Trước khi kể tiếp toàn bộ câu chuyện, chúng ta hãy nghiên cứu về bức thư thứ ba mà Ba Kim gửi cho Đại Lợi. Sở dĩ xếp nó vào bức thứ ba, là căn cứ vào ngày tháng được viết ở phần kết, nhưng không đề rõ năm nào. Bức này gồm hai trang, dùng loại giấy viết dọc hàng dài, ở mép dưới bên trái có in dòng chữ “Khai Minh B20 x 20”, rõ ràng đây là loại giấy của hiệu sách Khai Minh. Chất giấy khá tốt, toàn thư không có chữ nào bị mất hay biến dạng.
Trong bức thư này, nhà văn Ba Kim vẫn lược bớt xưng hô ở đầu thư, trực tiếp khai bút:
Có lẽ tôi nên thỉnh cầu cô thứ lỗi, tôi đã nhận được hai bức thư của cô nhưng tới giờ mới hồi âm, cô không trách tôi hành sự chậm chạp chứ?
Cô lại gửi tiền đến, tôi phải dùng nó để mua sách gửi lại dù cô đã dặn rằng: “Đem số tiền ấy cho những người không có cơm ăn”, tôi xin cảm tạ lòng tốt của cô. Thực tế thì tôi cũng thường hay cho người khác tiền, bởi lẽ mình tôi cũng chẳng chi tiêu gì, mà người cần dùng tiền thì vẫn còn nhiều lắm. Nhưng tôi không thể nhận không tiền của cô như vậy được, tôi nghĩ cô cũng cần tiền để mua sách, bởi vậy mà về sau tôi sẽ bất chợt mua ít sách gửi lại. Tôi được hiệu sách tặng vài cuốn Mười năm, tôi sẽ tặng lại bạn một cuốn.
Trường học đã khai giảng, chắc bạn cũng trở nên bận rộn rồi nhỉ? Tôi bận đủ mọi thứ việc suốt cả ngày, cũng viết lách được chút ít. Thời tiết không được tốt, con người dễ sinh bệnh. Hai hôm nay trời dần trở lạnh, tôi phải sáng tác chăm chỉ hơn mới được. Tôi rất muốn cuốn Xuân được hoàn thành sớm, sau đó sẽ rời Thượng Hải để tới nơi khác dạo chơi, quan sát xã hội nhiều hơn, trải nghiệm cuộc sống nhiều hơn.
Tiểu thuyết của Zola rất hay, nhưng tiếc là Trung Quốc chưa có bản dịch. Tôi đã đọc rất nhiều sách của ông ấy, nhưng ngoài một hai cuốn thì còn nhiều cuốn khác tôi thực sự không dám đọc. Bạn thấy truyện ngắn của ông ấy thế nào? Nếu có thời gian thì hãy kể cho tôi đôi điều về cuộc sống của bạn được không?
Gửi bạn cuốn Diệt vong, vì đây là bản được hiệu đính mới nhất, hơi khác so với bản trước đây. Gửi bạn cuốn Bộ ba tiểu thuyết tình yêu, hy vọng bạn sẽ đọc lời đề tựa. Gửi bạn cuốn Hồi tưởng, xem như đọc tự truyện của tôi.
Chúc tốt lành.
