• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bảy bức thư bị đánh mất
  3. Trang 20

17Chiến tranh cũng không hủy hoại được chúng

Cuối cùng chúng ta cũng sắp được gặp Triệu Đại Lợi rồi.

Bà cụ và con gái sống tại một khu chung cư trong thành phố. Tôi mua cho họ hai bó hoa tươi ở tiệm hoa gần nhà, bó lớn hơn dành tặng cho Đại Lợi, còn bó nhỏ hơn dành tặng cho Triệu Kiện. Nhân viên của tiệm hoa là một cô gái trẻ, khi được hỏi về tuổi tác của người nhận hoa, tôi đáp: Một người đã chín mươi tuổi, một người đã sáu mươi tuổi, gộp vào cũng tới một trăm năm mươi tuổi, cô phải cắm cho đẹp vào đấy. Cô nhân viên của cửa hàng nói năng, lựa hoa và cắm hoa đều tỏ ra vô cùng tận tình. Bỗng dưng, tôi lại nhớ về biết bao con người và sự việc. Tôi nhớ về Triệu Tùng Bình tiên sinh đã chết thảm vào cái đêm trăng mờ gió lộng, cho tới hôm nay vụ án vẫn chưa phá được; nhớ về Triệu Phùng Đông, Triệu Văn Anh và gia đình Triệu Thiếu Vinh bị nhầm lẫn; nhớ về cụ Triệu Cấn sống bần hàn trong biệt phủ lụi tàn ở thành phố Ninh Vũ. Ông cụ vẫn ngồi bất động trong căn phòng tối tăm đó chứ? Tôi đương nhiên cũng không thể quên những người bạn cùng tham gia vào công việc này: Ông chủ Điền Mậu Minh của Kim Xương Thịnh đã dẫn tôi đi gặp các cụ già sống trên phố cổ ở Thái Nguyên, số tuổi của họ gộp lại cũng lên tới ba trăm; cảnh sát Dương Chí Cường, nhà văn Dương Chí Cương, Vương Thụ Sâm; mấy người bạn cũ cùng nghề Trương Phát, Bính Ngân và Lý Bân, bao nhiêu người chung sức như vậy, cuối cùng cũng đã tìm thấy Triệu Đại Lợi. Tôi đang suy ngẫm, tất cả những chuyện này rốt cục là vì điều gì? Chúng ta rốt cục là đang tìm kiếm thứ gì?

Kể từ sau khi lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế, những cuộc tàn sát đẫm máu chưa bao giờ ngơi nghỉ trên đất nước Trung Quốc suốt một trăm năm qua, chủ nghĩa dân tộc đã lấn át chủ nghĩa tự do cá nhân. Chống lại chủ nghĩa đế quốc, chống lại quân xâm lược, phản đối sự thô bạo của chế độ phong kiến, tất cả được trộn lẫn với nhau. Đối mặt với cách mạng bạo lực và chiến tranh ruộng đất nghiệt ngã, truyền thống phong kiến bị sụp đổ là một kết cục tất yếu mang tính lịch sử, song dường như nó vẫn còn tồn tại mà không gặp phải trở ngại, tức là vẫn chưa thực sự sụp đổ! Chúng ta sùng bái sự phản bội, sùng bái sự phản bội gia đình của biết bao thủ lĩnh cách mạng, song đâu thể cắt đứt trong chốc lát. Gia đình truyền thống cũng giống như một con sông lao mình về phía trước, còn chúng ta chẳng qua chỉ là một hạt cát vàng trong con sông lớn cuộn trào này mà thôi…

Tôi lại nhớ tới tình yêu và cái chết của những thanh niên cách mạng trong Đêm chưa sáng, nhớ tới vở kịch Nora nổi tiếng của Ibsen cùng câu chất vấn: Sau khi Nora ra đi thì sẽ như thế nào?

