Qua nhiều năm, tôi gặp gỡ và tham vấn cho các bệnh nhân một hoặc hai buổi trước khi chuyển họ đến một đồng nghiệp có chuyên môn phụ trách. Trong những buổi gặp gỡ ngắn này, tôi có thể nhìn thấy rất rõ sự xót xa trong bi kịch của một người. Qua mỗi lần nghe bệnh nhân trải lòng, trong cơn trầm cảm, sự trống rỗng, phù phiếm, nỗi sợ hãi, kiệt sức và cô đơn, tôi thường thấy rõ sự mất mát đau đớn của cái tôi từ thời thơ ấu, đến khi trưởng thành là cảm thấy hoàn toàn xa lạ với con người thật của mình.
Tôi đã chứng kiến nhiều kiểu kết hợp và sắc thái khác nhau của chứng rối loạn ái kỉ. Để cho rõ ràng, tôi sẽ mô tả hai hình thái cực đoan nhất của hiện tượng này, hai phiên bản đối lập của nhau, đấy là chứng vĩ cuồng và trầm cảm. Đằng sau chứng vĩ cuồng luôn luôn là trạng thái trầm cảm, và đằng sau trạng thái trầm cảm suy sụp thường là một cảm giác vô thức (hoặc có ý thức nhưng đứt quãng) về quá khứ bi kịch. Thực tế, chứng vĩ cuồng là cơ chế phòng vệ giúp bạn thoát khỏi trạng thái trầm cảm, và trạng thái trầm cảm là cơ chế phản kháng lại nỗi đau sâu sắc trước việc đánh mất chính mình bắt nguồn từ sự phủ nhận.
Chứng vĩ cuồng
Người “vĩ cuồng” đi đâu cũng được người khác ngưỡng mộ và anh ta cần sự ngưỡng mộ này. Quả thực, anh ta không thể sống mà không có nó. Anh ta cần phải xuất chúng một cách tuyệt đối trong mọi việc anh ta đảm nhận – việc mà anh ta chắc chắn có khả năng làm (nếu không, anh ta sẽ không cố gắng làm). Anh ta cũng ngưỡng mộ chính mình vì những phẩm chất anh ta có: vẻ đẹp, trí thông minh, tài năng; ngưỡng mộ cả những thành công và thành tựu của anh ta. Chớ trêu thay, nếu chính những phẩm chất này khiến anh ta thất bại, thì tấn bi kịch trầm cảm dữ dội sẽ xuất hiện.
Nếu người bị ốm, hoặc đã có tuổi nên sức khỏe giảm sút trông thấy, hoặc một người phụ nữ trong thời kì mãn kinh cảm thấy suy sụp, chuyện sẽ rất bình thường. Hay có nhiều người có thể chấp nhận việc mất đi sắc đẹp, sức khỏe, sức trẻ, những người thân yêu, dù họ rất buồn, nhưng không suy sụp đến mức trầm cảm. Trong khi đó, có những người tài năng tuyệt vời, thường là những thiên tài bậc nhất, lại mắc chứng trầm cảm nghiêm trọng. Bởi một người chỉ có thể cảm thấy tự do khi lòng tự trọng của anh ta được thiết lập từ những cảm xúc thật, chứ không phải từ việc sở hữu phẩm chất nào đó.
Sự sụp đổ lòng tự trọng ở một người “vĩ cuồng” sẽ cho chúng ta thấy rất rõ lòng tự trọng bấp bênh mong manh như thế nào – “lơ lửng như quả bóng”, như một bệnh nhân của tôi từng mơ. Quả bóng đó bay lên rất cao khi có gió lớn, nhưng bỗng nhiên bị thủng và sớm biến thành một miếng cao su rách rưới, rúm ró trên sàn nhà. Vì không có sự chân thật để tạo ra sức mạnh củng cố và tăng cường sự phát triển nội tại bên trong chính họ.
Trong một nghiên cứu thực hiện ở Chestnut Lodge, Maryland vào năm 1954, các nhà nghiên cứu đã xem xét tiểu sử gia đình của mười hai bệnh nhân mắc chứng Rối loạn hưng - trầm cảm. Kết quả này đã khẳng định chắc chắn những kết luận mà tôi đưa ra bằng phương pháp khác về nguyên nhân của trầm cảm:
Tất cả bệnh nhân đến từ những gia đình bị xã hội cô lập thường cảm thấy bản thân không được tôn trọng trong khu phố của mình. Do đó, họ đặc biệt nỗ lực để nâng cao uy tín bản thân với hàng xóm, bằng cách nghe theo số đông và tin vào những thành tựu vượt trội. Những đứa trẻ lớn lên mắc chứng rối loạn hưng - trầm cảm này từng được gán cho một vai trò nào đó trong nỗ lực để được tôn trọng này. Anh ta buộc phải đảm bảo danh dự của gia đình, tình yêu thương anh ta nhận được tỉ lệ thuận với mức độ mà anh ta có thể đáp ứng nhu cầu của gia đình, thông qua những năng lực đặc biệt, tài năng, vẻ đẹp,… Nếu thất bại, anh ta sẽ bị trừng phạt, bị ghẻ lạnh hoặc bị cho ra rìa, vì họ cho rằng anh ta đã khiến gia đình mất mặt, xấu hổ tột cùng. 10
10 Eicke-Spengler, Development of a psychoanalytic theory of depression (Phát triển lí thuyết phân tâm học về bệnh trầm cảm), 1977.
Ngày nay, với xu hướng xê dịch của các gia đình cũng như các thành viên, việc thích nghi với một nền văn hóa xã hội khác là rất cần thiết nếu muốn sống sót, nhưng nó cũng đe dọa tính tự lập của một đứa trẻ. Không may là, “con đường” duy nhất này dường như bám vào, hoặc quay trở lại điểm xuất phát, đấy là nỗ lực để được tôn trọng.