Kim, ngày ba mươi mốt tháng Tám
Qua phân tích, bức thư này có lẽ vẫn được viết trong năm 1936, bởi lẽ có câu: “Tôi rất muốn cuốn Xuân được hoàn thành sớm”. Như đã đề cập trước đó, cuốn Xuân hoàn thành bản thảo vào mùa xuân năm 1938 và được xuất bản vào tháng 4. Do đó có thể suy đoán, bức thư này khó có khả năng được viết vào tháng 8.1938. Vậy có thể nào nó được viết vào khoảng thời gian giữa hai năm, tức ngày 31.8.1937? Khả năng này cũng cực kỳ nhỏ. Một là, có thể suy đoán dựa vào những sự kiện lịch sử được đề cập ở những bức thư sau. Hai là, tình hình Thượng Hải vào năm 1937 đã xảy ra biến động lớn, song trong thư này, Ba Kim lại không hề nhắc tới. Bối cảnh cụ thể như sau: Vào ngày 13.8.1937, quân Nhật phát động cuộc tấn công vào Thượng Hải, làm nổ ra phong trào cứu quốc của nhân dân ở thành phố này. Ngày 16.8, Ba Kim đã cho ra đời tác phẩm Một chút cảm tưởng đầy nồng nhiệt, sau đó còn liên tục sáng tác những áng thơ hào hùng như: “Tự do bật khóc trong bóng tối”, “Dành cho người đã khuất”, “Khúc ca tiến lên Thượng Hải”…, ngợi ca tinh thần chiến đấu quyết tử với kẻ địch của quân dân Thượng Hải, lên án sự tàn bạo đẫm máu của kẻ thù xâm lược, kêu gọi quần chúng nổi dậy kháng Nhật, “Đổ giọt máu cuối cùng trên đồng bằng Trung Quốc”. Ông vững tin tổ quốc sẽ không bao giờ bị diệt vong, “Vì những chiến sỹ quả cảm nơi tiền tuyến, vì quần chúng căm phẫn nơi hậu phương, tôi cần phải nhấc bút, chung sức đồng lòng.” Ngày 22.8, Nhà xuất bản Văn quý do Ba Kim và Cận Dĩ chủ biên đã bắt tay liên hợp với Nhà xuất bản Văn học do Vương Thống Chiếu chủ biên, Nhà xuất bản Trung lưu do Lý Liệt Văn chủ biên và Nhà xuất bản Dịch văn do Hoàng Nguyên chủ biên, để cùng nhau lập ra tuần báo văn nghệ Gào thét. Sau khi phát hành được hai kỳ, từ kỳ thứ ba được đổi tên thành Trận chiến, đến ngày 5.9 thì cho phát hành bản mới. Họ đã mượn nó để dấn thân vào cuộc kháng chiến. Có thể thấy, ngày 31.8.1937, Ba Kim tiên sinh đương cuồng nộ sáng tác và gấp rút biên soạn tờ báo kháng chiến đầu tiên của cả nước.
Ba Kim đã bình luận về Trận chiến như sau: “Những con chữ ấy là lời hô gọi của chính nghĩa và cũng là sự mô tả chân thực về máu”. Cũng trong thời gian đó, Ba Kim còn là thành viên ban biên tập của Thời báo Cứu vong, tờ báo này có Quách Mạt Nhược làm trưởng tòa soạn, Hạ Diễn làm chủ bút, A Anh làm chủ biên. Bởi vậy mới nói, Ba Kim không thể nào viết cho Đại Lợi một bức thư bình thản đến vậy vào “ngày 31 tháng 8” ngợp pháo lửa như thế, không thể nào khi đang ở trong thành phố ngùn ngụt ngọn lửa kháng chiến mà vẫn viết ra được những câu nhàn tản kiểu như: “Thời tiết không được tốt, con người dễ sinh bệnh.” Càng chẳng có nhã hứng mà ca thán: “Hai hôm nay trời dần trở lạnh, tôi phải sáng tác chăm chỉ hơn mới được”. Khi ấy, bom đạn của quân Nhật đương dội trên bầu trời Thượng Hải!