Có lẽ chúng ta muốn tìm kiếm và chứng minh điều gì đó trong nửa đời còn lại lận đận của Đại Lợi: Cần đất nước? Cần gia đình? Cần giải phóng dân tộc hay tự do cá nhân? Những khái niệm này là riêng rẽ hay thống nhất? Chúng ta đánh giá như thế nào về Ba Kim và bộ ba tác phẩm Gia đình, Xuân và Thu của ông? Ngày nay, chúng ta đánh giá như thế nào về chủ trương của văn học hiện đại và văn học đương đại? Giữa văn học hiện đại và văn học đương đại có mối quan hệ gì? Giữa tác gia, tác phẩm và độc giả mến mộ đã sản sinh ra tác dụng như thế nào trong lịch sử?

Chúng tôi bước lên tầng lầu, Lý Bân khẽ gõ cửa.

Triệu Mai Sinh tay chống gậy, đứng giữa phòng khách mà không cần Triệu Kiện dìu đỡ. Bà nở nụ cười nhã nhặn nhận lấy bó hoa tươi thắm.

Một buổi chiều thật dài nhưng cũng thật long trọng.

Truy tìm lịch sử, thế hệ vãn bối tôn kính điều này.

Chúng tôi bắt đầu cuộc trò chuyện từ cái tên. Tuy chỉ là vấn đề nhỏ, song lại cực kỳ mấu chốt.

Tôi cần xác minh lại một lần nữa, bà cụ Mai Sinh trước mắt tôi có phải là Triệu Đại Lợi năm xưa hay không?

Lý Bân đỡ bà cụ ngồi xuống.

“Thưa bà, bà còn nhớ cái tên Đại Lợi không?”

Bà cụ Triệu Mai Sinh rướn thẳng lưng, khuôn mặt chữ điền, đeo một chiếc kính gọng vuông, tỏa ra khí chất phi phàm. Bà cụ không chút ngần ngại, hơn nữa còn vui vẻ nhớ lại: “Hồi ấy tôi học ở trường nữ sinh Thái Nguyên, chơi rất thân với vài người bạn học. Chúng tôi đều không thích tên thật vì nghe quê mùa, vậy là một người bạn học họ Hồ đã lấy cái tên mới là Yến Lợi, nghe rất hay, tôi gọi là Đại Lợi, còn một người bạn họ Đỗ, mãi mà không nghĩ ra được cái tên nào ưng ý, vậy là chúng tôi gọi cô ấy là Hắc Lợi, còn bảo rằng màu đen (hắc sắc) và màu xanh tím than (đại sắc) cũng gần như nhau! Cô bạn này cũng chấp nhận. Vẫn còn một người bạn thân khác tên là Văn Thái Hà, đặt cho cô ấy cái tên Xá Lợi mà không chịu, vậy là vẫn gọi Văn Thái Hà. Thái Hà sống ở phố Thượng Mã, còn nhà tôi ở phố Pha Tử, quan hệ thân thiết lắm”.

Bà cụ quả đúng là Triệu Đại Lợi! Đầu óc bà vẫn còn minh mẫn, tôi rất lấy làm vui sướng.

Tiếp theo đây chúng tôi sẽ bàn về chuyện đọc sách để tiện cho việc tiếp cận Ba Kim.

Bà cụ Đại Lợi hiện giờ đã xác nhận tên gọi này rồi, hơn nữa còn dùng giọng Sơn Tây vô cùng quen thuộc để kể chuyện, điều này khiến tôi cảm thấy lịch sử đang tiến tới rất gần, không còn xa vời nữa. Bà còn nhớ rất rõ tên của những nhà lý luận cách mạng như: Kropotkin, Goldman… Thậm chí bà còn nói được tên của người sáng lập chủ nghĩa vô chính phủ Mikhail Bakunin. Đó là một nhà tuyên truyền vĩ đại đã đặt lý tưởng cá nhân, tự do cá nhân và đạo đức cá nhân lên hàng đầu. Rõ ràng, nền tảng tư tưởng của Triệu Đại Lợi thời trẻ cũng được vun đắp trên giấc mộng không tưởng cấp tiến, đồng thời còn coi trọng tinh thần và đạo đức của cá nhân một cách cực đoan, nêu cao sự bình đẳng vô điều kiện về quyền lợi giữa nam giới và nữ giới.

