Ở
làng tôi khi chưa có điện, những ngày hè, gió Lào rát rúa như thổi từ một lò lửa khổng lồ đâu đó. Từ đó, làng tôi sinh ra cái thú đi ngủ độn. Chuyện đi ngủ độn xuất phát từ mấy đứa trẻ chăn trâu. Trời nóng quá, muỗi nhiều nên phải dẫn trâu từ chuồng ở vườn nhà lên cột trên độn cát cao vào ban đêm cho mát, trâu cũng đỡ bị muỗi đốt. Trâu ngủ thì người cũng phải ngủ gần đó để canh chừng. Cát cả ngày phơi giữa nắng nóng là thế; nhưng khi đêm xuống thì cát mát rượi, gió trời thì lồng lộng, trăng sao như bầu bạn ở cạnh mình. Nằm ngủ độn vừa mát lại nghe đủ thứ chuyện trên đời từ chuyện ma, chuyện yêu đương, chuyện tiếu lâm… Rồi thỉnh thoảng nửa đêm, mấy đứa đói bụng rủ nhau về làng bẻ mía, đào khoai, hái ổi… Tôi cũng đã đi ngủ độn được mấy đêm nhưng không được tham gia những “phi vụ” của mấy đàn anh là trẻ chăn trâu vốn lì lợm lại nhanh nhẹn. Nhưng chuyện ngủ độn mà đi ăn trộm cũng đến tai ba tôi và từ đó, ông cấm hẳn tôi đi ngủ độn…
Bỗng dưng vào một mùa hè năm cũ, một loài hoa cỏ dại trở thành hàng hóa. Hồi đó, người ta nói loài cỏ đó là cây kim tiền thảo. Nhưng sau này hỏi lại “Giáo sư Gu-gồ” thì không phải. Loài cỏ đó tên thật là chi, chừ tôi cũng không biết, riêng người làng tôi tự đặt cho loài cỏ này cái tên dân dã là cây “trọc trọc”. Gọi là “trọc trọc” bởi hoa của cây cỏ này giống như những cái đầu trọc màu trắng. Rứa là cả làng cơm đùm, nước bới sáng sớm đi nhổ cây trọc trọc đến tối mịt mới về. Loài cỏ này mọc trên cát, nhiều nhất là ở những cánh đồng cỏ dại gần với biển. Từ độn của làng tôi đến những cánh đồng trọc trọc cũng mấy cây số. Những cánh đồng hoa cỏ trọc trọc mọc trắng xóa rất đẹp cứ hẹp dần, hẹp dần. Từng gánh, từng bao trọc trọc được mang về nhà, người già trẻ con chong đèn dùng dao cắt lấy cái hoa của cỏ và bán lấy tiền tươi. Đó cũng là một món lộc bất ngờ của cát dành cho những người dân quê nghèo một thuở…
Hết mùa trọc trọc, khi gió Lào thổi mạnh hơn, trẻ con trong xóm tôi lại lên độn cát đi nhặt nhôm đồng bán kiếm tiền ăn vặt. Tờ mờ sáng, cả bọn rủ nhau đi lên độn Ổ Gà, độn Thanh Hương, hay có khi ra tận biển Khê của Quảng Trị (những địa danh đã từng xảy ra những trận đánh khốc liệt trong chiến tranh) để tìm phế liệu là những vỏ đạn bằng đồng rơi vãi và có cả những chiếc bi đông, mũ cối của chiến tranh để lại… Có bữa mấy đứa nhặt được mấy lon thịt hộp, mở ra thấy hấp dẫn quá nên cho vào miệng luôn. Cũng may là chẳng đứa mô bị đau bụng cả.
Những lần đi xa giữa trùng vây của cát mới thấy cát thật đẹp. Đó là những đồi cát trắng được thiên nhiên bồi đắp tự mấy trăm năm gọi là cụp. Cụp con voi, cụp cái bụ, cụp bàn cờ… Ở dưới chân những cụp cát, thật diệu kỳ là những hồ nước trong xanh leo lẻo có thể nhìn sâu thấy đáy. Giữa mênh mông cát và cát như thế có một loài chim lông trắng gọi là chim Dàng. Chúng làm tổ trên cát, thỉnh thoảng thấy bóng người, chúng sà xuống xẹt ngang mặt chừng như hù dọa mà cũng như để làm quen… Lần cuối cùng tôi ngồi chơi với cụp cát là kỳ nghỉ hè năm cuối sinh viên. Đêm đó, mấy anh em thân thiết cùng làng rủ nhau ra cụp ngồi ngắm trăng, uống rượu, đàn hát. Những đồi cát rải vàng dưới ánh trăng lấp lóa đẹp đến lạ…
“Truông tàn thì làng mạt.” “Truông” chính là địa điểm tiếp giáp giữa độn cát với các xóm dân cư: truông xóm Kế, truông xóm Đình, truông xóm Khe… Hầu như xóm mô cũng có một miếu thờ ở truông, hương khói quanh năm làm nơi thờ tự và cúng cấp các dịp lễ tết. Tất nhiên, cây cối ở truông là những cây cổ thụ đã được trồng từ xa xưa để chắn cát vùi lấp xóm làng trong những trận mưa lũ lớn. Trèo qua truông thì lên đến rú. Làng tôi đã mất đi nhiều lũy tre xanh dọc theo các lối xóm khi đường đi đã bê tông hóa; may mà rú vẫn còn. Những bụi cây dại mọc um tùm thành một tấm thảm xanh bình yên để chim chóc rủ nhau bay về làm tổ suốt bốn mùa…
Mỗi lần về làng, tôi vẫn thích nhất cái thú trèo qua truông vô thăm rú và khi chiều xuống, đứng trên độn cát để ngắm hoàng hôn. Đứng từ trên độn cát nhìn xuống, xóm làng đẹp như một bức tranh lụa. Mặt trời từ từ lặn về phía Tây, cứ như chìm dần xuống dòng nước xanh của sông Ô Lâu…