Nếu không có trị liệu, người vĩ cuồng không thể nào cắt bỏ được mối liên kết bi kịch giữa tình yêu và sự ngưỡng mộ. Anh ta sẽ luôn không ngừng tìm kiếm sự ngưỡng mộ, thứ anh ta sẽ chẳng bao giờ có đủ, bởi nó không giống với tình yêu. Sự ngưỡng mộ chỉ là một sự thỏa mãn thay thế của những nhu cầu nguyên thủy về sự tôn trọng, sự thấu hiểu và sự coi trọng – những nhu cầu luôn ở trong vô thức từ thời thơ ấu xa xôi. Thường thì, chúng ta dành gần hết cả một đời người cho sự thay thế này. Chừng nào nhu cầu thật sự chưa được cảm nhận và thấu hiểu, việc đấu tranh cho biểu tượng tình yêu như thế vẫn sẽ tiếp diễn.
Chính vì lí do này, một nhiếp ảnh gia nổi tiếng thế giới từng nhận nhiều giải thưởng quốc tế đã trả lời một phóng viên rằng: “Tôi chưa bao giờ cảm thấy những gì tôi làm là đủ tốt.” Ông không tự hỏi tại sao mình cảm thấy như thế. Dường như, ông chưa bao giờ nhận ra trạng thái trầm cảm của ông có thể có liên quan đến việc ông phải đáp ứng những đòi hỏi của cha mẹ.
Một bệnh nhân của tôi từng mô tả cảm giác luôn phải đi trên cà kheo. Có ai luôn phải đi trên cà kheo mà không ghen tị với những người có thể đi bằng đôi chân của mình, ngay cả khi anh ta thấy họ có vẻ nhỏ bé và “bình thường” hơn mình? Có ai luôn phải đi cà kheo mà không phải dồn nén cơn tức giận với những người khiến anh ta sợ hãi chứ? Anh ta cũng có thể ghen tị với những người khỏe mạnh vì họ không cần nỗ lực liên tục để có được sự ngưỡng mộ, và vì họ không phải làm điều gì đó để gây ấn tượng bằng cách hay cách khác, vì họ vẫn tự do thoải mái khi “bình thường”.
Người vĩ cuồng không bao giờ thực sự tự do, vì: thứ nhất, anh ta lệ thuộc thái quá vào cảm giác được ngưỡng mộ từ người khác; và thứ hai, anh ta tin rằng lòng tự trọng phụ thuộc vào vẻ đẹp bên ngoài và những thành tựu, những thứ có thể bất chợt sụp đổ.
Trầm cảm: phiên bản ngược của vĩ cuồng
Ở nhiều bệnh nhân mà tôi biết, trầm cảm luôn đi cùng với chứng vĩ cuồng theo nhiều cách:
Đầu tiên, trầm cảm đôi khi xuất hiện khi chứng vĩ cuồng suy yếu do bệnh tật, đau ốm, tàn phế hoặc do tuổi già. Với một người phụ nữ chưa kết hôn, những lời tán dương bên ngoài dần dần sẽ mất đi theo thời gian. Cô không còn nhận được những lời xác nhận về sự hấp dẫn của mình – những lời đấy có tác dụng hỗ trợ, trực tiếp thay thế cho quá trình tự phản chiếu với người mẹ. Bề ngoài, cảm giác tuyệt vọng về việc già đi có thể là do sự thiếu hụt quan hệ tình dục, nhưng ở mức độ sâu hơn, những nỗi sợ hãi bị ruồng bỏ lúc trước đã bị khơi dậy, và người phụ nữ này không có bất kì thành tựu nào mới để bù đắp cho vấn đề này. Một lần nữa, cô lại cảm thấy bất lực và bối rối, như cô gái bé nhỏ ngày trước từng bất lực và bối rối trước mẹ mình, và ở đó, cô không nhìn thấy bản thân mà chỉ thấy sự bất an của người mẹ.
Đàn ông cũng thường cảm thấy già đi theo cách tương tự, ngay cả khi một mối tình vụng trộm mới có vẻ tạo ra ảo tưởng về tuổi trẻ trong một khoảng thời gian nhất định, từ đó, có thể kích thích trạng thái hưng cảm trong một thời gian ngắn trước khi tiến đến giai đoạn trầm cảm sớm do tuổi tác ngày càng lớn.
Thứ hai, khi kết hợp với những giai đoạn vĩ cuồng và trầm cảm luân phiên, chúng ta dễ nhận ra nền tảng chung của cả hai chứng bệnh hơn. Chúng như hai mặt của một tấm huy chương mà có thể mô tả như “cái tôi giả” vậy, một tấm huy chương thực ra là đại diện cho một thành tựu nào đó.
Ví dụ, ở đỉnh cao thành công, một diễn viên có thể biểu diễn đầy nhiệt huyết trước những khán giả mến mộ mình, cảm thấy mình vĩ đại và có quyền lực siêu phàm. Song, cảm giác trống rỗng và phù phiếm, thậm chí là xấu hổ và tức giận, có thể quay trở lại vào sáng hôm sau nếu niềm hạnh phúc đêm trước của anh ta không chỉ đến từ hoạt động sáng tạo của anh ta trong quá trình biểu diễn. Mà hơn hết thảy, nó chính là sự thỏa mãn nhất thời của những nhu cầu xưa cũ cho sự tán dương, cho cảm giác được phản chiếu hình ảnh của mình nơi người khác, cho cảm giác được nhìn nhận và thấu hiểu. Nếu thành công của anh ta đêm hôm trước vốn chỉ để phủ nhận những suy sụp của tuổi thơ, thì giống như bao cách thay thế nhất thời khác, nó chỉ có thể đem đến những thỏa mãn trong chốc lát. Thực tế, cảm giác hài lòng thực sự không tồn tại, vì nó mãi mãi nằm trong quá khứ. Đứa trẻ trước kia không còn tồn tại nữa, mà cha mẹ trước kia cũng vậy. Cha mẹ của hiện tại (nếu vẫn còn sống) đã già và sống phụ thuộc, họ không còn quá nhiều quyền lực đối với con cái mình. Họ có thể hoan hỉ trước thành công của con và vui mừng với những lần ghé thăm của nó, dù không thường xuyên. Ở hiện tại, đứa con cũng tận hưởng những thành công và cảm giác được công nhận. Nhưng điều này không thể cho anh ta nhiều hơn giá trị hiện tại của chúng, chúng vẫn không thể lấp đầy những khoảng trống thời thơ trẻ. Một lần nữa, chừng nào anh ta còn phủ nhận nhu cầu này bằng những ảo tưởng, bằng men say thành công, thì tổn thương cũ sẽ không thể lành lại. Trầm cảm dẫn anh ta đến gần hơn với những tổn thương sâu thẳm của mình, không chỉ có cảm giác thương tiếc cho những thiếu thốn của bản thân, mà còn là những nhu cầu không được đáp ứng vào thời điểm quan trọng nhất. Song cũng chính từ những nỗi đau được khơi gợi lại này, anh ta mới có thể chữa lành thực sự 11.
