Mỗi đứa trẻ đều có một nhu cầu chính đáng là được mẹ mình quan tâm, được thấu hiểu, được coi trọng và được tôn trọng. Trong những năm tháng đầu đời, đứa trẻ cần mẹ hết lòng quan tâm, chăm sóc. Thông qua người mẹ, trẻ có thể nhìn thấy chính mình, giống như những mô tả đẹp đẽ của Donald Winnicott 9: “Người mẹ nhìn chăm chú vào đứa con trên cánh tay, đứa trẻ cũng nhìn mẹ mình và cảm thấy an toàn trong vòng tay đó, nếu người mẹ thực sự đang nhìn chăm chú vào hình hài độc nhất, bé nhỏ và bất lực ấy mà không phóng chiếu những kì vọng, nỗi sợ hãi và những kế hoạch lên đứa con. Nếu không, đứa trẻ sẽ không tìm thấy nó trên gương mặt của người mẹ, mà là những dự định của người mẹ. Đứa trẻ này vẫn tồn tại mà không có tấm gương phản chiếu nào. Trong suốt quãng đời của mình, anh ta sẽ tìm kiếm tấm gương đó trong vô vọng.”
9 Donald Winnicott (1896 - 1971): Bác sĩ nhi khoa, nhà phân tâm học người Anh. Ông là người có ảnh hưởng đặc biệt trong lí thuyết quan hệ đối tượng và tâm lí học phát triển. Ông là từng thành viên lãnh đạo, là Chủ tịch Hiệp hội phân tâm học Anh (ND).
SỰ PHÁT TRIỂN LÀNH MẠNH
Nếu một đứa trẻ đủ may mắn lớn lên với một người mẹ luôn vì con và là tấm gương cho con, một người mẹ sẵn sàng thay đổi mình để góp phần xây dựng cơ chế phát triển của con mình, thì khi lớn lên đứa trẻ có thể phát triển một khả năng tự cảm nhận lành mạnh. Trong điều kiện lí tưởng, người mẹ này nên bộc lộ những cảm xúc cần thiết và sự thấu hiểu những nhu cầu của đứa trẻ. Nhưng ngay cả một người mẹ không có trái tim giàu lòng yêu thương cũng có thể thúc đẩy quá trình phát triển này, nếu cô không ngăn cản và cho phép trẻ học hỏi từ người khác những gì cô còn thiếu. Nhiều nghiên cứu cho thấy trẻ em có một khả năng đáng kinh ngạc trong việc tận dụng những “nuôi dưỡng” (sự kích thích) cảm xúc nhỏ nhất xung quanh nó.
Tôi hiểu khả năng tự cảm nhận lành mạnh là sự khẳng định chắc chắn rằng những cảm xúc và nhu cầu mà anh ta trải qua là một phần trong con người anh ta. Những cảm xúc và nhu cầu này không phải là thứ người ta có thể có được thông qua việc suy ngẫm, mà nó ở đấy, giống như nhịp đập trái tim mỗi người, thứ mà chúng ta thường không chú ý khi nó đang hoạt động bình thường.
Sự kết nối tự động và tự nhiên với những cảm xúc và nhu cầu riêng của một người sẽ tiếp thêm cho anh ta sức mạnh và lòng tự trọng. Anh ta có thể cảm nhận những cảm xúc của mình, bao gồm sự buồn rầu, tuyệt vọng, hoặc nhu cầu được giúp đỡ, mà không cảm thấy sợ hãi rằng điều đó sẽ khiến người mẹ bất an. Anh ta có thể cho phép bản thân sợ hãi khi bị đe dọa, tức giận khi những mong muốn của mình không được đáp ứng. Anh ta không chỉ biết anh ta không muốn gì, mà còn biết mình muốn gì và thể hiện mong muốn của bản thân, mặc cho anh ta có thể được yêu hay bị ghét vì điều đó.
Nếu một người phụ nữ muốn cung cấp cho con những gì con sẽ cần trong suốt cuộc đời mình, thì điều cơ bản là ngay từ đầu không nên rời xa đứa trẻ. Vì các hormone phát triển và nuôi dưỡng bản năng làm mẹ của cô sẽ tiết ra ngay sau khi sinh và tiếp tục trong những ngày tháng tiếp theo, khi cô đã quen dần hơn với đứa con. Cách đây không lâu, trong các bệnh viện phụ sản đã quy định tách trẻ sơ sinh ra khỏi người mẹ, và đến nay một số nơi vẫn duy trì quy định này vì không hiểu rõ về vấn đề này và vì những lí do thuận tiện khác. Khi đứa trẻ bị tách ra khỏi người mẹ như vậy, thì cả người mẹ và đứa trẻ đã bỏ lỡ một cơ hội tuyệt vời để tạo ra sự kết nối, sự gắn kết.
