Trong kì nghỉ lễ, tôi đã phân loại những suy nghĩ của mình theo chủ đề “sự khinh miệt” và đọc lại những gì tôi ghi chú sau mỗi buổi trị liệu cá nhân. Có lẽ, tôi đặc biệt nhạy cảm hơn với chủ đề này, nên tôi rất hay bị ảnh hưởng vì một câu chuyện nghe rất đỗi bình thường, chứ không phải một sự việc hiếm gặp hoặc dễ gây chú ý nào đó. Tôi sẽ kể câu chuyện này và trình bày những quan sát của mình.
Tôi đang đi dạo bên ngoài, có một cặp đôi trẻ tuổi đang cách tôi vài bước phía trước. Cả hai đều cao lớn, bên cạnh họ là một đứa trẻ chừng hai tuổi, vừa chạy vừa quấy khóc. (Chúng ta đã quen với việc nhìn thấy những tình huống thế này từ góc nhìn của người trưởng thành, nhưng ở đây tôi muốn mô tả nó trong trải nghiệm của một đứa trẻ). Cặp đôi ấy vừa mua kem que ở ki-ốt và thưởng thức với niềm vui thấy rõ. Đứa trẻ cũng muốn ăn kem. Người mẹ trìu mến nói: “Đây, con có thể cắn một miếng kem của mẹ, con không thể ăn hết cả cây kem, nó quá lạnh với con.” Đứa trẻ không chỉ muốn một miếng mà chìa tay ra muốn cả cây kem, nhưng người mẹ lại đưa nó ra xa tầm với. Cậu bé khóc trong tuyệt vọng, và không lâu sau, điều này lại lặp lại với người cha. Người cha trìu mến nói: “Đây, cún cưng, con có thể cắn một miếng kem của cha.” “Không, không chịu.” Đứa trẻ khóc và chạy về phía trước, cố gắng khiến bản thân xao nhãng. Không lâu sau đó, cậu bé trở lại, ngước nhìn chằm chằm đầy ghen tị và buồn bã, trong khi cha mẹ đang vui vẻ ăn kem. Cậu lại giơ tay với cả cây kem, nhưng cánh tay của cha mẹ nó lại rụt lại cùng với “kho báu” của mình.
Đứa trẻ càng khóc, cha mẹ càng cảm thấy thích thú. Nó khiến họ cười, và họ hi vọng có thể chiều con bằng nụ cười của mình: “Nhìn này, có gì đâu mà con cứ nhặng xị lên thế.” Đứa trẻ ngồi bệt xuống sàn và bắt đầu ném những viên đá nhỏ qua vai của người mẹ, nhưng sau đó cậu bé đột nhiên đứng lên và lo lắng nhìn xung quanh, đảm bảo rằng cha mẹ vẫn đang ở đó. Người cha ăn xong cây kem, đưa cái que cho đứa con và đi tiếp. Đứa trẻ liếm phần gỗ đầy hi vọng, nhìn nó rồi vứt nó đi, muốn nhặt lên nhưng lại không làm thế, cơ thể bé nhỏ đã rung lên trong sự thổn thức sâu sắc vì cô đơn và thất vọng. Sau đó, cậu bé lại lóc cóc chạy theo cha mẹ mình.
Với tôi, rõ ràng là đứa bé không tức giận vì những “mong ước nói thành lời” của mình, vì nó có thể cắn một miếng kem, song bé vẫn cảm thấy bị tổn thương và phẫn uất. Mong ước được cầm que kem trên tay giống người khác đã không được cha mẹ thấu hiểu. Tệ hơn là, mong ước đó còn bị cợt nhả, họ cười trước mong ước của đứa trẻ. Cậu bé phải đối mặt với hai gã khổng lồ đang tung hứng cho nhau và tự hào về sự nhất quán đó, trong khi chính nó phải đơn độc trong sự cáu bẳn, chẳng thể nói gì khác ngoài việc “không chịu”. Cậu bé cũng không thể biểu hiện cử chỉ rõ ràng cho cha mẹ hiểu (dù những cử chỉ đó khá rõ ràng rồi). Cậu không có người hỗ trợ, không có người giúp đỡ. Một tình huống bất công làm sao khi một đứa trẻ đối đầu với hai người trưởng thành cao lớn và mạnh mẽ, như một bức tường vậy. Nhưng chúng ta gọi đó là “sự nhất quán trong cách nuôi dạy”, khi chúng ta từ chối để đứa trẻ phàn nàn về cha hoặc mẹ với người còn lại.