11 Cho phép tôi trích dẫn một lời nhận xét của Igor Stravinsky về sự xót xa có hiệu quả: “Tôi tin rằng bản thân thật không may khi cha tôi đối với tôi rất xa cách, và ngay cả mẹ tôi cũng không thương tôi. Khi người anh cả của tôi không may qua đời, mẹ tôi đã chuyển tình cảm bà dành cho anh sang tôi, và cha tôi cũng vậy, nhưng vẫn bảo thủ như trước. Tôi đã quyết tâm rằng một ngày nào đó, tôi sẽ bộc lộ cho họ thấy bản chất của họ. Giờ đây, ngày tháng trôi đi, không ai nhớ ngày anh tôi ra đi, ngoại trừ tôi, nhân chứng duy nhất còn sót lại.” Lời bộc bạch này trái ngược với lời nhận xét của Samuel Beckett: “Một người có thể nói rằng mình có một tuổi thơ hạnh phúc, dù anh ta ít bộc lộ cảm giác hạnh phúc đó. Cha mẹ tôi đã làm đủ thứ và nghĩ rằng điều đó làm tôi hạnh phúc, nhưng thực sự tôi thường cảm thấy cô đơn.” Bi kịch thời thơ ấu của Beckett từng hoàn toàn bị chôn vùi, và ông lí tưởng hóa cha mẹ bằng sự phủ nhận. Tuy nhiên cảm giác bị cô lập đến cùng thời thơ ấu đã được bộc lộ thông qua những vở diễn của ông (tham khảo nghiên cứu của Hans Müller-Braunschweig, 1974).
Thứ ba, việc liên tục đạt được những thành tựu nổi bật đôi khi có thể khiến một người duy trì mộng tưởng về cảm giác luôn được người khác chú ý và sẵn sàng giúp đỡ khi cần (anh ta đã hoàn toàn phủ nhận việc thiếu vắng những điều này trong quá khứ, giống như với những phản ứng cảm xúc của mình). Một người như thế thường có thể kìm nén cảm giác trầm cảm bằng những ánh hào quang ngày càng rực rỡ, từ đó dối lừa cả chính mình lẫn những người xung quanh. Tuy nhiên, anh ta thường chọn một người bạn đời hoặc đã có những biểu hiện trầm cảm nặng, hoặc ít nhất là trong cuộc hôn nhân của họ, có một người vô thức đảm nhận và kích hoạt những yếu tố trầm cảm ở người bạn đời vĩ cuồng của mình. Chứng trầm cảm do đó sẽ được bộc lộ ra ngoài, và người mắc chứng vĩ cuồng có thể chăm sóc người bạn đời “tội nghiệp”, bảo vệ anh ta như một đứa trẻ, cảm thấy bản thân trở nên mạnh mẽ và là người không thể thiếu. Từ đó, anh ta có thêm một trụ cột nữa hỗ trợ cho việc xây dựng nhân cách của anh ta. Tuy nhiên, thực chất tính cách này không hề có nền tảng vững chắc, nó phụ thuộc vào các trụ cột như thành công, thành tựu, “sức mạnh”, và hơn hết là sự phủ nhận những cảm xúc thời thơ ấu của anh ta.
Dù bên ngoài, bức tranh về chứng trầm cảm có thể đối lập với bức tranh về chứng vĩ cuồng và thể hiện bi kịch mất đi cái tôi theo cách rõ ràng hơn, nhưng hai rối loạn này vẫn có nhiều điểm chung:
• Một cái tôi giả tạo hình thành, dẫn đến cái tôi thực sự có thể mất đi;
• Lòng tự trọng mong manh do thiếu tự tin trong cảm xúc và mong muốn;
• Chủ nghĩa hoàn hảo;
• Sự phủ nhận những cảm xúc bị khước từ;
• Các mối quan hệ mang tính lợi dụng chiếm ưu thế;
• Nỗi sợ hãi tột độ rằng sẽ mất đi tình yêu, từ đó phát triển thái độ hoàn toàn sẵn sàng chiều theo người khác;
• Sự hung hăng cực đoan;
• Nhạy cảm thái quá;
• Thái độ sẵn sàng cảm thấy xấu hổ và tội lỗi;
• Cảm giác bồn chồn.
Trầm cảm: cách phủ nhận cái tôi
Chứng trầm cảm bao gồm cả việc một người phủ nhận những phản ứng cảm xúc của chính mình. Sự phủ nhận này bắt đầu nhằm mục đích thích nghi hoàn toàn với hoàn cảnh khi còn bé, và cho thấy một sự sang chấn từ rất sớm. Ngay từ lúc còn rất nhỏ, có nhiều đứa trẻ chưa bao giờ được tự do cảm nhận những cảm xúc đơn giản nhất như sự bất mãn, tức giận, phẫn nộ, đau đớn, thậm chí là đói – và tất nhiên, là sự yêu thích cơ thể của chính mình.