Bức thư này chỉ có thể được viết vào năm 1936, trước khi những sự kiện kia diễn ra, tức ngày 31.8.1936. Đi sâu nghiên cứu sẽ biết được, vào tháng 8.1936, Ba Kim tiên sinh bấy giờ đang phải chịu đựng sự dày vò của cuộc đấu tranh “Một trận tuyến, hai khẩu hiệu” trong giới văn nghệ Thượng Hải. Liên minh nhà văn cánh tả sau khi giải tán vào mùa xuân thì tới tháng 6 năm đó lại được khôi phục, rồi thành lập Hội Văn nghệ Trung Quốc, đề ra khẩu hiệu “Văn học quốc phòng”. Lỗ Tấn, Ba Kim và một số nhà văn khác đều không gia nhập, song cũng trong tháng đó đã công bố “Tuyên ngôn của người làm công tác văn học nghệ thuật Trung Quốc”, giương cao khẩu hiệu “Văn học đại chúng trong chiến tranh cách mạng dân tộc”. Hai phe đối đầu gay gắt một cách công khai, vết rạn nứt ngày càng sâu sắc. Đến tháng 8, các nhà văn cánh tả mà đi đầu là Từ Mậu Dung đã viết bài chỉ trích Lỗ Tấn, công kích Ba Kim, Hồ Phong, Hoàng Nguyên, Trịnh Chấn cùng một loạt nhà văn khác, sau đó còn có Đới Đôn Phục, Linh Tê, Tào Tụ Nhân, Bạch Tuyết… cùng nhau hùa vào lăng mạ Ba Kim. Vào ngày 5.8, Lỗ Tấn đang đổ bệnh song vẫn viết bức thư dài nổi tiếng “Đáp lại Từ Mậu Dung về vấn đề chiến tuyến thống nhất kháng Nhật” để phản kích lại đối thủ, bảo vệ Ba Kim và những người khác. Tới tháng 8, tháng 9 năm đó, giữa lúc hai bên luận chiến lên tới cao trào, Ba Kim cũng nhấc bút tham gia phản bác và tranh luận. Đối mặt với sự chỉ trích nặng nề, tâm trạng Ba Kim hết sức trầm uất, ông đã miêu tả tình cảnh của mình sau khi đọc những bài viết của Từ Mậu Dung như sau: “Trở về nhà lúc chạng vạng, lòng dạ vô cùng nhức nhối. Tôi chẳng buồn bật đèn, căn phòng chìm trong bóng tối. Tôi ngồi trước bàn làm việc, thẫn thờ nhìn vào bức tường màu xanh”.
Bức thư này Ba Kim gửi cho Đại Lợi, được viết ra trong một ngày u buồn đến vậy. Điều này có lẽ đã bổ sung một căn cứ nữa cho việc nghiên cứu Ba Kim. Đối với thiếu nữ thuần khiết ở vùng Sơn Tây phía Bắc xa xôi, Ba Kim tiên sinh chỉ dùng giọng điệu bình thản, điềm đạm, không hề để lộ một chút âu phiền: “Tôi bận đủ mọi thứ việc suốt cả ngày, cũng viết lách được chút ít”. Ông chẳng chút phàn nàn về cuộc sống, mà chỉ quan tâm tới người khác: “Nếu có thời gian thì hãy kể cho tôi đôi điều về cuộc sống của bạn được không?”
Điều thú vị nằm ở chỗ, trong bức thư thứ ba mà Ba Kim tiên sinh gửi cho Đại Lợi, ông đã trang trọng sử dụng từ xưng hô “cô” tới hơn tám lần. Trong khi ở hai bức thư trước, ông đều chỉ gọi là “bạn”, chưa từng dùng từ “cô”. Không rõ là vì lý do gì...