Thực tế, tại sao các bậc cha mẹ này lại hành xử với sự thiếu cảm thông đến vậy? Tại sao không ai trong số họ nghĩ đến việc ăn nhanh hơn chút nữa, hoặc thậm chí ném đi một nửa phần kem và đưa cho đứa trẻ cái que với một ít kem trên đó. Tại sao cả hai lại đều đứng đó cười đùa, ăn rất chậm rãi và không bộc lộ một chút quan tâm nào đến sự cáu bẳn dễ thấy của đứa con? Họ không phải người cha, người mẹ lạnh lùng hay độc ác. Họ nói với con mình rất nhẹ nhàng. Nhưng trong khoảnh khăc đó, ít nhất họ đã cho thấy sự thiếu thấu hiểu.
Chúng ta chỉ có thể lí giải điều bí ẩn này nếu chúng ta nhìn nhận cha mẹ như những đứa trẻ bất an, những đứa trẻ trong hình hài người lớn, cuối cùng đã tìm ra một sinh vật yếu đuối hơn, và so với nó, họ có thể cảm thấy cực kì mạnh mẽ. Đứa trẻ nào mà chưa từng bị cười cợt vì sự sợ hãi của mình rồi sau đó được bảo là “Con không cần phải sợ một thứ như thế”? Có đứa trẻ nào sau đó không cảm thấy xấu hổ và bị coi thường vì nó không thể đánh giá đúng sự nguy hiểm không? Và có chắc là đứa trẻ đó khi lớn lên sẽ không nhân cơ hội mà dịch chuyển những cảm xúc này sang một đứa trẻ khác chứ? Những trải nghiệm thế này thì muôn hình vạn trạng. Thông thường với những người lớn là cảm giác mạnh mẽ của một người trưởng thành, họ vốn không có khả năng kiểm soát nỗi sợ hãi của chính mình. Họ nhận lấy chút mạnh mẽ này để đối mặt với nỗi sợ hãi của đứa trẻ bất lực và yếu đuối bên trong mình, đồng thời họ cảm thấy bản thân có thể kiểm soát nỗi sợ hãi trong một người khác.
Tất nhiên, hai mươi năm sau đó, hoặc có thể sớm hơn nếu cậu bé lớn hơn và có em, đứa trẻ năm nào sẽ tua lại hoạt cảnh với cây kem này. Tuy nhiên, giờ đây cậu ta sẽ là người kiểm soát, người em lúc này sẽ là đứa trẻ bé nhỏ, yếu đuối, đố kị và bất lực kia. Những tổn thương của cậu đã không còn dồn nén ở bên trong, mà đem nó phóng chiếu ra bên ngoài.
Coi thường những người nhỏ bé và yếu đuối hơn là một cơ chế phòng vệ tốt nhất chống lại sự bùng nổ cảm xúc bất lực của chính mình. Đấy là một cách thể hiện sự yếu đuối đã bị dồn nén. Một người đã phải dùng cái sự coi thường người khác để cảm thấy mạnh mẽ, thì nên biết rằng anh ta cũng có sự yếu đuối và bất lực đấy. Khi nhận ra được điều này, anh ta sẽ không cần phải chứng minh sức mạnh của bản thân thông qua sự coi thường nữa.