Tinh thần đấu tranh cá nhân của những người theo chủ nghĩa Anarchism đã báo trước bi kịch của họ trong cách mạng chính đảng ở Trung Quốc…

Trong thời đại khai sáng ấy, sách văn học nghệ thuật và những vở kịch mới đã được lớp thanh niên tiến bộ coi là “Vũ khí sắc bén”. Bà cụ Đại Lợi tiếp tục câu chuyện:

Cha tôi từng sang nước Anh du học, vốn là một người được khai sáng đầu óc, nhưng ông ấy và các anh trai tôi lại xem những cuốn sách lý luận đó là thứ của “Cánh tả”, họ chẳng ưa gì cách mạng bạo lực. Về chuyện tôi yêu thích tác phẩm văn nghệ thì lại không can thiệp nhiều. Chúng tôi đọc sách của Lưu Sư Phục, đọc cuốn Đi về phía ánh sáng của Trịnh Chấn Đạc, đọc tác phẩm của Ba Kim, Mao Thuẫn…, song bất luận thế nào cũng không sao mà đọc hiểu được Lỗ Tấn, cho tới bây giờ tôi đọc vẫn không hiểu! Đương nhiên là đọc sách của Ba Kim nhiều hơn và cũng thích nhất Ba Kim. Ngày ấy ở Thái Nguyên không mua được cuốn Gia đình mới phát hành của Ba Kim, đó là vào ngày sinh nhật của chị gái tôi, anh rể đã mang cuốn sách này tới làm quà tặng. Tôi đã say mê nó ngay lập tức. Trùng hợp thay, trong lúc ở nhà xem báo Đại Công, tôi bất chợt thấy trong đó có đăng một đoạn nhật ký hồi tưởng của Ba Kim, do tôi ảo tưởng hão huyền nên đã viết thư cho Ba Kim tiên sinh, không biết địa chỉ nên chỉ đành nhờ tòa soạn này chuyển giúp cho Ba Kim. Lúc ấy tôi đang mắc bệnh sốt ban đỏ song vẫn gượng dậy cố viết cho được bức thư đầu tiên, tôi nói về cảm nghĩ đọc sách của bản thân, nói về lý luận của chủ nghĩa hư vô. Tôi vẫn nhớ buổi tối hôm đó đã thắp nến để viết. Tôi chỉ muốn rời khỏi ngôi nhà đó, cống hiến cho cách mạng xã hội. Thật không ngờ, Ba Kim tiên sinh đã gửi thư hồi âm ngay sau đấy. Trong thư, tôi thấy ông nói tôi chính là Cầm! Tôi cho các bạn học đọc nó, chúng tôi đều hết sức vui sướng, mấy người Văn Thái Hà bảo rằng, còn không mau hồi âm cho người ta đi!


Ở cuối bức thư đầu tiên, Ba Kim đã cho Đại Lợi biết địa chỉ gửi thư trực tiếp.

