Con hói ở làng
N
hìn tấm ảnh chụp hói chợ Biện làng bên của một người bạn, thấy cảnh ghe thuyền còn tấp nập, tôi lại chạnh nhớ những con hói ở làng tôi. Hồi sinh viên, mỗi lần về nhà, tôi hay đi đò chợ Biện và đạp xe qua bờ hói này. Chợ Biện họp vào buổi chiều nên buổi sáng, chợ chỉ lèo tèo mấy quán ăn và thêm mấy gánh bánh canh nhỏ. Chỉ chừng ấy hàng quán thôi nhưng đi qua chợ Biện vào buổi sáng khi mô cũng thấy thích thú vì mùi của bún, của cháo lòng, của bánh canh cứ quyện nhau trong một không gian nhỏ. Hai quán ăn đông khách nhất là quán cháo lòng o Mai và quán bún bò giò heo của anh Bi. O Mai là người làng Đại Lược của tôi, về làm dâu chợ Biện và mang theo bí quyết nấu cháo lòng vốn nổi tiếng ở chợ Đại Lược...
Lại nói qua về chợ Biện vì ảnh của bạn chụp con hói dẫn vô ngôi chợ này. Hồi trước, việc buôn bán chủ yếu dựa vào đường thủy nên những ngôi chợ ven phá Tam Giang hay sông Ô Lâu đều được lập gần với các bến đò và theo cách gọi dân gian là hói.
Làng tôi có các hói: bến Đa, bến Bù, bến Đình, bến Ôn Minh và bến Chợ. Trong các hói này, lẽ đương nhiên là hói bến Chợ có ghe thuyền tấp nập nhất với các chuyến đò đi Huế, Mỹ Chánh, Ưu Điềm. Các hói còn lại chủ yếu đưa đón ghe nhỏ vô, ra và phục vụ cho ngày mùa khi nông dân sang cánh đồng bên kia sông cày cấy, nên ghe thuyền tấp nập nhất là mùa gặt. Rồi phía bên kia sông, từ xa xưa cũng đã có những cái hói dẫn ghe thuyền vô những cánh đồng, để rồi chính những cánh đồng đó được gọi tên là ruộng hói Chu, hói Mít.
Hồi nhỏ, thỉnh thoảng tôi theo ba mạ đi đò sang ruộng Cồn cắt lúa. Kỳ thực, tôi chỉ làm mỗi việc là dồn lúa lại để người lớn gánh đưa lên đò. Đi gặt lúa ở bên kia sông, nhà nào cũng phải cơm đùm cá bới. Tới trưa thì cơm canh nguội cả nhưng ai cũng thấy ngon miệng. Dòng sông Ô Lâu không rộng nên đến mùa gặt nhộn nhịp hẳn khi cả mấy chục chiếc đò chở đầy lúa vàng nối đuôi nhau từ những cánh đồng ruộng Cồn theo sông vô hói và về bến.
Những cái hói nối sông với làng cũng là nơi người làm ruộng đi mua rong làm thức ăn cho heo rồi mua hến, hàu từ ghe nhỏ của ngư dân sông Ô Lâu. Mùa rong, từ sáng sớm, mấy nhà xóm vạn chài đã chèo đò đi lặn rong. Lặn với con nước mấy tiếng đồng hồ mới được một đò rong mang về. Đến trưa, họ cập đò vô các hói về bến và đứng trên đò để bán rong. Từ các xóm, người dân trong làng nhanh chân đi mua rong. Thoáng chốc, một đò rong đầy đã được bán hết. Giá rong cũng phải chăng, người bán rong chỉ lấy công làm lãi, phụ thêm phần đi chợ cùng mớ tôm con cá hằng ngày. Tôi còn nhớ có hai loại rong là rong chèo và rong đốt; rong chèo thì giá đắt hơn vì những chú ỉn thích ăn loại rong này… Rong không chỉ là thức ăn cho heo mà còn đem ủ làm phân xanh bón những gốc mướp đắng, bầu, bí…
Làng tôi có câu thành ngữ: “Đói ra hói mà ăn.” Một người chị lớn trong làng giải thích cho tôi: Hồi trước ra hói, chỉ cần đặt cái rổ xuống, chí ít cũng mò được mớ ốc, mớ hến. Có lúc may mắn còn có con tôm, con cá... đỡ khi đói lòng. Chị còn nhớ hồi nhỏ, mỗi lần về làng kỵ giỗ, ăn kỵ xong, các anh chị em trong họ nhà chị lui sau vườn quơ nè, cọng lá chuối khô bó lại thành từng bó nhỏ ra thả xuống bến dọc hói. Chỉ một quãng ngắn chưa tới 500m thôi, thả xong, đi ngược trở lại lấy lên vài lần là có rổ ốc ngon lành...
Mà những con hói ngày nay ở làng tôi đã không còn chức năng là một bến đò phục vụ ngày mùa, nơi mua bán rong như ngày trước nữa khi đã có cầu bắc qua sông Ô Lâu. Nhìn tấm ảnh hói chợ Biện lại nhớ cái cảnh ghe thuyền tấp nập của những hói bến quê nhà một thời chưa xa...