người con gái Mai Sinh, khuyên nhủ cô hãy thôi lưu lạc, tiếp tục đi học, vun đắp tương lai. Ông mong mỏi Đại Lợi rời khỏi Cam Túc, đến Bắc Kinh để học đại học. Đại Lợi vốn đã vô cùng bất mãn đối với việc cha mình và chú sáu làm tay sai cho địch ở Sơn Tây, bây giờ lại khuyên cô tới đại bản doanh Hoa Bắc của quân Nhật ở Bắc Kinh để thi cử, cô đương nhiên sẽ không chấp thuận. Mặc dù cô khát khao được học tập, mong mỏi được bước chân vào cánh cửa đại học, điều này không cần phải hoài nghi, nhưng số phận bị nhấn xuống bùn lầy, tổ quốc lâm nguy, khỏi lửa khắp nơi, Trung Quốc rộng lớn nhưng không thể đặt nổi một chiếc bàn học bình yên, đều do kẻ thù xâm lược Nhật Bản gây ra. Cô sao mà đọc nổi sách dưới lưỡi đao nhỏ máu? Bởi vậy, Đại Lợi đã hồi đáp cha mình rằng: “Con thà mãi lang thang khắp chốn, cũng tuyệt đối không tới khu vực chiếm đóng của quân Nhật, tiếp nhận nền giáo dục nô lệ”.
Bà cụ lặp lại câu nói trước tôi và Lý Bân: “Tôi không cần sự giáo dục nô lệ của người Nhật! Tôi không muốn tới Bắc Kinh học đại học!” Cho tới mãi hôm nay mà cảm xúc của bà cụ vẫn còn mãnh liệt đến vậy.
Sơn hà tan nát thì lý tưởng ắt cũng sẽ vụn vỡ mà thôi.
Cuộc đời trầm uất đến thế.
Tiểu thư nghèo Triệu Đại Lợi không một xu dính túi nên không thể ra khỏi nhà chị gái. Đến lúc này cô mới nhận ra, Nora quả thực không hề có khả năng đơn độc xông pha thiên hạ, tự lập tự cường. Hôm đó, Đại Lợi cùng chị gái tới Lan Châu. Cô cảm thấy hết sức buồn chán nên muốn mua vài cuốn sách để đọc. Họ đi chuyến này là để mua lông cừu cho Nhà máy cứu trợ 20 của anh rể. Người anh rể làm xưởng trưởng này từng được gọi với cái tên Lý Hồng Trinh, từng du học ở Anh chuyên ngành công nghiệp nhẹ in nhuộm dệt len. Sau năm 1949, từng làm kỹ sư cho xưởng dệt len Thanh Hà, Bắc Kinh. Nhà máy dệt Thiên Thủy mà ông thành lập năm xưa, sau này đã trở thành một doanh nghiệp lớn tại địa phương.
Chị em nhà họ Triệu vừa đến Lan Châu thì đã có ông chủ hào môn ra mặt tiếp đón. Người này không phải là ai khác, chính là con trai trưởng của Nam Quế Hinh tiếng tăm lẫy lừng thời dân quốc trong gia tộc vô cùng giàu có ở Ninh Vũ, tên là Nam Ánh Canh. Như đã nói trước đó, hai nhà họ Triệu và họ Nam từng có mối quan hệ thông gia ở đời trước. Nam Ánh Canh được Bộ tài chính của chính phủ quốc dân phân bổ công tác tại vùng Tây Bắc, giữ chức giám đốc của ngân hàng khu vực Lan Châu và ngân hàng chi nhánh Tứ Minh, trước đó còn từng đảm nhiệm chức Sở trưởng Sở số 3 thuộc Ủy ban Cứu trợ chính phủ quốc dân, địa vị hiển hách.
Thực lực của ngân hàng Tứ Minh quả không phải dạng vừa. Tại các buổi đấu giá trong những năm gần đây, người ta thường trông thấy những tờ tem phiếu cũ do ngân hàng Tứ Minh phát hành. Ngân hàng này là một trong số ít những ngân hàng tư nhân được thành lập tại Thượng Hải vào cuối thời nhà Thanh, do người Ninh Ba điều hành, Tứ Minh cũng chính là tên gọi khác của Ninh Ba, đến thời dân quốc thì được các quan viên đổ vào số vốn hùng hậu, phát hành tiền giấy rộng rãi, kinh doanh rất nhiều hạng mục, nguồn tài chính khổng lồ, đại bản doanh của nó nằm ở Thượng Hải, giữ vai trò không nhỏ đối với huyết mạch kinh tế toàn quốc. Xưa kia, thanh thế của thương dân Sơn Tây được mô tả qua câu nói: “Thủ lĩnh tài chính toàn quốc” hay “Ở đâu có chim sẻ, ở đó có thương nhân Sơn Tây”, đến thời dân quốc, câu nói này nên dành tặng cho những ngân hàng mới như Tứ Minh. Kháng chiến nổ ra, trụ sở của Tứ Minh được chuyển từ Thượng Hải đến Trùng Khánh, sau đó còn thành lập những ngân hàng chi nhánh ở các vùng hậu phương kháng chiến lớn như Tây An, Lan Châu…, hơn nữa vẫn duy trì hoạt động với một lượng tiền giao dịch đáng kể.