Beatrice, 58 tuổi, có cha mẹ là những người truyền giáo, là một bệnh nhân trầm cảm nghiêm trọng và chưa bao giờ biết mình có đói hay không. Mẹ cô tự hào viết trong nhật kí của bà là lúc ba tháng tuổi, Beatrice đã học cách đợi được cho ăn và kiềm chế cơn đói của mình mà không khóc. Sự bất mãn và tức giận ở người con đã khơi dậy cảm giác hoài nghi và bất an của người mẹ về vai trò làm mẹ của mình, nỗi đau đớn của con cái khiến bà cảm thấy lo lắng. Sự thích thú của con cái đối với cơ thể của chúng khơi gợi cả lòng đố kị và sự xấu hổ của bà về việc “người khác có thể nghĩ gì”. Vì vậy, trong một số trường hợp nhất định, một đứa trẻ có thể học được từ rất sớm điều gì bản thân không được phép cảm nhận, vì sợ rằng chúng có nguy cơ mất đi tình yêu thương của mẹ.
Nếu chúng ta vứt đi chìa khóa thấu hiểu cuộc đời mình, thì những nguyên nhân đằng sau sự trầm cảm, cũng như mọi đau đớn, bệnh tật và cả cơ hội chữa lành, sẽ luôn là bí ẩn với chúng ta – dù chúng ta có tự gọi bản thân là các chuyên gia tâm lí, nhà trị liệu hay những cây cao bóng cả trong khoa học, hoặc cả hai đi nữa. Khi các nhà trị liệu đã có hàng chục năm kinh nghiệm chưa từng dám đối mặt với thực tại, mà dành thời gian của mình (và của cả cha mẹ mình) nói về “những gia đình không bình thường”, họ sẽ cần một khái niệm giống như “Quyền lực Cao hơn” hoặc Chúa để giải thích với bản thân về “phép màu” chữa lành. Sau đó, họ sẽ cư xử như những người nguyện luôn cố gắng đi theo một tấm bản đồ nào đó, mà không biết rằng bước đầu tiên của họ đã sai hướng rồi. Họ đã lạc lối ngay từ đầu, nên tính xác thực “về mặt khoa học” của tấm bản đồ này không cho họ kết quả mà họ mong chờ, và cũng không dẫn họ đến nơi họ muốn. Tôi sẽ minh họa điều này bằng một ví dụ dưới đây.
Một bệnh nhân đã gửi cho tôi một cuốn sách của một bác sĩ tâm thần, trong đó nói rằng việc đối xử tệ bạc, sự bỏ mặc và sự lạm dụng thời thơ ấu không thể là lí do duy nhất cho những rối loạn tâm thần. Vị bác sĩ này cảm thấy nhất định phải có những lí do phi lí nào đó, giải thích tại sao một người có thể thoát khỏi những ảnh hưởng tệ hại của việc lạm dụng, hoặc ít nhất có khả năng chữa lành nhanh hơn, trong khi người khác dường như phải chịu đựng những nỗi đau khủng khiếp trong thời gian dài hơn. Ông ngờ rằng đó phải nhờ “ơn trời”.
Ông thuật lại câu chuyện về một bệnh nhân sống cùng người mẹ đơn thân trong sự nghèo khó tột cùng trong những năm đầu đời, và sau đó bị chính quyền tách ra khỏi mẹ mình. Đứa con được gửi vào một trung tâm chăm sóc thay thế gia đình, và ở đó nó luôn bị đối xử tệ bạc. Nhưng khi trưởng thành và bắt đầu quá trình trị liệu tâm thần, anh ta chữa lành vết thương nhanh hơn nhiều người bị lạm dụng khác. Làm thế nào mà người đàn ông này, dù phải chịu đựng sự tàn nhẫn không thể nói ra trong suốt tuổi thơ và thanh xuân, lại có thể tự giải phóng bản thân khỏi các triệu chứng đó? Đó có phải sự trợ giúp của Chúa không?
Nhiều người thích cách giải thích này, nhưng họ không đặt ra một câu hỏi quan trọng: Tại sao Chúa không sẵn sàng giúp các bệnh nhân khác, cũng giúp đỡ chính người đàn ông này khi anh ta bị đánh đập tàn nhẫn hồi còn bé? Có thật sự là ân điển của Chúa đã giúp anh ta khi trưởng thành, hay đấy chỉ là một cách giải thích văn vẻ? Nếu người đàn ông này có người mẹ, dù nghèo khó nhưng luôn cho anh ta tình yêu thương, sự tôn trọng, sự bảo vệ và cảm giác an toàn trong những năm đầu đời, anh ta đã có một khởi đầu tốt hơn và anh ta sẽ có khả năng đối mặt với sự ngược đãi ở trung tâm chăm sóc trẻ tốt hơn so với một bệnh nhân mà tiềm năng vẹn toàn của người đó đã bị tổn thương ngay từ giây phút đầu tiên trong đời – như trường hợp của Beatrice chẳng hạn.
Beatrice không bị đối xử tệ bạc về mặt thể chất hồi còn trẻ. Tuy nhiên, khi còn bé xíu, cô đã phải học cách khiến mẹ mình vui bằng việc không khóc, không đói, không thể hiện bất kì nhu cầu gì cả. Đầu tiên, cô mắc chứng chán ăn, sau đó trong suốt quãng đời trưởng thành, cô mắc chứng trầm cảm nghiêm trọng. Ở đây, rõ ràng là các bác sĩ tâm thần đang phủ nhận kiểu tổn thương này khi họ nói về “ân huệ” hoặc bất kì tính chất “tinh thần” nào khác. Để nhận biết hậu quả của những sang chấn ngầm diễn ra từ sớm như thế, đầu tiên các bác sĩ phải thực sự nỗ lực nghiên cứu bản thân mình. Một khi họ sẵn sàng đối mặt với sự thật – những sự thật của riêng họ, họ sẽ không còn hứng thú rao giảng cho người khác về ân huệ và những “bí ẩn” khác núp dưới bóng khoa học nữa.