Sự gắn kết (thông qua làn da và ánh mắt) giữa người mẹ và đứa trẻ kích thích ở cả hai một cảm giác họ thuộc về nhau, một cảm giác hợp nhất lí tưởng đã phát triển trong giai đoạn thụ thai. Đứa trẻ sẽ có cảm giác an toàn mà nó cần để tin tưởng người mẹ, và người mẹ sẽ thấy yên lòng với bản năng có thể giúp cô hiểu và đáp lại những thông điệp của đứa trẻ. Sự gắn kết ban đầu từ hai phía này sẽ không bao giờ được hình thành thêm lần nữa. Việc thiếu đi nó có thể là một chướng ngại khó khăn cho quá trình nuôi dưỡng, giáo dục và chung sống về sau.
Chỉ mới gần đây, khoa học mới chứng minh được tầm quan trọng không thể thiếu của sự gắn kết ban đầu này. Tôi hi vọng các bác sĩ phụ sản sẽ lưu tâm sâu sắc đến vấn đề này, không chỉ ở trong một vài nhà hộ sinh chọn lọc mà ở những bệnh viện lớn hơn nữa, để tất cả mọi người đều có cơ hội tiến đến một quá trình phát triển lành mạnh. Một người phụ nữ trải qua sự gắn kết với con mình thường sẽ ít khi đối xử sai cách với nó, và biết cách bảo vệ đứa trẻ tốt hơn trước sự đối xử chưa phù hợp của người cha hoặc những người chăm sóc khác, như thầy cô giáo hoặc người trông trẻ chẳng hạn.
Một người phụ nữ với quá khứ bị chôn vùi dẫn đến thiếu kết nối với con mình vẫn có thể giúp trẻ vượt qua sự thiếu hụt này nếu cô hiểu vai trò của sự gắn kết này. Cô cũng có thể bù đắp cho những hệ quả của một ca sinh khó, nếu cô không xem thường tầm quan trọng của sự gắn kết ban đầu. Cô cũng hiểu rằng, một đứa trẻ chịu đau đớn ngay từ lúc mới sinh đặc biệt cần quan tâm và chăm sóc để có thể vượt qua những nỗi sợ hãi nảy sinh từ những trải nghiệm gần nhất đó.
Trạng thái rối loạn
Điều gì sẽ xảy ra nếu một người mẹ không những không có khả năng nhận ra và đáp ứng nhu cầu của con mình, mà chính cô cũng cần một sự chắc chắn, một cảm giác yên tâm? Một cách vô thức, người mẹ sẽ cố gắng thỏa mãn nhu cầu của mình thông qua đứa trẻ. Điều này không làm phai nhạt những cảm tình mãnh liệt. Người mẹ thường vô cùng yêu thương con mình, nhưng không phải theo cách đứa trẻ cần được yêu thương. Từ đó sự đáng tin cậy, sự tiếp diễn và sự chung thủy, thứ vốn quan trọng với đứa trẻ, đã không hiện hữu trong mối quan hệ lợi dụng kiểu này. Hơn cả, thứ thiếu đi là một khuôn khổ mà ở đó, đứa trẻ có thể trải nghiệm những cảm xúc và cảm nhận của mình. Thay vào đó, đứa trẻ sẽ phát triển những gì người mẹ cần. Mặc dù điều này như một sự cứu cánh cuộc đời trẻ (bằng cách bảo đảm “tình yêu” của người cha hoặc người mẹ) tại thời điểm đó, nhưng đây cũng có thể là điều ngăn cản anh ta sống là chính mình trong suốt cuộc đời này.
Trong trường hợp như vậy, nhu cầu bẩm sinh tự yêu chính mình phù hợp với độ tuổi của trẻ được mô tả ở đây, sẽ không thể hòa nhập với nhân cách đang phát triển. Do vậy, nhu cầu tự si này hoặc bị dồn nén một phần, hoặc vẫn giữ nguyên trạng thái ban đầu. Người này sau đó sẽ luôn sống trong quá khứ mà không nhận thức được điều đó, và sẽ tiếp tục phản ứng với những mối nguy trong quá khứ như thể chúng đang ở hiện tại.