Không rõ từ khi nào, gia tộc nhà Nam Quế Hinh giàu có đất Ninh Vũ đã can thiệp vào việc vận hành Tứ Minh, không những vậy đại công tử Nam Ánh Canh còn tới Lan Châu đảm nhận chức Giám đốc của Bộ Tài chính. Không khó để tưởng tượng, trong những năm tháng đầy biến động, ở một vùng đất xa xôi, công tử nhà họ Nam lại có dịp tương phùng với chị em nhà họ Triệu, nhiệt huyết dâng trào, muôn phần cảm khái! Người của hai nhà có dùng bao nhiêu ngôn từ cũng không bày tỏ được hết nỗi niềm.
Bất ngờ hơn, chính việc gặp gỡ nơi đất khách tha hương của những người trẻ tuổi trong hai nhà Nam, Triệu đã tạo ra bước ngoặt rất lớn cho số phận về sau của Đại Lợi.
Số phận, ngỡ là ngẫu nhiên, thực ra lại là tất nhiên.
Nam Ánh Canh sau khi biết Mai Sinh-Triệu Đại Lợi vẫn đang sống an nhàn trong nhà chị gái, không có việc gì làm, vậy là bèn lập tức ra mặt giúp đỡ. Người này cũng đủ năng lực để giúp cô chuyện này.
Cô gái trí thức Triệu Đại Lợi kể từ đó đã trở thành nhân viên của ngân hàng Tứ Minh chi nhánh Lan Châu. Cô nhanh chóng học được cách sử dụng bàn tính, đồng thời còn kiêm chức phiên dịch tiếng Trung và tiếng Anh. Nhu cầu sinh tồn còn quan trọng hơn sự khám phá, quan trọng hơn sự theo đuổi, quan trọng hơn sự phấn đấu, quan trọng hơn cả sự cứu rỗi người khác. Cô gái ấy dần rời xa những lý tưởng cách mạng mãnh liệt, bước chân phiêu bạt dừng lại tại quầy làm việc của một ngân hàng nơi hậu phương kháng chiến.
Bầu không khí ấm áp lại quay trở về với cuộc sống bằng những gam màu dịu nhẹ.
Ngoài giờ làm việc, Đại Lợi lục lại những cuốn sách văn học nghệ thuật, ngả mình trên ghế tựa nghiền ngẫm chúng. Có lẽ, cô vẫn ghi nhớ những câu nói trong bức thư thứ hai của Ba Kim tiên sinh: “Bạn phải nghe theo lời khuyên của tôi, chờ đợi tương lai. Bạn cũng đừng nên chỉ nghĩ tới hy sinh, bạn cũng cần được tận hưởng. Một cô gái mười bảy tuổi thì cũng nên sống những tháng ngày vui vẻ”.
Ở bức thư thứ năm, Ba Kim vẫn tiếp tục khuyên nhủ Đại Lợi: “Bạn chẳng qua vẫn chỉ là một đứa trẻ mười bảy tuổi. Trung Quốc vẫn còn nhiều trai tráng ba bốn mươi tuổi. Hãy để họ là lớp người hiến thân đầu tiên, chứ không phải bạn. Bạn đừng tự trách mình một cách hà khắc như thế”.
Trong bức thư thứ bảy, Ba Kim tiên sinh gửi lời nhắn nhủ cuối cùng tới Đại Lợi: “Mong bạn sống tốt!”
Vùng đất Lan Châu, Trung Quốc không có chiến sự. Nơi đây là hậu phương lớn hòa bình yên ả, đất đai bao la vô tận, lòng người trung hậu, chất phác, tràn trề tình ý ngọt ngào. Công việc ở ngân hàng tránh được phong ba bão tố, điều kiện cũng tương đối tốt. Tất thảy những điều này gần gũi hơn với nhân tính, giúp đề cao khát vọng “sống tốt” của con người.
Nhưng chẳng ai có thể ngờ được rằng, không lâu sau đó, cuộc sống bình yên lại dậy sóng dữ, bi kịch chỉ mới bắt đầu.