Đụn rơm

N

hững ngày mưa gió cuối thu đầu đông, cứ cuối chiều, mạ tôi lại ra đụn rơm bên vườn nhà rút một trác rơm thật to, thật chặt mang vô chái bếp. Một phần rơm để thổi lửa nấu bữa cơm tối và cả bữa sáng mai cho cả nhà. Một phần rơm bỏ cho mấy con heo, mấy con gà, con vịt... Mà lũ heo gà vịt ni cũng đã quen với hơi ấm của rơm rồi, chỉ cần chuồng trại hơi ướt át một chút là chúng đã kêu la inh ỏi, nên tối đến phải bỏ rơm khô ráo vô chúng mới chịu đi ngủ...

Ở làng quê thì nhà nào cũng có một đụn rơm thật to ở góc vườn. Khi lúa đã khô khén vào bồ, ngày mùa cuối cùng là xây đụn rơm. Những đống rơm nhỏ được un lại quanh vườn. Ba dùng chiếc mỏ sảy đôi, một loại nông cụ để phơi rơm, rồi xóc từng cụm rơm khô đưa lên; tôi và thằng em được phân công đứng trên đụn rơm to, đi vòng quanh chiếc cột trụ để cho rơm được nén xuống, cuộn chắc, không thể ướt trong những ngày mưa gió. Đụn rơm được xây cao dần, cao dần. Ba phải dùng thang để đưa rơm lên, cho đến khi đụn rơm chỉ còn như một cái chóp vừa một người đứng. Thích thú làm sao khi đứng trên cao lồng lộng, gió nồng nàn mùi rơm, mùi lúa của ngày mùa…

Một người chị là dân thành phố kể với tôi rằng: Nhớ hồi mới cưới, về quê chồng nấu cơm bằng lửa rơm. Lo toát mồ hôi vì khi thì lửa to, khi thì lửa tắt do không quen đưa rơm vô bếp cho đều. Khó khăn lắm mới nấu xong bữa ăn, người nhễ nhại mồ hôi và mặt mũi thì lấm lem tro bếp. Giờ về thăm quê nấu ăn bằng củi, bằng bếp ga, lại nhớ cái đụn cây rơm thời mới đi làm dâu nhà người. Nghe lòng man mác thương nhớ đồng quê...

Hồi đó trong xóm tôi, có nhà đặt bếp ở gần đụn rơm để tiện lôi rơm nấu cơm, kho cá... Rồi chủ quan để lửa tự cháy trong bếp, đi làm việc khác. Gặp gió, lửa bén sang cả đụn rơm. Hàng xóm phát hiện hô hoán, cả xóm người thì cào, người thì xẻng, xô, chậu; người thì chạy đi đánh kẻng để kêu dập lửa. Cũng may, lửa chỉ cháy sém nửa cái đụn rơm mà không cháy lây sang nhà. Còn nhớ cơn bão lớn năm 1985, có bác hàng xóm đưa vợ con đi trú ở nhà kiên cố trong xóm, còn bác ấy thì ở lại trông coi nhà mình và ra đụn rơm bên nhà đào một lỗ, vào đó ngồi tránh bão vừa ấm, vừa an toàn. Bão to là vậy, nhà sập nhưng cái đụn rơm thì vẫn trụ vững...

Hồi trước, người làm nông ở nhà quê thì phải có đụn rơm trong vườn nhà. Nếu đến một ngôi làng mà thấy nhà nào trong vườn không có đụn rơm thì biết ngay nhà đó hoặc là giàu có hoặc là nghèo hay neo đơn không làm ruộng được. Thực tình, sau này khi về quê, thấy nhà mình và nhiều nhà khác trong xóm, trong làng không còn cái đụn rơm nữa tôi lại thấy bối cảnh của một ngôi nhà nông thôn bị hẫng ghê lắm. Chừ thì nhìn quen rồi, những cái đụn rơm cứ vắng dần ở quê, nên thấy nhà mô còn cái đụn rơm là thấy quý...

Rơm làm chất đốt cho người, làm thức ăn cho trâu bò, làm “chăn ấm” cho heo gà vịt trong những ngày mưa gió. Rồi rơm để ủ lên những vồn ném, kiệu, hành, ngò, cải..., che mưa và ủ ấm đất cho hạt củ ươm mầm. Những luống rau vườn nhà được khoác cho chiếc áo vàng rơm rạ cuối đông; để chừng sang xuân thì thay áo mới màu xanh mơn mởn...

Mà cái đụn rơm ở nhà quê ấy là cả một không gian cho lũ con nít chơi trò trốn tìm quanh quẩn hay có những cặp trai gái quê hẹn hò nơi rơm rạ mà nên vợ thành chồng... Cứ nhớ khi cái đụn rơm vơi dần, vơi dần rồi biến thành hình như một chiếc dù to là biết mùa màng sắp tới.