Việc không suy xét mà bám riết vào những ý tưởng truyền thống và đức tin thường góp phần che giấu hoặc phủ nhận những sự thật về quá khứ của chúng ta. Nếu không thể kết nối với những thực tại này, thì chúng ta cũng không có khả năng yêu thương thực sự chân thành. Chẳng có gì ngạc nhiên khi những khẩn cầu với thiện chí đạo đức về tình yêu, sự quan tâm, sự hào phóng,... sẽ trở nên vô ích. Chúng ta không thể thực sự yêu nếu chúng ta không biết về sự thật của chính mình, sự thật về cha mẹ, về những người chăm sóc cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể cố gắng cư xử như thể chúng ta đang yêu, nhưng hành động giả tạo này không phải là tình yêu. Nó đầy bối rối và lừa lọc. Trong vô thức, ta cảm thấy giận dữ và bất lực. Cơn thịnh nộ này phải bị dồn nén đằng sau vỏ bọc “tình yêu”, nhất là khi một người, giống như một đứa trẻ, phải phụ thuộc vào một người khác.
Chúng ta có thể tiến bộ vượt bậc khi trở nên chân thật hơn, kính cẩn hơn, tỉnh táo hơn, và từ đó ít tiêu cực hơn, nếu những thầy cả tôn giáo có thể nhận thức và tôn trọng những quy luật tâm lí đơn giản này. Thay vì lờ chúng đi, họ nên mở to mắt mà chứng kiến sự tổn hại trên diện rộng do sự giả tạo trong gia đình và xã hội. Bức thư của Vera gửi cho tôi đã minh họa rất rõ cho sự bối rối và tổn hại này. Và câu chuyện của Maja cho thấy cuối cùng cô có thể kết nối yêu thương với một đứa trẻ khi những nút thắt quá khứ của cô được tháo gỡ. Vera, 52 tuổi, đã viết thế này:
Tôi nghiện rượu nặng từ thời vị thành niên, và cuối cùng tôi đã cai nghiện được nhờ Alcoholics Anonymous 12. Tôi biết ơn sự giải thoát khỏi chứng nghiện rượu này. Sau đó, tôi tham gia vào các buổi họp mặt hàng tuần cho trẻ 11 tuổi. Từ lâu, tôi đã lờ đi và coi thường những tư duy phản biện của mình về những vấn đề đạo đức có trong buổi họp mặt này. Lúc đầu, tôi thậm chí đã lờ đi những dấu hiệu và xem nhẹ các triệu chứng của căn bệnh đa xơ cứng rất nghiêm trọng. Chỉ đến khi tâm trạng suy sụp và trầm cảm kéo dài hơn, không có hồi kết, tôi mới bắt đầu đối mặt với sự thật của mình.
Lúc đầu mọi thứ rất khó khăn. Khi tôi nhớ lại một vài kí ức bị chôn vùi, tôi không thể nào chấp nhận chúng. Tôi muốn dừng lại. Nhưng trí tò mò và nỗi đau trong tâm trí còn lớn hơn nỗi sợ hãi của tôi, nên tôi quyết định tiếp tục. Trong năm đầu tiên, tôi cố gắng không ngừng, một số triệu chứng đã biến mất.
12 Alcoholics Anonymous (AA): Hội Người nghiện rượu Ẩn danh, một tổ chức quốc tế hỗ trợ lẫn nhau nhằm giúp đỡ những người nghiện rượu (ND).
Giờ đây, sau ba năm thực hiện phương pháp này, tôi hiểu rằng những triệu chứng đó phát triển để đánh thức tôi khỏi giấc mộng nguy hiểm, để cuối cùng tôi có thể coi trọng cảm xúc, nhận thức và suy nghĩ của mình hơn.
Chẳng hạn, tôi biết rằng tôi thường xuyên tức giận khi mọi người bắt đầu thảo luận về “tình yêu vô điều kiện” trong các buổi họp nhóm. Có vẻ, tôi luôn đánh giá cao rằng tất cả các thành viên trong nhóm đang cho tôi một tình yêu vô điều kiện. Đáng ra tôi phải học cách tin tưởng họ, và tôi cảm thấy tội lỗi khi không thể làm thế. Người ta giải thích cho tôi rằng tôi không thể tin tưởng và có niềm tin vào một tình yêu chân thành, vì tôi không có tình thương từ gia đình không bình thường của mình khi còn nhỏ. Tôi coi những lí giải thích này là đương nhiên, vì tôi luôn khát khao tình yêu và muốn tin rằng tôi thực sự đã được yêu thương. Tôi không thể nghi ngờ những gì tôi đã nghe, sự giả dối là thứ tôi được mẹ mớm cho ăn hằng ngày, nó vô cùng quen thuộc. Nhưng hiện tại, tôi đã có thể đặt câu hỏi cho những điều mà tôi cảm thấy không hợp lí.
Hiện tại, tôi có thể nói rằng: Chỉ một đứa trẻ mới cần (và tuyệt đối cần) một tình yêu vô điều kiện. Chúng ta cần trao tình yêu vô điều kiện cho những đứa trẻ mà chúng ta được giao phó. Chúng ta phải có khả năng yêu thương và chấp nhận chúng dù chúng làm gì đi nữa, không chỉ lúc chúng cười duyên dáng mà cả lúc chúng khóc và la hét. Nhưng việc giả vờ yêu một người trưởng thành vô điều kiện, bất kể người đó có làm gì, đồng nghĩa với việc chúng ta nên yêu cả một kẻ giết người liên hoàn máu lạnh, hoặc một kẻ dối trá khét tiếng chỉ vì anh ta gia nhập vào hội nhóm của chúng ta. Chúng ta có thể làm thế không? Chúng ta có nên cố làm thế không? Tại sao? Vì quyền lợi của ai? Nếu chúng ta nói rằng chúng ta yêu thương một người lớn vô điều kiện, chúng ta chỉ đang chứng tỏ sự mù quáng và sự thiếu chân thành của mình, không có gì khác.