Ở đây, chúng ta khó lòng bỏ qua một chủ đề nồng nhiệt mà nhạy cảm, chính là việc phu nhân Tiêu San của Ba Kim tiên sinh bắt đầu quen biết ông từ năm nào? Sự thực cho chúng ta hay, Tiêu San lấy tư cách học sinh trung học ở Thượng Hải để viết thư ngỏ ý mong muốn được gặp Ba Kim, nữ sinh Sơn Tây Triệu Đại Lợi gửi thư cho Ba Kim cũng vào năm đó. Họ gặp nhau vào đúng tháng mà Ba Kim gửi bức thư thứ ba cho Đại Lợi. Nữ sinh Tiêu San tên thật là Trần Uẩn Trân, do từng tham gia vào phong trào học sinh mà bị trường học khai trừ, sau khi trở về quê nhà ở Ninh Ba, Chiết Giang sống một thời gian, bà đã quay lại Thượng Hải để học tiếp ở trường nữ sinh yêu nước. Trần Đan Thần tiên sinh trong cuốn Chuyện kể Ba Kim đã viết: “Có một nữ sinh tên Trần Uẩn Trân từ năm 1936 bắt đầu qua lại thư từ với Ba Kim. Năm ấy, cô gái đó mười chín tuổi, là một độc giả mến mộ những tác phẩm của Ba Kim.” Mà Ba Kim thời trẻ, tuy lớn lên ở Thành Đô, Tứ Xuyên, song nguyên quán lại ở Gia Hưng, Chiết Giang, nên việc tiếp xúc với đồng hương Tiêu San dễ dàng hơn nhiều. Tiêu San nhiệt tình lại chân thành, hơn Triệu Đại Lợi hai tuổi. Vào tháng 8.1936, cô lại gửi một bức thư tới Ba Kim, còn kèm thêm một tấm ảnh để đôi bên nhận ra nhau, và ngỏ ý mời Ba Kim tới nhà hàng Tân Nhã Việt ở số 719, đường phía Đông, Nam Kinh, để rồi bắt đầu mối tình sâu sắc trong chuỗi ngày dài của hai người. Trần Đan Thần tiên sinh cho rằng, kể từ lúc ấy Ba Kim tiên sinh “Đã để cho khuynh hướng chủ nghĩa độc thân cống hiến cho cách mạng, đặt tình yêu hôn nhân cá nhân bên ngoài sự nghiệp ở thời kỳ đầu dần nhạt phai, để nhường chỗ cho tình yêu trong sáng và mãnh liệt”.
Bức thư thứ ba này được viết vào ngày 31.8.1936, tức là cùng thời điểm Ba Kim và Tiêu San hẹn gặp lần đầu. Chúng ta khó lòng suy đoán, nếu Triệu Đại Lợi không phải sống ở vùng Sơn Tây xa xôi mà cũng ở Thượng Hải, thì phải chăng cũng có thể tiến đến gần hơn con tim đương “dần nhạt phai” với lập trường chủ nghĩa độc thân kia của Ba Kim?
Giả thiết này đương nhiên không có ý nghĩa thực tiễn. Vào thời điểm đó vốn đã có vô số độc giả nữ nhiệt tình gửi thư cho Ba Kim, họ đều còn rất trẻ. Theo tư liệu ghi chép, Ba Kim bấy giờ hiếm khi đặt chân lên phương Bắc, ông chỉ tới Bắc Bình (tức Bắc Kinh), nhưng chưa bao giờ đến vùng đất Sơn Tây xa xôi.
Tuy nhiên, qua những bức thư chúng ta cũng nhận thấy, Ba Kim tiên sinh hết sức tôn trọng tiểu thư Đại Lợi, không những vậy còn hy vọng cô gái miền Bắc này hiểu hơn về mình và mong muốn được tiếp tục giao lưu nhiều hơn.
Ba Kim đã gửi cho Đại Lợi cuốn sách mới Hồi tưởng, còn nói “Xem như đọc tự truyện của tôi”. Những độc giả quen thuộc với tác phẩm của Ba Kim đều biết rằng, Hồi tưởng quả đúng là cuốn sách tuyển tập những bài tản văn mang phong cách hồi ký của nhà văn, năm 1936 được Nhà xuất bản Văn hóa và đời sống phát hành.