Có nhiều người tìm đến tôi vì trầm cảm, họ từng luôn phải đối mặt với một bà mẹ cực kì bất an và thường xuyên trầm cảm. Đứa con, thường là con một hoặc con đầu, hay trở thành vật sở hữu của người mẹ. Người mẹ có thể tìm thấy ở đứa con những gì mà chính mình không có: Một người mẹ luôn ở bên cạnh khi cô cần, người có thể đồng điệu với mình và mình có thể kiểm soát, người luôn luôn coi cô là trung tâm, không bao giờ bỏ mặc cô, luôn dành cho cô toàn bộ sự quan tâm và ngưỡng mộ. Nếu những yêu cầu của đứa trẻ trong cô trở nên quá lớn (như những gì mẹ cô đã làm), thì người mẹ trẻ này sẽ không cảm thấy quá bất lực: Cô có thể không cho phép bản thân bị hành hạ và áp chế. Cô có thể dạy dỗ đứa trẻ, và nó sẽ không quấy khóc hoặc làm phiền cô. Cuối cùng, cô có thể chắc chắn rằng mình được thừa nhận, quan tâm và tôn trọng.
Barbara, một người mẹ có bốn đứa con, ở độ tuổi 35, cô chỉ có những kí ức đầy thiếu thốn về mối quan hệ với mẹ mình. Lúc mới bắt đầu trị liệu, cô mô tả mẹ mình là một người phụ nữ giàu tình cảm, ấm áp, sẵn sàng nói chuyện “cởi mở với cô về những rắc rối của mình” từ khi cô còn nhỏ, bà luôn lo lắng cho con cái mình và hi sinh bản thân cho gia đình. Rất nhiều thành viên trong các hội nhóm của bà thường xuyên tìm đến hỏi ý kiến ý kiến của bà. Mẹ cô hiện tại đã già và là một bệnh nhân tàn tật luôn lo lắng cho sức khỏe của mình. Cô thường mơ có điều gì đó xảy ra với mẹ và tỉnh dậy trong lo lắng.
Những cảm xúc nảy sinh trong quá trình trị liệu đã làm thay đổi hình ảnh về người mẹ của Barbara. Hơn hết thảy, khi những kí ức về việc dạy đi vệ sinh xuất hiện trong ý thức, cô cảm thấy mẹ mình là người khó tính, thích kiểm soát, thao túng, lạnh lùng, vụn vặt, ám ảnh, dễ tự ái và khó chiều. Nhiều kí ức tuổi thơ được gợi lại về người mẹ đã xác nhận những tính cách này. Sau đó, Barbara có thể kết nối với những lí do thực sự cho cơn tức giận đã bị kìm nén từ lâu của mình và khám phá ra mẹ mình là người thế nào. Cô nhận ra rằng, khi mẹ cảm thấy bất an với mình, bà thường lạnh lùng và đối xử tệ với cô. Sự lo lắng của bà cho đứa con vốn là để kìm nén cơn giận và chút ghen tị của bà. Sự thật là, bà thường bị sỉ nhục và chế giễu khi còn nhỏ, nên bà luôn cần được con gái mình coi trọng.
Trong lần đầu tiên trị liệu, Barbara đã cảm nhận được nỗi sợ hãi đau đớn và cơn thịnh nộ mà cô đã kìm nén năm 10 tuổi, khi từ trường học về nhà trong ngày sinh nhật của mẹ và nhìn thấy bà đang nằm nhắm mắt trên sàn. Đứa trẻ khóc òa lên và nghĩ rằng mẹ mình đã chết. Sau đó bà mở mắt ra và hoan hỉ nói: “Con đã cho mẹ món quà sinh nhật quý giá nhất. Giờ mẹ biết con yêu mẹ, vẫn luôn có ai đó yêu mẹ.” Qua mấy chục năm, lòng trắc ẩn và tình yêu thương đã ngăn cảm Barbara nhận ra sự thô lỗ cô phải chịu đựng. Từ sự kiện này, nhiều kí ức khác cũng xuất hiện, kéo theo cảm giác phẫn nộ và giận dữ.
Dần dần, những mảnh ghép khác nhau hợp nhất lại thành một bức tranh về người mẹ yếu đuối, bất an và nhạy cảm thái quá, điều này khiến bà muốn làm mọi thứ để buộc con gái luôn trong tầm kiểm soát của mình. Người mẹ bề ngoài giữ mối quan hệ tốt với người khác, nhưng thực chất vẫn như một đứa trẻ không thể kết nối với cảm xúc thật sự của bà. Ngược lại, cô con gái Barbara đã đóng vai trò thấu hiểu và chăm sóc người mẹ, cho đến khi – thông qua những đứa con của cô, cô nhận ra trước đây những nhu cầu của bản thân đã bị bỏ qua. Trước khi nhận ra câu chuyện quá khứ, Barbara luôn bị thôi thúc buộc con phải làm theo ý mình, như người mẹ đã làm với cô ngày trước.