Nhiều người trưởng thành lần đầu nhận thức được cảm giác bất lực, ghen ghét và cô đơn thông qua con cái mình, vì họ không có cơ hội nhận thức và cảm nhận những cảm xúc này một cách có ý thức khi còn bé. Tôi đã kể về bệnh nhân Peter, người bị ám ảnh thôi thúc phải chinh phục phụ nữ, phải quyến rũ và bỏ rơi họ, cho đến khi anh ấy nhận ra chính mình liên tục bị người mẹ bỏ rơi. Anh nhớ lại cha mẹ đã cười cợt mình như thế nào, và anh ấy đã lần đầu tiên cảm nhận được sự bẽ bàng và tủi thân trước kia mình từng trải qua. Tất cả mọi cảm xúc hoàn toàn bị kìm nén khỏi ý thức của anh ta cho đến thời điểm đó, và giờ đây đã có cơ hội thoát ra ngoài.
Những thương tổn mà một người vô thức cảm nhận khi còn nhỏ có thể được chuyển giao sang cho con cái của người đó, theo cách khá tương tự như câu chuyện cây kem mà tôi vừa kể: “Con thấy đấy, ba mẹ lớn rồi, ba mẹ có thể làm những gì mình thích, nhưng với con thì nó ‘quá lạnh’. Con chỉ có thể tận hưởng như chúng ta khi con đủ lớn.” Do đó, không phải sự vỡ mộng khiến đứa trẻ bẽ bàng, mà chính là sự coi thường khiến nó cảm thấy như thế. Nỗi đau càng khắc sâu khi cha mẹ càng muốn chứng tỏ sự “người lớn” nhằm vô thức báo thù cho phần con trẻ trong họ với nỗi bẽ bàng tương tự. Họ đối mặt với quá khứ bị coi thường thông qua lăng kính của đứa trẻ, và họ né tránh quá khứ đấy bằng một sức mạnh giả tạo họ có ở hiện tại. Việc lặp lại những khuôn mẫu hành vi của cha mẹ chúng ta không thể giúp chúng ta giải phóng bản thân. Những khuôn mẫu đó là điều chúng ta phải thấm nhập từ rất sớm. Chúng ta chỉ có thể tự do khi chúng ta hoàn toàn cảm nhận và ý thức được nỗi đau mà cha mẹ áp lên chúng ta. Sau đó, chúng ta sẽ vừa nhận ra những khuôn mẫu hành vi tiêu cực mà chúng ta được thừa hưởng từ cha mẹ, vừa có thể loại bỏ chúng mãi mãi.
Trong hầu hết mọi xã hội cũ, những bé gái còn phải chịu thêm sự phân biệt giới tính vì chúng là con gái. Tuy nhiên, phụ nữ thường có sự kiểm soát với đứa trẻ mới sinh và lớn hơn một chút, bằng một cách nào đấy, họ sẽ truyền cho con cái họ sự thiếu tôn trọng mà họ từng phải chịu đựng, khi chúng ở độ tuổi nhạy cảm nhất. Như một vòng lặp bất tận, đứa trẻ lớn lên sẽ lí tưởng hóa người mẹ, vì tất cả con người đều cần cảm giác thực sự được yêu thương (và họ luôn bám lấy ảo tưởng này). Dẫu thế, họ sẽ coi thường những người phụ nữ khác và dựa vào họ để có thể trả thù lại mẹ mình. Một bé gái từng bị sỉ nhục khi còn nhỏ, lúc lớn lên, nếu không có cách nào để trút bỏ gánh nặng của mình, cô cũng sẽ trút lên con cái để trả thù cho chính mình. Cô có thể âm thầm làm thế mà không sợ bị trả đũa, vì con cái của cô không có cách nào nói với ai khác, trừ việc có thể sau này chúng hình thành những ám ảnh hoặc những triệu chứng khác, đủ kín đáo để người mẹ không cảm thấy bị phản bội.