Tôi thực sự không ngờ được rằng, cho đến tận hôm nay, cụ Đại Lợi vẫn có thể đọc thuộc lòng đoạn câu chữ mà Ba Kim đã viết trong bức thư thứ hai: “Tôi cũng từng nói như vậy khi viết thư cho một thiếu niên mười tám tuổi khác. Xã hội quá đen tối, tình người quá phức tạp. Bạn chỉ là một chú chim nhỏ chưa mọc đủ lông, bạn vẫn chưa thể tự do bay lượn trên bầu trời, bởi vì ở đó sẽ có muôn vàn đại bàng đang trực chờ để xâu xé bạn”. Bà cụ lại trở về thời học sinh của mình, lời kể hết sức đơn thuần. Triệu Kiện và Lý Bân ngồi nghe bên cạnh, trố mắt kinh ngạc nhìn tôi, xem chừng như muốn hỏi: “Quả thật có đoạn này ư?” Tôi nói: “Cháu đã được đọc đoạn này, Ba Kim tiên sinh còn khuyên bác đừng nên chỉ nghĩ tới hy sinh, một người thiếu nữ cũng cần được tận hưởng và sống những tháng ngày vui vẻ”. Bà cụ liền nói: “Đúng vậy, đúng là có những lời này”. Tiếp đến, bà cụ nhắc tới Tiêu San trong sự trầm tư, nói rằng về sau từng được đọc thư mà Ba Kim gửi cho Tiêu San, trong đó cũng có ý khuyên nhủ cô ấy kiên nhẫn học hành. Về điều này thì tôi vẫn chưa xác minh được, sau này sẽ điều tra thêm.

Cô Triệu Kiện luôn nở nụ cười trên mặt nhìn người mẹ già. Bấy giờ mới bảo tôi rằng: “Anh có mang thư đến không? Có thể cho chúng tôi đọc không?” Tôi đáp: “Đương nhiên rồi, đây là việc tôi nên làm. Chỉ có điều thư cũ dễ bị rách, không tiện mang theo, tôi đã in ra một bản để tặng lại cho hai người”.

Cụ Đại Lợi ngước mặt lên đăm chiêu nói: “Đã mấy chục năm trôi qua, thực không dám tin số thư ấy vẫn còn được lưu giữ”. Hồi đó lúc bỏ nhà đi, bà đã đem cất một ít sách và gói thư này trên trần nhà, có một viên gạch hình vuông trên đó có thể dịch chuyển. Bà cụ nhớ lại, sau năm 1949, bà thấy “Anh ba không thích đọc sách”, anh ba còn nói từng phát hiện bà giấu sách trên trần nhà, giống như sách của Đảng cộng sản, cho nên đã đốt hết sạch. Nói vậy tức là, anh ba đã bắt gặp số sách kia và đem đốt đi, nhưng lại không phát hiện ra gói thư này.

Tôi cho bà cụ hay, ngôi biệt phủ về sau được xưởng công binh 247 bán cho chính quyền thành phố Thái Nguyên, khi phá dỡ để cải tạo đô thị, người ta đã tìm thấy gói thư này và chuyển tới tiệm đồ cổ nên mới được cất giữ.

Bà cụ gật đầu, cảm thán: Chiến tranh cũng không hủy hoại được chúng.

Tôi biết, chủ đề nhẹ nhàng sắp sửa qua đi, một trang mới nặng nề sắp bắt đầu.

Quân Nhật kéo đến rồi.

Chúng tôi đã tránh nhắc tới chuyện cha bà là Triệu Đình Nhã và chú sáu Triệu Đình Anh làm tay sai cho địch. Câu chuyện bắt đầu từ sau khi Đại Lợi bỏ nhà ra đi. Trong suy nghĩ của nhiều người trung niên và cao tuổi, quá khứ và hiện thực luôn được hòa trộn vào nhau. Chúng ta thường hay nghe: Hồi còn nhỏ như thế này như thế kia, mượn nó để phát biểu cảm tưởng, dựa vào đó để mà chỉnh đốn những sai lầm trong cuộc sống hiện thực. Đúng vậy, con người trưởng thành trong thời thơ ấu và thanh thiếu niên, ảnh hưởng của nó không thay đổi trong suốt cuộc đời. Cho dù là trong cuộc sống hay trong giấc mơ thì quá khứ vẫn luôn có một vị trí vững chắc. Chúng ta xem xét lại quá khứ để phát hiện ra những điều mới mẻ. Cuộc phỏng vấn với cô Đại Lợi không ngừng được phát triển và thúc đẩy, cô Triệu Kiện đôi chỗ lại có những bổ sung sinh động. Có lẽ là do ngày thường cô đã nghe mẹ mình nhắc tới nhiều lần.