Trong thư nhắc tới cuốn sách được hiệu đính Diệt vong, đó là tác phẩm nổi tiếng mà Ba Kim đã hoàn thành vào thời kỳ đầu ở một thành phố nhỏ miền Đông Paris, nước Pháp, nơi ấy được các nhà nghiên cứu gọi là “Sa Thành” (nghĩa là thành phố cát). Diệt vong sớm đã được hoàn thành vào mùa thu năm 1928. Lúc đó, Ba Kim đã gửi bản thảo cuốn sách về Thượng Hải, vốn dĩ muốn nhờ người bạn Tố Phi mang tới hiệu sách Khai Minh, tự bỏ tiền ra để in thành sách, song người bạn kia đã giới thiệu cuốn sách này tới Diệp Thánh Đào-chủ biên của tờ Nguyệt báo tiểu thuyết. Diệp Thánh Đào đánh giá cao tác phẩm, đến tháng Giêng năm sau thì cuốn Diệt vong được đăng tải nhiều kỳ trên Nguyệt báo tiểu thuyết như kỳ tích, gây chấn động văn đàn. Tháng 10 năm đó, tác phẩm được hiệu sách Khai Minh xuất bản độc quyền. Cả cuốn sách ngập trong bầu không khí bi kịch của một nhà cách mạng dám hy sinh song vẫn phải chịu thất bại. Trong thư viết: “Đây là cuốn hiệu đính mới nhất”, tức là ấn bản mới của cuốn Diệt vong.
Về cuốn Mười năm, trong thư nói rằng: “được hiệu sách tặng”, hình như do hiệu sách Khai Minh xuất bản, điều này tôi cũng mơ hồ không rõ. Bạn bè quanh tôi chưa ai từng nghe tới tác phẩm này, nên tôi cũng không biết nên tìm nhà thông thái nào để thỉnh giáo. Lên mạng tìm kiếm cũng chỉ có mớ hỗn độn không ra kết quả. Cho tới vài tháng trước, trong lúc ngồi nhâm nhi với người bạn cũ Hoàng Tân Đường của Nhà xuất bản Thanh Niên Trung Quốc, tôi lại vô tình nhắc tới khúc mắc này. Tân Đường huynh cụng chén cùng tôi rồi bảo: Tôi biết cuốn sách đó. Anh ấy ngày thường vốn đã chẳng kiệm lời, rượu vào thì lại càng hoạt ngôn hơn hẳn. Chẳng ngờ, trước những lời nói của người trong nghề như anh, mọi người bỗng dừng ngay huyên náo để lắng nghe một giai thoại trong giới xuất bản:
Hiệu sách Khai Minh chính là tiền thân của Nhà xuất bản Thanh Niên Trung Quốc.
Năm 1926, Diệp Thánh Đào tiên sinh đã thành lập hiệu sách Khai Minh ở Thượng Hải. Trải qua quãng đường phấn đấu đầy phong ba, danh tiếng của hiệu sách Khai Minh ngày càng lan xa, không ngừng nỗ lực thúc đẩy xu hướng cho trung tâm văn hóa Thượng Hải. Nó đã tập hợp được đông đảo những nhà văn ưu tú. Mười năm xuân thu với những thành tựu rực rỡ, hiệu sách này đã quyết định kỷ niệm dấu mốc ấy theo một cách đặc biệt. Chủ biên Hạ Miễn Tôn đã chân thành mời những nhà văn đương đại xuất sắc nhất đóng góp mỗi người một tác phẩm tinh tế, tập hợp lại để xuất bản, đền đáp độc giả, đó chính là cuốn Mười năm. Những nhà văn nhận lời mời đã cùng lúc chấp bút, dâng tặng những tác phẩm hay cho dịp kỷ niệm mười năm thành lập hiệu sách Khai Minh. Họ đều là những nhà văn tiếng tăm vang dội: Lỗ Ngạn, Lão Xá, Trương Thiên Dực, Cận Dĩ, Vương Thống Chiếu, Ngô Tổ Tương, Thi Chập Tồn, Lý Kiện Ngô, Đinh Linh, Lăng Thúc Hoa, Tiêu Càn, Tiêu Quân, Kiển Tiên Ngải, Trịnh Bá Kỳ, Ngải Vu, Sa Đinh, Lô Phân, Thẩm Tùng Văn, Chu Văn, Mao Thuẫn… Ba Kim cũng tham gia với với truyện ngắn Sao. Đây chính là một tuyển tập nhiều tác phẩm mang ý nghĩa kỷ niệm, thể hiện mặt trận mạnh mẽ giàu thực lực của một thế hệ văn đàn. Sau đó, còn một số nhà văn nổi tiếng đương thời khác đã gửi bản thảo muộn, nghe nói được bổ sung vào cuốn Mười năm – phần tiếp theo. Tóm lại, cuốn sách Mười năm quả chẳng tầm thường, vậy mà tôi lại nông cạn vô tri không hay biết gì về nó.