Đây chỉ là một trong những cái nhìn thoáng qua trong màn sương mù của di sản tôn giáo mà tôi đã chấp nhận trong những cuộc gặp gỡ suốt một khoảng thời gian vô cùng dài. Những thấu suốt này chỉ thuộc về nỗ lực của riêng tôi mà thôi. Khả năng tư duy duy lí này đã phát triển trong tôi khi tôi nói chuyện với ba mẹ trong cuộc đối thoại nội tâm của mình. Tôi chưa bao giờ có bất kì nghi ngờ nào khi tôi ngồi dự các buổi gặp gỡ đó. Tôi đã quá mong muốn được yêu thương, và dĩ nhiên, điều đó có nghĩa là tôi phải thỏa hiệp, phải nghe theo. Đấy thực chất là một “tình yêu” có điều kiện.
Vera đã đúng. Là những người trưởng thành, chúng ta không còn biết thế nào là tình yêu vô điều kiện nữa, kể cả từ nhà trị liệu. Đấy là nhu cầu từ thời thơ ấu, một nhu cầu chưa bao giờ được đáp ứng, và chúng ta sẽ sống trong ảo tưởng nếu chúng ta bỏ qua những cơ hội để thấu tỏ chính mình. Nhưng chúng ta vẫn có thể nhận lấy những điều khác từ một nhà trị liệu đích thực: sự đáng tin cậy, sự chân thành, sự tôn trọng, niềm tin, sự thấu cảm, thấu hiểu, và khả năng làm rõ cảm xúc phức tạp của mình.
Vera đã có một khám phá quan trọng trong suốt quá trình tự thân nỗ lực của cô, không chỉ nhờ phương pháp cô sử dụng, mà còn cả sự quyết tâm tìm ra sự thật và không cho phép bản thân bị lừa dối thêm. Nếu để ý, cô sẽ thấy những thay đổi trong cơ thể của mình ủng hộ cô trên con đường này.
Maja, 38 tuổi, tìm đến tôi vài tuần sau khi sinh đứa con thứ ba. Cô kể cho tôi nghe, cô cảm thấy tự do và nhiều sức sống như thế nào sau khi sinh đứa trẻ này, khá trái ngược so với cảm giác của cô khi sinh hai đứa trước. Cô đã luôn cảm thấy chúng có những đòi hỏi thái quá, khiến đôi vai cô nặng trĩu. Cô như một kẻ bị giam trong tù, còn những đứa trẻ đang lạm dụng và bóc lột cô. Vì thế, cô phản kháng trước những yêu cầu có lí của chúng, đồng thời cũng cảm thấy cô thật tệ hại. Khi mắc chứng trầm cảm, cô thấy mình tách biệt khỏi con người thật của mình. Cô cho rằng những phản ứng ban đầu này thực chất là sự phản kháng chống lại những yêu cầu của mẹ cô, vì lần này sinh nở này, cô chẳng cảm thấy điều gì tương tự như vậy. Tình yêu mà cô phải đấu tranh để cảm nhận giờ đây đã vô cùng hài hòa. Sau đó, cô kể về mẹ mình:
Tôi là viên đá quý đính trên vương miện của mẹ tôi. Bà ấy luôn nói thế này: “Maja là một chỗ dựa đáng tin cậy, con bé có thể tự giải quyết mọi vấn đề của mình.” Đúng, tôi đã tự giải quyết các vấn đề. Tôi chăm sóc những đứa em của mình để bà có thể tập trung vào sự nghiệp của bà. Bà ngày càng trở nên nổi tiếng, nhưng tôi chưa bao giờ thấy bà hạnh phúc. Tôi thường xuyên mong ngóng bà vào mỗi buổi tối. Những đứa em quấy khóc và tôi dỗ dành chúng, nhưng bản thân tôi chưa bao giờ khóc. Ai lại có thể muốn một đứa trẻ hay khóc? Tôi chỉ có thể có được tình yêu của mẹ nếu tôi tháo vát, thấu hiểu và tự kiểm soát. Tôi không bao giờ hỏi về hành động của bà hoặc cho bà thấy tôi nhớ bà thế nào, điều đó sẽ giới hạn sự tự do của bà, thứ mà bà vô cùng muốn. Như thế bà sẽ quay lưng lại với tôi. Lúc đó, không ai nghĩ rằng con bé Maja yên lặng, tháo vát, hữu dụng này thực sự cô đơn và phải chịu đựng rất nhiều. Tôi có thể làm gì khác ngoài tự hào về mẹ mình và giúp đỡ bà? Lỗ hổng trong trái tim bà càng sâu, viên đá quý trên vương miện của bà càng cần phải lớn. Người mẹ đáng thương của tôi cần những viên đá quý này, vì sâu thẳm bên trong, tất cả những gì bà làm chỉ nhằm dồn nén điều gì đó ở trong bà, có thể là một khao khát nào đó, tôi không rõ nữa… Có thể bà ấy sẽ khám phá ra nó nếu bà làm một người mẹ ruột thịt theo đúng nghĩa, có sự kết nối và chịu khó chăm sóc những đứa con.