Ở đây, trước tiên tôi xin được tóm lược đôi chút về bối cảnh lịch sử:

Tháng 9.1937, quân Nhật men theo tuyến đường quốc lộ Bắc Kinh – Tuy Viễn để đổ bộ vào mạn Bắc tỉnh Sơn Tây. Quốc dân đảng và Đảng cộng sản đã thành lập mặt trận thống nhất dân tộc kháng Nhật. Diêm Tích Sơn làm Tổng tư lệnh chiến khu 2 do chính phủ quốc gia hoạch định; Chu Đức, Vệ Lập Hoàng, Hoàng Thiệu Hoành cùng một số người khác giữ chức Phó tổng tư lệnh; hai quân đoàn lớn số 6 và số 7 của Sơn Tây - Tuy Viễn; quân đoàn kỵ binh Triệu Thừa Thụ; quân đoàn số 13 của Tưởng Giới Thạch và quân cách mạng quốc dân thuộc hồng quân chủ lực Đảng cộng sản Trung Quốc đã anh dũng hành quân tới vùng phía Bắc Sơn Tây, hợp sức chống lại kẻ địch. Diêm Tích Sơn đích thân tới chỉ huy doanh trại tiền tuyến. Trong và ngoài thành Nhạn Môn Quan, khói lửa nghi ngút, tiếng pháo đạn rung chuyển trời đất. Một mặt, chiến đấu quân sự ở tiền tuyến diễn ra hết sức tàn khốc, mặt khác, cả vùng đất Sơn Tây dân tình sục sôi, quần chúng từ thành thị tới nông thôn dốc toàn lực chi viện cho tiền tuyến cả về chính trị lẫn kinh tế. Diêm Tích Sơn vì đại cục mà kêu gọi các đảng phái đoàn kết, cùng nhau cứu quốc, hình thành nên thời kỳ hợp tác tốt đẹp nhất từ trước đến nay giữa Quốc dân đảng và Đảng cộng sản. Tỉnh Sơn Tây được chia thành bảy khu hành chính, có ba chuyên viên quản lý với tư cách là thành viên của Đảng cộng sản Trung Quốc; đồng thời ủng hộ Đảng cộng sản thành lập Ủy ban Vận động mặt trận cách mạng dân tộc mang tính chất phân quyền ở Sơn Tây, thống lĩnh 10 đội du kích, dũng mãnh dốc sức hỗ trợ Hội Đồng minh hy sinh cứu quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, phát động quần chúng, chiêu mộ binh lính, tập hợp được hàng vạn quân tinh nhuệ cho quân đội mới.

Sở dĩ đề cập tới điều này là vì muốn chứng minh rằng, lớp thanh niên đang ở tiền tuyến chiến khu 2, kẻ thù ngay trước mắt, họ một lòng báo quốc, tổ quốc đang bức thiết kêu gọi, họ không còn phân định rạch ròi ai thuộc Quốc dân Đảng, ai thuộc Đảng cộng sản, chỉ cần là bộ đội kháng Nhật hợp pháp thì đều phải nhiệt huyết tham gia, chỉ cần là công cuộc kháng Nhật, toàn thể nhân dân sẽ dốc sức thực hiện. Nhưng ai đâu ngờ, cuộc đấu tranh giai cấp sau năm 1949 lại có sự khác biệt rõ rệt đến thế. Vận mệnh chìm nổi của chiến hữu lại trái ngược hoàn toàn.

