M
ột buổi chiều tháng Sáu, ba tôi đi làm đồng về, vừa bỏ cái cuốc xuống sân đã nghe giọng ông buồn bã: “Nước mặn lên rồi!” Rứa là đã đến mùa hạn. Gió Lào đuổi nhau rin rít từng đợt trên cánh đồng, nước dưới chân lúa bắt đầu cạn dần. Sông Ô Lâu chẳng khi nào thiếu nước, nhưng đến mùa gió Lào, nước mặn từ biển qua phá Tam Giang dâng cao tràn qua cửa Lác thì sông không còn là dòng nước ngọt mà đã có vị mặn lơ lớ không thể tưới mát ruộng đồng được nữa… Tất cả cánh đồng làng phải nhờ vào hệ thống nước từ chân độn cát để tưới cho cây lúa.
Đến bây chừ, tôi vẫn vô cùng bái phục trí tuệ của ông cha ngày xưa, với những “quy hoạch” bền vững mà hài hòa để tạo nên làng, nên xóm, với những lũy tre xanh, những con nước mát chỉ cần nhìn thôi cũng đã thấy yên bình để con cháu sau này có thể bình tâm gắng sức cuốc cày, vun xới trên cánh đồng làm ra hạt lúa, củ khoai mà sinh sống. Nước sông Ô Lâu bị mặn, cả cánh đồng được tưới từ dòng nước của con khe làng và các khe, ao, hồ trong làng ngoài ruộng. Con khe làng có nguồn mạch từ độn cát, được dẫn dụ bằng một dòng kênh kéo dài từ đầu làng đến cuối làng. Dòng kênh đó chưa bao giờ hết nước. Những năm trời đại hạn, nước chỉ chảy thành những con lạch nhỏ ngang mắt cá chân; trai tráng trong làng thường phải tập trung vét đáy kênh để khơi thông những nguồn mạch nước hiếm hoi ri rỉ từ trong lòng đất để cứu lúa. Nhờ vậy, mùa nước mặn cay cực là rứa thì cây lúa vẫn sống, vẫn trổ bông kết hạt cho người…
Đến bây chừ, làng tôi đã không còn sợ nạn nước mặn mỗi mùa hè nữa khi mà hệ thống đập thủy lợi cửa Lác được xây dựng kiên cố đã ngăn được dòng nước mặn từ phá Tam Giang tràn lên sông Ô Lâu. Nhưng mới đây về làng, tôi bỗng giật mình bởi những thửa ruộng ven con đường cái của làng đang bị bỏ hoang, cỏ mọc um tùm. Quan sát kỹ hơn thì nhận thấy hệ thống kênh dẫn nước từ khe làng hay các con khe khác đã bị lấp sạch để xây dựng nhà cửa, bê tông hóa đường đi… Không gian hài hòa của một làng quê đã bị phá vỡ. Cái hạn không đến từ trời nữa mà do con người vô tình hay hữu ý tự gây nên? Ngọn gió Lào rát bỏng hơn khi những dòng nước bầu bạn với đời sống của con người đã biến mất…
Tôi buồn bã thả bộ từ đồng làng về nhà và lòng càng thêm nặng trĩu khi nhìn những bức tường thành bằng bê tông, bằng thép đang đua nhau mọc lên vô cảm thay thế những bờ rào cây xanh đã tồn tại từ bao đời nay.
Mỗi lần về làng, tôi vẫn thích nhất cái thú chạy ra vườn nhặt nhạnh mấy thứ rau cỏ trong vườn nhà, cũng đủ nấu một nồi canh hay làm một dĩa rau tươi sống. Những ngày nắng hạn, khi rau trồng trong vườn úa tàn thì vẫn còn đó những loài rau dại mọc tự nhiên trong bờ rào.
Tuổi thơ tôi, cây cỏ, hoa trái bờ rào cũng là một bờ cổ tích. Là cây muồng chuộng lá non mẹ hái nấu canh, cọng non của cây này mới đâm chồi cũng có thể hái rồi rửa sạch đưa vào miệng nhai chua chua. Đến mùa trái muồng chuộng chín từng chùm ăn ngòn ngọt và đen cả lưỡi. Là cây bợ, cây mủ chó, mấy đọt măng hóp tre cho lũ con gái chơi trò đi chợ bán hàng. Rồi những chùm bòng bong làm mũ, làm áo. Là rau ngót, diếp cá, lá lốt cho bữa ăn cả nhà… Bờ rào cũng là nơi sinh sống họp đàn của lũ bươm bướm, chuồn chuồn, tắc kè, rắn mối rồi cả cóc, nhái, ếch, ễnh ương…
Những đêm mưa, chúng lại rủ nhau cùng cất lên một bản hòa ca réo rắt, vui tai. Thỉnh thoảng lại xuất hiện một con chim cuốc mẹ dẫn theo mấy đứa con chạy ra vườn vào sáng sớm, sau suốt một đêm mưa hay một đàn cá rô lạc nước trườn lên cả mấy luống rau… Những trưa hè, không gian yên ắng, chú chim bói cá lông biếc xanh đậu một mình nhìn xuống con khe nước chảy trong mát chạy qua vườn nhà để mong tìm được một con cá làm mồi.
Nông thôn là thế. Con người hòa mình cộng sinh với nước, với cây, với những loài vật, chan chứa và vị tha nên mùa hè bớt nóng, mùa đông bớt lạnh và những nhọc nhằn cơm áo gạo tiền cũng dễ nguôi ngoai.