Và tất cả những điều này lại lặp lại với Peter! Con trai tôi đã phải trải qua hàng tiếng đồng hồ vô ích với những thỏa mãn nhất thời của mẹ, để tôi có thể cảm thấy “tự do”, điều đấy đẩy tôi ra xa con tôi và chính mình. Giờ đây, tôi biết rằng khi tôi bỏ mặc thằng bé, là lúc tôi đang tìm cách để tránh né cảm xúc của mình. Tôi không nhận ra điều tôi đang làm với nó, vì tôi chưa bao giờ cảm nhận được cảm giác bị bỏ mặc. Chỉ đến lúc này, tôi mới bắt đầu nhận ra tình mẫu tử không có vương miện, đá quý hay hào quang là như thế nào.
Một tạp chí phụ nữ của Đức (tờ báo này đang cố gắng đề cập cởi mở những sự thật từng là điều cấm kị) đã xuất bản bức thư của một độc giả, bộc bạch không giấu giếm một bi kịch khi sống với mẹ mình. Bài tường thuật của cô kết thúc thế này:
Sau đó là việc cho con bú! Tôi đặt thằng bé trước ngực, có lẽ là đã sai cách. Không lâu sau, thằng bé cắn đầu ngực của tôi. Chúa ơi, nó mới đau làm sao. Hai tiếng sau đó mọi chuyện lại diễn ra như vậy: lại nữa… lại nữa. Mỗi lần như vậy, tôi đã khóc và chửi thề. Chuyện tệ hại đến mức tôi không thể ăn gì nữa và bị sốt 40ºC. Tôi được cho phép cai sữa và bỗng nhiên cảm thấy tốt hơn. Đó là một khoảng thời gian rất dài trước khi tôi cảm nhận một chút tình mẫu tử. Tôi chẳng phiền nếu thằng bé không ở bên cạnh tôi. Tất cả mọi người sẽ muốn tôi vui vẻ. Trong cơn tuyệt vọng, tôi gọi điện cho một người bạn và nói rằng tôi thích thằng bé, thích bận rộn cùng nó và luôn có nó ở bên cạnh. Nhưng điều đó chẳng vui vẻ gì. Nói một cách hài hước, tôi chỉ hứng thú với thằng bé khi tôi có thể quay lại làm việc và nhìn thấy nó lúc tôi về nhà, giống như một sự xao nhãng, một thứ đồ chơi. Nhưng nói thật, một con chó cũng có thể có vai trò tương tự. Giờ đây, thằng bé đang lớn dần và tôi nhận ra tôi có thể dạy dỗ nó và nó luôn tận tụy với tôi, tin tưởng tôi. Tôi bắt đầu phát triển những cảm giác dễ chịu hơn với thằng bé và thấy vui khi nó ở đó.
Tôi viết ra tất cả những điều này bởi tôi nghĩ sẽ thật tốt nếu cuối cùng, có ai đó nói rằng chẳng có gì gọi là tình mẫu tử cả, chứ đừng nói tới trực giác của người làm mẹ (Emma, tháng Bảy 1977).
Người phụ nữ này không thể cảm nhận được cả bi kịch của chính mình và của đứa con. Tuổi thơ không có cảm xúc của cô chính là khởi đầu thực sự và là chìa khóa của câu chuyện này. Và thế, những lời tuyên bố tiêu cực này không đúng chút nào. Thật ra, tình mẫu tử và trực giác của người mẹ luôn tồn tại. Chúng ta có thể nhìn thấy điều này khi chúng ta quan sát những con vật chưa bị con người đối xử tệ bạc. Phụ nữ cũng vậy, họ được sinh ra với bản năng lập trình là yêu thương, ủng hộ, bảo vệ và nuôi dưỡng con cái mình và cảm thấy vui vẻ khi làm thế. Nhưng những năng lực trực giác này sẽ dần thui chột nếu họ bị lạm dụng thời thơ ấu nhằm thỏa mãn tức thời nhu cầu của cha mẹ mình. Tuy nhiên may mắn là, như câu chuyện của Johanna dưới đây, chúng ta cũng có thể khôi phục những năng lực này nếu chúng ta quyết tâm đối mặt với sự thật của mình.
Johanna, 35 tuổi, bắt đầu trị liệu trước khi cô mang bầu. Cô chuẩn bị rất kĩ cho lần sinh nở này và rất yêu thích gắn kết với đứa trẻ mới sinh khỏe mạnh. Cô vui mừng vì có nhiều sữa và cho con bú là một điều gì đó rất tuyệt vời. Nhưng bỗng nhiên, bầu ngực của cô căng cứng và đau tức, cuối cùng cô sốt cao. Cô trở nên điên cuồng khi y tá phải cho đứa trẻ ăn bằng bình sữa.
Trong những cơn mộng mị lúc sốt cao, Johanna luôn mơ thấy câu chuyện mình bị cha mẹ và bạn bè của họ lạm dụng tình dục. Nhờ những cảm nhận được đánh thức trong quá trình trị liệu, cô có thể cảm nhận thấy cơn thịnh nộ của mình về việc bị lạm dụng, bị phản bội, và những tổn thương khiến cô mất khả năng đáp ứng nhu cầu của con mình. Chính hành động tội lỗi của cha mẹ đã khiến cô giận dữ nhất. Sau này, cô nói rằng: “Họ đã cướp đi bản năng làm mẹ của tôi khi tôi mới ba tháng tuổi. Những gì diễn ra sau đó, tôi không thể cho con bú, dù tôi muốn làm thế vô cùng.” Cô đã mất một thời gian dài để đối mặt với cha mẹ trong một cuộc trò chuyện nội tâm, để bộc lộ mọi cảm xúc giận dữ và phẫn nộ đã dồn nén từ lâu trong cơ thể, và cuối cùng vượt qua ảnh hưởng của những quấy rối này.
Trước khi có thể chữa lành trọn vẹn, quyết tâm đối mặt với sự thật kinh khủng này đã giúp Johanna giảm sốt và cải thiện tình trạng căng tức ngực của mình. Cô có thể cho con bú, đứa trẻ rất nhanh đã không cần dùng đến bình sữa nữa. Điều này khiến y tá rất ngạc nhiên vì cô ấy khẳng định chắc chắn rằng “điều Johanna làm sẽ không có tác dụng đâu”.