Vào buổi đầu của cuộc kháng chiến, toàn tỉnh Sơn Tây có 1,18 triệu thành viên của Hội Nông dân cứu quốc, hơn 60 vạn thành viên của Hội Phụ nữ cứu quốc, gần 1,2 triệu thành viên của Hội Thanh niên cứu quốc; những thanh niên tham gia vào Hội Đồng minh hy sinh, Hội Chiến uỷ, Hội Đồng chí và tổ chức chính phủ các cấp, họ không phân biệt Quốc dân Đảng hay Đảng cộng sản, với số lượng vô cùng đông đảo. Mọi người vững tin vào chính phủ quốc gia, họ cho rằng tham gia vào những tổ chức này chính là cứu quốc, phần lớn mọi người đều không bận tậm đến sự khác biệt lớn, thậm chí là mâu thuẫn sâu sắc còn đang tồn tại giữa các đảng phái. Nếu hỏi “Ai là kẻ thù của chúng ta, ai là bạn của chúng ta?”, vậy thì những con người của thời ấy sẽ không chút do dự mà trả lời rằng: Quân Nhật tàn bạo là kẻ thù chung của chúng ta, tất cả những người anh em tham gia kháng Nhật đều là bạn của chúng ta! Triệu Đại Lợi và những người bạn học của cô chắc cũng sẽ trả lời như vậy. Vào thời điểm đó thường xuất hiện tình cảnh như thế này: Thanh niên trai tráng trong làng tòng quân kháng chiến, kết quả là một số gia nhập bộ đội của Quốc dân Đảng, một số lại trở thành chiến sỹ của Đảng cộng sản, song họ đều cảm thấy không có gì khác biệt. Tương tự, sinh viên cách mạng trong cùng một lớp được phân bổ đi phục vụ chiến tuyến, kết quả là một nhóm gia nhập Quốc dân Đảng, còn một nhóm trở thành người của Đảng cộng sản. Nhưng không ai suy xét sâu sa, phân biệt rạch ròi, dù sao cũng đều là trận địa Trung Hoa đánh đuổi quân Nhật, theo đuổi tiến bộ. Năm 1937, một khẩu hiệu hào hùng vang khắp vùng đất Sơn Tây: “Thà hy sinh ở Sơn Tây còn hơn lưu vong nơi đất khách!”

Quân Nhật đã vấp phải sự kháng cự quy mô lớn chưa từng thấy ở Sơn Tây. Chiến tranh hết sức tàn khốc. Vì nhiều nguyên do nên giai đoạn lịch sử bi tráng do Diêm Tích Sơn làm tổng chỉ huy, quân dân Trung Quốc đã anh dũng đổ máu này lại không được thế hệ sau biết tới nhiều, càng chẳng mong chờ nhận được sự coi trọng của nền văn học lịch sử chính thống. Thật đáng tiếc khi tôi không thể khai thác nó trong tác phẩm này.

Đây là bản sử thi bất hủ khí thế nuốt trọn sơn hà của liên quân Trung Quốc đánh đuổi kẻ thù xâm lược, sớm muộn nó cũng tìm lại được sự công bằng trên thế gian. Trong chiến dịch này, Diêm Tích Sơn đã nổi giận bắn chết thủ lĩnh bại trận Lý Phục Ưng; trên chiến trường trực diện, tướng lĩnh Hác Mộng Linh cùng nhiều tướng chỉ huy khác đã hy sinh thân mình cứu quốc, quan binh của quân ta số người hy sinh lên tới gần một vạn, bị thương hơn hai vạn. Theo tư liệu lịch sử được xuất bản chính thức của Ủy ban Văn hóa lịch sử Sơn Tây: “Quân ta đã ồ ạt nã vào kẻ địch hơn tám vạn phát đạn của xưởng công binh Thái Nguyên.” “Vào thời điểm ác liệt nhất của cuộc chiến tranh, từ sáng sớm đến lúc hoàng hôn, trên chiến trường rộng chừng ba dặm mà có tới 10 quân đoàn hy sinh, bình quân cứ khoảng mỗi giờ lại có một quân đoàn hy sinh… Sau 23 ngày chiến đấu anh dũng, quân Nhật bị thiệt hại nặng nề với hơn ba vạn lính bị thương vong. Bi thương thay, quân đội quốc gia trên tuyến đường Bình Hán thuộc chiến khu 1 bị bại trận ở khu vực Thạch Gia Trang, nhiều quan ải ở núi Thái Hành Sơn mạn phía Đông Sơn Tây hiện lên trần trụi dưới hỏa pháo của quân Nhật, Nương Tử Quan bị thất thủ vào ngày 26.10, khiến cho chiến trường Hân Khẩu bị kìm kẹp trong vòng vây của địch. Toàn tỉnh trong tình trạng khẩn cấp! Quân ta buộc phải rút lui và phòng thủ về Thái Nguyên, cuộc kháng chiến càng trở nên gian khổ hơn. Tới đêm ngày 8.11, Thái Nguyên bị rơi vào tay kẻ thù. Quân ta đã mở ra một cuộc kháng chiến chống Nhật kéo dài tám năm ở Sơn Tây, quân đội Sơn Tây thề chết bảo vệ quê hương, quyết không rút khỏi chiến trường Sơn Tây.