Thái độ thiếu tôn trọng là một vũ khí của người yếu đuối, là một cách phòng vệ chống lại những cảm xúc không mong muốn hoặc bị coi thường của người đó, vì sự thiếu tôn trọng này có thể khơi dậy những sự kiện đau buồn bị chôn vùi trong quá khứ của anh ta. Ngọn nguồn của mọi sự khinh thường, mọi sự phân biệt đối xử là việc mà người lớn ít nhiều ý thức về nó, họ không kiểm soát được mà bí mật áp đặt uy quyền đấy lên con trẻ. Trừ trường hợp giết người hoặc gây tổn hại nghiêm trọng đến cơ thể, việc áp đặt uy quyền không kiểm soát này vẫn được xã hội chấp nhận. Những gì người lớn làm với tinh thần của con trẻ là chuyện họ có thể định đoạt, vì đứa trẻ được coi là tài sản của cha mẹ, giống như công dân của một nhà nước chuyên chế được coi là tài sản của chính phủ. Việc người lớn áp đặt quyền lực của mình sẽ tiếp tục được coi là một câu chuyện bình thường của con người cho đến khi chúng ta nhận thức được nỗi đau của con trẻ, vì hiếm ai chú ý hoặc coi trọng điều này. Vì nạn nhân “chỉ là trẻ con” nên nỗi đau của chúng cũng bị coi thường. Nhưng hai mươi năm sau, những đứa trẻ này sẽ trở thành người lớn, họ cảm thấy buộc phải chuyển giao, trút bỏ hết tổn thương cho những đứa con của mình. Họ có thể có ý thức trong việc dùng sức mạnh của mình để chống lại sự tàn nhẫn của thế giới, nhưng lại giữ bên mình trải nghiệm đau thương đó và vô thức truyền sang cho người khác. Chừng nào trải nghiệm này còn ẩn sau bức tranh lí tưởng của họ về một tuổi thơ hạnh phúc, họ sẽ không có bất kì nhận thức nào về nó, không thể nào tránh khỏi việc lan truyền nó.
May mắn là khi những đứa con trưởng thành của chúng ta có thể nhận thức được điều chúng ta đang làm và có thể nói với chúng ta về nó. Chúng ta sẽ có cơ hội nhận ra những thất bại của mình và có thể nói lời xin lỗi. Sau cùng, việc nhận thức những gì chúng ta đã làm có thể giúp con cái của chúng ta phá bỏ những vòng luẩn quẩn của nỗi đau bị bỏ rơi, của sự phân biệt đối xử, sự khinh thường, và việc sử dụng không đúng thứ quyền lực được chuyển giao và tiếp nhận qua nhiều thế hệ. Khi con cái chúng ta có thể ý thức về sự bất lực và phẫn nộ hồi nhỏ của chúng, chúng sẽ không cần phải né tránh những cảm xúc đó trong quá trình thể hiện sức mạnh của bản thân trước người khác. Tuy nhiên, trong hầu hết mọi trường hợp, chúng ta chưa thể tiếp cận được những cảm xúc bị kìm nén, những tổn thương thời thơ ấu, đấy chính là nguồn cơn vô thức khá kín đáo để người lớn thể hiện sự coi thường đối với thế hệ sau. Rất nhiều cơ chế phòng vệ sẽ giúp họ biện minh cho hành động của mình, như: phủ nhận nỗi đau của bản thân, hợp lí hóa (tôi mang ơn đứa con trai bé bỏng này, nên tôi phải nuôi dạy thằng bé thật tử tế), chuyển vị (không phải cha tôi, mà là con trai tôi khiến tôi tổn thương), lí tưởng hóa (những trận đòn của cha rất có ích với tôi),… Trên hết, có một cơ chế chuyển hóa nỗi đau bị dồn nén thành một hành vi chủ động. Những ví dụ dưới đây có thể minh họa cách chúng ta bảo vệ bản thân trước những trải nghiệm tuổi thơ của mình, giống nhau đến kinh ngạc, bất chấp sự khác biệt rất lớn về tính cách và trình độ giáo dục.