Sau năm 1949, hiệu sách Khai Minh đã dời tới Bắc Kinh.
Sông lớn đổ về biển Đông, bao phen gió dập mưa vùi, cách mạng đã thành công. Đến năm 1953, khắp mọi miền đất nước đẩy mạnh thực hành chế độ công tư hợp doanh, là bước đi quan trọng để theo đuổi lý tưởng chế độ công hữu ở quốc gia sắc đỏ, là xu thế bất khả phản kháng. Trong tiếng pháo nổ liên thanh, mất đi khai sáng, lịch sử vẫn là thứ vô tình nhất. Ngày 12.4.1953, hiệu sách Khai Minh và Nhà xuất bản Thanh Niên trực thuộc Đoàn thanh niên cộng sản Trung ương đã hợp nhất làm một, thêm vào hai chữ “Trung Quốc”, được gọi với cái tên Nhà xuất bản Thanh Niên Trung Quốc, đồng thời thành lập ban điều hành khóa đầu. Vị chủ tịch đầu tiên đã nhận được sự chú ý lớn từ giới văn hóa và giới xuất bản, chính là Hồ Diệu Bang tiên sinh, người sau này trở thành Tổng bí thư của Đảng cộng sản Trung Quốc. Ở thời kỳ chế độ công tư hợp doanh, nếu gọi là đồng chí thì chưa chắc đã phù hợp.
Tân Đường huynh một khi đã uống rượu thì chỉ phát ngôn ra những điều kinh động lòng người.
Nhà xuất bản Thanh niên Trung Quốc sau khi thành lập đã liên tục phát hành một loạt tác phẩm kinh điển mang sắc đỏ, trong đó có Bộ ba sắc đỏ gồm: Đá đỏ, Mặt trời đỏ và Lá cờ đỏ, cùng cuốn Lịch sử lập nghiệp, xướng ca Trung Quốc. Chẳng ngờ, cuộc đại cách mạng năm 1966 đã ập tới càn quét dữ dội, vùi dập Nhà xuất bản Thanh Niên Trung Quốc, những ấn phẩm được xuất bản trước đây bỗng trở thành “cỏ độc”, bất luận là thế hệ biên tập cũ của hiệu sách Khai Minh hay những biên tập mới trong mười bảy năm qua, không ai có thể tiếp tục gồng gánh được nữa. Toàn bộ Nhà xuất bản bị buộc phải đóng cửa, nhân viên của tòa soạn đều phải về vùng nông thôn để lao động cải tạo. Đến giữa thời kỳ Cách mạng văn hóa, khi Mao Trạch Đông ủng hộ tác phẩm Lý Tự Thành của Diêu Tuyết Ngân thì Nhà xuất bản Thanh Niên Trung Quốc mới xem như được dựa hơi, bấy giờ mới dần khôi phục hoạt động.
Họ lại nếm trải hết mọi đau khổ của mười năm tiếp theo đó.