Johanna rất hạnh phúc về con mình. Cô tận hưởng việc có thể yêu thương, bảo vệ, nuôi dưỡng, bế ẵm đứa trẻ và đoán biết những nhu cầu của nó. Nhưng trạng thái này liên tục bị ngắt quãng, vì những nghi ngờ và sợ hãi rằng cô sẽ phải đối mặt với những sự kiện tệ hại nếu cô tiếp tục làm những gì chỉ đem lại niềm vui cho chính mình. Cô từng học về tâm lí, cô tự hỏi mình có mắc chứng ám ảnh và đang bị thôi thúc dùng đứa con để thỏa mãn chính mình và cái tôi thuần túy của mình không. Nhiều bạn bè của cô cũng đồng tình với việc tự kết tội này, họ cảnh báo cô về sự “chiều chuộng” thái quá và bảo cô rằng một đứa trẻ cần học được những giới hạn của mình từ lúc đầu. Nếu không, thằng bé sẽ trở thành kẻ yêu sách. Dù Johanna đã phủ nhận những ý kiến này trong thời gian dài, nhưng với con mình, cô nhạy cảm đến kì lạ và nhanh chóng trở nên bối rối.
Trị liệu giúp Johanna liên tục tìm lại định hướng. Cô luôn cảm thấy việc có thể yêu thương, có thể bộc lộ tình yêu của mình mà không sợ bị phản bội, bị lợi dụng, bị xâm hại quan trọng đến nhường nào. Tình yêu này giúp cô cảm thấy trọn vẹn, như trước khi sự trọn vẹn ấy bị tổn thương. Cuối cùng, trong lần đối thoại nội tâm với cha mẹ, cô nói:
Con yêu Michael, con muốn yêu thằng bé. Tâm hồn con cần tình yêu này như cơ thể con cần không khí. Nhưng con luôn có nguy cơ dồn nén những nhu cầu của mình bằng toàn bộ năng lượng và trí tuệ của con. Con nghĩ con phải “giải phóng” chính mình khỏi ràng buộc này, và điều đó là “sai lầm”. Tại sao thế? Tại sao cha mẹ có thể khiến con cảm nhận những thứ ngớ ngẩn này? Có thể, bằng cách dạy con từ sớm rằng một đứa trẻ không xứng đáng được tôn trọng, rằng nó không phải là con người, rằng nó có thể bị bỏ rơi, bị đối xử tệ bạc, bị đe dọa mà không có bất kì hậu quả gì. Chính thông điệp này, thông điệp của cha mẹ, đã khiến con đôi khi vẫn bối rối, khiến con đôi lúc cảm thấy áp lực và bị đòi hỏi thái quá, nhưng con vẫn không dám cảm thấy phẫn uất với cha mẹ và trở nên mất kiên nhẫn với Michael. Dường như sẽ dễ hơn nếu con cảm thấy Michael đang cản trở tự do của con, vì nó đòi hỏi quá nhiều thời gian của con. Nhưng không phải. Con chỉ cần nhìn vào đôi mắt, nhìn thấy sự ngây thơ và chân thành của nó, con biết: Con lại dùng thằng bé như một thế nhân để bảo vệ cha mẹ.
Một đứa trẻ được yêu thương, ngay từ đầu đã hiểu tình yêu là gì. Một đứa trẻ bị bỏ rơi, bị lạm dụng, bị đối xử tệ bạc như con chẳng thể biết điều đó, nó không bao giờ có cơ hội để học về yêu thương. Nhưng giờ con đã học được, từ Michael, một cách chậm rãi, con biết con sẽ làm được, bất chấp thông điệp của cha mẹ. Con biết con cần khả năng yêu thương đến nhường nào, và con không còn nghi ngờ gì về khả năng của con nữa.
Tôi nghĩ rằng sự đấu tranh của Johanna cho những cảm nhận thật sự của mình không chỉ cứu lấy tương lai của con trai cô, mà còn cứu cả tương lai của cô nữa.
Câu chuyện dưới đây của Ann sẽ cho thấy điều gì có thể xảy ra sau này với một đứa trẻ bị lạm dụng tình dục mà không có sự đấu tranh cũng như sự hỗ trợ từ trị liệu. Ann, 50 tuổi, đã viết cho tôi vài ngày trước cái chết của mình:
Hôm nay, đứa con đã trưởng thành của tôi ghé thăm tôi. Lần đầu tiên trong đời, tôi nhận ra mình được chúng yêu thương. Suốt cả cuộc đời, tôi đã không cảm nhận được tình yêu này cho đến ngày hôm đấy. Tôi thường xuyên bỏ mặc chúng để đi với nhiều người đàn ông, thực ra tôi luôn luôn chạy trốn khỏi chúng, chạy trốn khỏi tình yêu của tôi dành cho chúng, từ tận đáy lòng mình. Tôi cuốn theo khoái lạc tình dục với những người đàn ông khiến tôi vô cùng đau đớn và không bao giờ cho tôi thứ tôi thực sự cần: tình yêu, sự thấu hiểu và sự chấp nhận.
Khi còn bé, tôi luôn phụ thuộc vào cha để tìm kiếm sự khoái lạc, bỏ qua nỗi đau và sự phẫn uất, tôi trốn tránh tình yêu đích thực. Đấy không phải là sự biến thái sao? Tôi không thể trốn tránh nó cả đời. Giờ đây, tôi có thể nhìn nhận điều đó, nhưng đã quá muộn.
Thật sự đã quá muộn, vì dù Ann có thể nhìn thấu và hiểu điều gì đã xảy ra với mình, nhưng cô chỉ có thể cảm thấy tức giận và phẫn uất với những người cô cặp kè mà không phải với người cha của mình. Khi viết trong thư, cô vẫn “yêu thương” và tôn trọng người cha ấy.