Một người đàn ông Hi Lạp 30 tuổi, con trai của một nông dân, là chủ của một nhà hàng nhỏ ở Đông Âu. Anh đã tự hào kể rằng anh ta không uống rượu bia và đấy là nhờ cha mình. Năm 15 tuổi, một lần anh về nhà trong tình trạng say xỉn và bị cha đánh đau đến nỗi không thể đi lại được trong một tuần. Kể từ đó, anh ghét cay ghét đắng rượu bia, không thể uống nổi một giọt, dù công việc buộc anh thường xuyên phải tiếp xúc với nó. Tôi nghe nói anh sắp đám cưới, tôi đã hỏi liệu anh sẽ đánh con cái mình hay không. Anh trả lời: “Dĩ nhiên rồi. Roi vọt là điều cần thiết để nuôi dạy một đứa trẻ nên người. Đấy là cách tốt nhất để buộc con cái phải tôn trọng mình. Chẳng hạn, tôi sẽ chẳng bao giờ hút thuốc trước mặt cha tôi, đấy là dấu hiệu cho thấy tôi tôn trọng ông.”
Người đàn ông này không ngốc nghếch, cũng không nhẫn tâm, môi trường sống cũng không có quá nhiều biến động. Do đó, cha mẹ có thể gieo cho anh ta một ảo tưởng rằng giáo dục đòn roi có thể giúp anh ngăn cản việc tự hủy hoại tinh thần của con cái. Nhưng với một người có cơ hội giáo dục rộng mở hơn, liệu họ có chấp nhận được lối giáo dục này?
Trong những năm 70, ở một thị trấn Đông Đức, một tác giả tài năng người Séc đang đọc những tác phẩm của mình. Tiếp đến là cuộc trò chuyện với một độc giả, trong quá trình đó, người đó đã đặt những câu hỏi về cuộc đời ông. Ông thành thật trả lời rằng, dù có sự ủng hộ của Mùa xuân Praha 15 hay không, giờ đây ông vẫn được tự do và có thể di chuyển thường xuyên sang phía Tây. Ông tiếp tục nói về sự phát triển của đất nước mình trong những năm gần đây.
15 Mùa xuân Praha là một giai đoạn tự do hóa nền chính trị tại Tiệp Khắc (tức Cộng hòa Séc), trong thời kì nước này chịu ảnh hưởng từ Liên Bang Xô Viết sau cuộc Thế chiến thứ hai (ND).
Khi được hỏi về thời thơ ấu của mình, mắt ông sáng rực đầy nhiệt huyết, ông có một người cha tài hoa và đa năng, vừa là người đã khuyến khích sự phát triển tinh thần của ông, vừa là một người bạn đích thực. Ông chỉ có thể cho cha mình xem những tập truyện đầu tiên của mình. Cha ông rất tự hào về ông, và ngay cả khi cha đánh phạt con trai vì những hành vi chưa ngoan, cha cũng tự hào vì con trai không khóc. Vị tác giả này nhận ra rằng nước mắt chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đứa trẻ là ông khi đấy đã học được cách kìm nén những giọt nước mắt của mình, và cũng tự hào vì bản thân đã tặng lại lòng dũng cảm của mình cho người cha đáng ngưỡng mộ. Người đàn ông này nói về những trận đòn của cha thường xuyên như thể đấy là một điều rất đỗi bình thường (có lẽ, với ông thì đúng là thế). Ông nói: “Những trận đòn ấy không làm tổn hại gì đến tôi, đấy như một sự chuẩn bị hành trang cho tôi bước vào cuộc đời, giúp tôi trở nên cứng rắn, dạy tôi học cách nghiến răng chịu đựng.”
Trái ngược với tác giả người Séc, đạo diễn phim Ingmar Bergman đã nói trên một chương trình truyền hình với nhận thức rõ hơn, dù vẫn thuần lí trí, về những sự kiện thời thơ ấu của mình. Ông kể một câu chuyện rất dài về cảm giác bị coi thường. Chẳng hạn, ông nhớ rằng nếu mình làm ướt quần thì sẽ phải mặc một chiếc váy đỏ cả ngày để tất cả mọi người biết ông đã làm gì và để ông cảm thấy xấu hổ. Bergman là con trai của một mục sư đạo Tin Lành. Ông kể những mẩu chuyện diễn ra như cơm bữa trong suốt tuổi thơ của ông: Anh trai ông vừa bị cha đánh đòn. Mẹ sẽ thấm vết máu bằng miếng vải, còn ông thì đang ngồi xem. Hẳn ai nghe cũng thấy xót xa, nhưng Bergman lúc trưởng thành đã nói về nó với vẻ lạnh lùng không chút đau thương. Chúng ta có thể hình dung ông lúc còn bé, yên lặng ngồi và chứng kiến những trận đòn đau điếng. Ông có lẽ đã quá quen với những cảnh tượng như thế, không cần chạy đi, không cần nhắm mắt, cũng không khóc, vẻ thờ ơ lãnh đạm. Chúng ta có thể ngờ rằng, chính ông cũng phải chịu đựng những trận đòn như thế, đấy là một phần kí ức đau buồn mà ông muốn chôn giấu.