Câu chuyện vẫn chưa dừng lại. Con trai của Diệp Thánh Đào tiên sinh là Diệp Chí Thiện, ông đã vượt qua kiếp nạn, vẫn làm công việc biên tập ở Nhà xuất bản Thanh Niên Trung Quốc. Việc cấp bách nhất của giới xuất bản Trung Quốc lúc bấy giờ chính là phải lấy lại thanh danh cho một lượng lớn những tác phẩm văn nghệ bị coi là “cỏ độc”, phải cho tái bản những trứ tác này. Kết tinh của văn hóa cổ kim giữa Trung Quốc và nước ngoài không thể bị hủy hoại bởi một cuộc cách mạng cuồng bạo. Tinh thần bị đói khát! Độc giả đổ xô mua “Sách mới”, bỗng chốc, người người đọc sách, yêu sách không buông, như thể những kẻ đi trên sa mạc khô hạn lao tới ốc đảo để tận hưởng suối ngọt. Trước tình hình đó, một loạt những nhà văn hiện đại cũng cần phải lấy lại tên tuổi, họ đâu phải thành phần phản động. Vậy nên, Diệp Chí Thiện tiên sinh đã chủ trương cho in lại cuốn Mười năm của hiệu sách Khai Minh. Tới tháng 11.1984 đã viết cuốn Hậu ký tái bản cho tuyển tập những tác phẩm của loạt nhà văn hiện đại ưu tú. Cuốn sách này chính thức được xuất hiện trở lại vào năm sau đó, trở thành nhân chứng lịch sử cho số phận truân chuyên của một nhà xuất bản. Hôm nay, trên giá sách của Tân Đường huynh vẫn còn giữ cuốn Mười năm do nhà xuất bản Thanh Niên Trung Quốc tái bản. Cuốn Mười năm mà Ba Kim tiên sinh gửi cho tiểu thư Đại Lợi có lẽ là một trong số những bản sách mẫu mà hiệu sách Khai Minh tặng tác giả. Thời gian năm 1936 cũng xem như hợp lý.
Dòng thời gian không ngừng chảy, lại hơn hai thập kỷ nữa đã trôi qua, cuốn sách ấy vẫn còn trên nhân gian.
Diệp Chí Thiện tiên sinh về sau đã trở thành Giám đốc kiêm Tổng biên tập của Nhà xuất bản Thiếu niên nhi đồng Trung Quốc. Phải chăng ông ấy chính là bác ruột của nhà văn đương đại Diệp Triệu Ngôn?
Qua lời kể của Tân Đường mà hiểu rõ hơn về cuốn sách Mười năm, chuyến này thật không uổng phí.
Văn hóa lịch sử được lưu truyền theo trật tự của nó, bạn muốn “phá vỡ”, xoay chuyển thế cục ư? Chỉ có những kẻ khùng mới điên rồ như thế.
Tôi còn nhớ Tân Đường huynh còn nói thế này: Hồi ấy, những nhà xuất bản và biên tập viên trong thời kỳ dân quốc đều rất có thực lực, làm việc hết sức nghiêm túc, họ đều là những báu vật hàng đầu của giới văn hóa và xuất bản Trung Quốc. Tiếc thay, thân phận trong nghịch cảnh, họ phải chịu tội nửa cuộc đời, vậy mà chẳng nhận được sự tôn trọng và yêu quý xứng đáng. Điều này khiến tôi phải suy ngẫm, những báu vật của ngày nay đã nhận được đủ sự tôn trọng và yêu quý hay chưa?
Phải rồi, bức thư này của Ba Kim tiên sinh sử dụng loại giấy của hiệu sách Khai Minh, kiểu hàng dọc ô nhỏ, mang vẻ nho nhã.
Qua bức thư có thể thấy, Đại Lợi “lại gửi tiền đến”, và nói “Đem số tiền ấy cho những người không có cơm ăn”, Ba Kim tiên sinh cũng “thường hay cho người khác tiền”, điều này chứng tỏ những người theo chủ nghĩa lý tưởng đều xem nhẹ tiền bạc cá nhân, còn cho rằng “Mình tôi cũng chẳng chi tiêu gì, mà người cần dùng tiền thì vẫn còn nhiều lắm”. Nhìn nhận từ góc độ khác, gia đình Đại Lợi có lẽ khá giàu có. Vậy thì đó là một gia tộc như thế nào?
Bức thư thứ ba mà Ba Kim gửi cho Đại Lợi là như vậy đó.