Trong cuộc kháng chiến Tấn Bắc và chiến dịch Hân Khẩu, Quốc dân Đảng và Đảng cộng sản đã kề vai chiến đấu, kinh động đất trời. Những tướng lĩnh cấp cao của Quốc dân Đảng và Đảng cộng sản tham gia vào chiến dịch này gồm có:

Diêm Tích Sơn, Hoàng Thiệu Hoành, Trương Bồi Mai, Vệ Lập Hoàng, Thang Ân Bá, Phó Tác Nghĩa, Vương Tĩnh Quốc, Tục Phạm Đình, Lương Hóa Chi, Triệu Thừa Thụ, Ninh Siêu Vũ, Hác Mộng Linh, Lý Phục Ưng, Dương Ái Nguyên, Tôn Sở, Đặng Tích Hầu, Tôn Liên Trung, Tằng Vạn Chung, Trần Trường Tiệp, Dương Trừng Nguyên, Quách Tông Phần, Cao Quế Tư, Lưu Mậu Ân, Lưu Gia Kỳ, Lưu Đình Trân, Khương Ngọc Trinh, Lý Mặc Am, Lý Gia Ngọc, Bùi Xương Hội, Chu Hoài Băng, Lưu Phụng Tân, Chương Vũ Chủng, Mạnh Hiến Cát, Lương Giám Đường, Phương Khắc Du, Châu Đại, Phùng Khâm Tai, Đổng Kỳ Vũ, Đỗ Khôn, Mã Diên Thủ;

Chu Đức, Chu Ân Lai, Bành Đức Hoài, Lưu Bá Thừa, Hạ Long, Lâm Bưu, Bành Tuyết Phong, Nhiếp Vinh Trăn, Từ Hướng Tiền, Hoàng Khắc Thành, Tiêu Khắc, Trần Tích Liên, Trần Tái Đạo, Trình Tử Hoa…

Họ đều là những tướng quân đại danh lẫy lừng. Nương Tử Quan thất thủ, dẫn đến chiến cục ở phía Bắc Sơn Tây đột ngột xoay chuyển, trở thành bước ngoặt đau thương trong cả chiến dịch. Diêm Tích Sơn có câu thơ như sau: “Nếu Nương Tử Quan không bại, Hân Khẩu đâu chỉ hai mươi ba!” Đúng vậy, nếu không phải bị kìm kẹp trong vòng vây của địch, quân ta dũng mãnh đánh trả quân Nhật ngang ngược thì trận chiến ở Hân Khẩu tuyệt đối không chỉ có hai mươi ba ngày, mà sẽ còn kéo dài hơn thế.

Địch mạnh ta yếu, cuộc kháng chiến đâu thể sớm mà kết thúc được.

Quân Nhật chiếm đóng thành phố Thái Nguyên, Triệu Đại Lợi, cô ấy sẽ đi về đâu?

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 23
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 23
  • Sau