Đôi khi mọi người tin rằng chỉ có anh chị em của mình phải chịu đựng sự sỉ nhục. Chỉ thông qua trị liệu họ mới có thể tìm lại những trải nghiệm như thế, cảm thấy phẫn nộ và bất lực, cảm thấy tức giận và oán trách, cùng một chút bẽ bàng. Cảm giác bị bỏ rơi như sống lại khi họ nhớ ra đã từng bị người cha đáng kính đánh đòn không thương tiếc.
Tuy nhiên, ngoài sự phóng chiếu và phủ nhận, Ingmar Bergman có một cách khác để đối phó với thương tổn của mình: Ông làm phim và từ đó chuyển dịch những cảm xúc không được cảm nhận sang khán giả. Chúng ta, với tư cách là khán giả của bộ phim, chúng ta cũng đang đối mặt với những cảm xúc của ông, với người con trai nhỏ bé đã không thể trải hết lòng mình, mà phải kìm giữ lại. Chúng ta ngồi đối diện với màn hình, như đứa trẻ Bergman từng ngồi, chứng kiến mọi sự “tàn nhẫn” mà “người anh trai” phải chịu đựng. Hẳn bạn sẽ cảm thấy khó khăn và không sẵn sàng nhận hết sự nhẫn tâm đó bằng những cảm xúc chân thật. Hẳn bạn muốn gạt chúng sang một bên.
Bergman cũng nói một cách tiếc nuối về việc không thể nhìn thấu chủ nghĩa Quốc xã trước năm 1945, dù khi còn là một thiếu niên, ông thường ghé thăm nước Đức trong thời kì Hitler. Tôi cho rằng sự mù quáng này là hệ quả từ tuổi thơ của ông. Ông đã quen hít thở bầu không khí tàn nhẫn đấy từ lúc nhỏ, vì thế ông luôn chú ý đến sự tàn nhẫn và thái độ khinh miệt với người khác.
Tại sao tôi lại nhắc đến ba câu chuyện về những người đàn ông bị đánh đập thời thơ ấu? Không phải vì tôi muốn giới hạn vấn đề coi thường con trẻ trong một phạm vi hẹp, cũng không chỉ cân nhắc đến ảnh hưởng của những trận đòn. Tôi lựa chọn ba câu chuyện này, dù chúng có thể chỉ là những ngoại lệ, nhưng một phần là vì câu chuyện này đã được công khai chứ không cần giữ kín. Hơn cả, tôi muốn cho thấy ảnh hưởng của một sự đối xử tệ bạc nghiêm trọng có thể tiềm chứa những nguy cơ lặp lại những hành động tương tự, do xu hướng lí tưởng hóa mạnh mẽ của một đứa trẻ. Không có sự phán xử, không có lời bào chữa hay phán quyết nào. Tất cả mọi thứ vẫn ẩn trong bóng tối quá khứ và khi sự thật được phơi bày, chúng xuất hiện dưới vỏ bọc của “những ân huệ”. Trong hầu hết những trường hợp bạo hành thể chất, nguy cơ có thể bộc lộ rõ ràng như vậy, nhưng làm sao phơi bày được sự bạo hành cảm xúc, khi nó ít hữu hình hơn và dễ dàng chối bỏ hơn? Ai có thể chú ý đến những phân biệt đối xử theo kiểu rất kín đáo, như trong câu chuyện về đứa trẻ và cây kem?
Quá trình trị liệu của mỗi bệnh nhân sẽ mở ra vô vàn những câu chuyện tương tự như vậy.
Sự lạm dụng trẻ nhỏ của cha mẹ có thể dẫn đến một loạt những lạm dụng tình dục và phi tình dục, mà đứa trẻ chỉ có thể khám phá ra chúng trong quá trình trị liệu lúc trưởng thành, và thường sau khi chính người đó đã có con. Một người cha lớn lên trong một gia đình nề nếp, khắc nghiệt có thể gặp phải vấn đề ức chế tính dục trong đời sống hôn nhân. Đấy có thể là lần đầu tiên anh ta dám nhìn kĩ bộ phận sinh dục của phụ nữ, chơi đùa với chúng và cảm thấy kích thích khi tắm cho cô con gái nhỏ. Một người mẹ có thể choáng ngợp như một đứa bé khi nhìn thấy dương vật đang cương cứng, và cảm thấy sợ hãi bộ phận sinh dục của đàn ông. Hoặc cô có thể cảm thấy đó là một biểu hiện bạo lực mà không thể kể với ai. Một người mẹ như vậy giờ có thể kiểm soát nỗi sợ hãi của mình trong mối quan hệ với đứa con trai bé nhỏ. Chẳng hạn, cô có thể hong khô người cho con sau khi tắm, làm con cảm thấy phấn kích mà không gây nguy hiểm cho bản thân. Cô có thể mát xa dương vật cho con trai đến tuổi dậy thì, để “điều trị thắt bao quy đầu của thằng bé” mà không cảm thấy sợ hãi. Dưới vỏ bọc tình yêu vô tư mà đứa trẻ dành cho mẹ, cô có thể tiếp tục khám phá các vấn đề tính dục mà cô vẫn luôn lưỡng lự, vẫn luôn ngần ngại. Đấy là những vấn đề khiến cô không thể hành động một cách thoải mái và tự nhiên, vì ý thức của bản thân hoặc do kiềm chế cảm xúc thật.
Tuy nhiên, đứa trẻ sẽ ra sao khi cha mẹ có chút rụt rè nhưng vẫn lạm dụng cô ấy? Mọi đứa trẻ đều tìm kiếm sự kết nối tình cảm và vui mừng khi có được nó, nhưng đồng thời sẽ cảm thấy bối rối, bất an và sợ hãi khi bị khơi gợi nhiều cảm xúc đan xen không phù hợp với giai đoạn phát triển này của mình. Sự sợ hãi và bối rối của đứa trẻ sau này sẽ tăng cao nếu những hành vi tự khoái, thủ dâm bị trừng phạt bằng những cấm đoán và khinh miệt của cha mẹ.
Có những cách khác để lạm dụng một đứa trẻ ngoài tính dục, chẳng hạn như tẩy não, thứ núp sau cái bóng của sự nuôi dạy “chống độc đoán” và “nghiêm khắc”. Hiếm có cách nuôi dưỡng nào quan tâm thực sự đến con trẻ. Chừng nào con cái còn bị coi là tài sản và là mục tiêu của cha mẹ, chừng nào gia đình còn kiểm soát con cái, thì sự phát triển tự nhiên của chúng sẽ bị gián đoạn nghiêm trọng.
Chính lối giáo dục cổ hủ, nhiều định kiến thường khiến chúng ta cắt bỏ đi những gốc rễ căn bản và rồi cố gắng thay thế những cơ chế tự nhiên đó bằng những cơ chế nhân tạo. Vì thế, chúng ta đã kìm hãm trí tò mò của đứa trẻ (chẳng hạn những câu hỏi không nên hỏi), và khi trẻ thiếu đi hứng thú học hỏi tự nhiên, chúng ta lại áp cho chúng những chương trình huấn luyện đặc biệt nhằm cải thiện các vấn đề học tập.
Hãy quan sát một chút, bạn sẽ nhìn ra những điều tương tự trong hành vi nghiện ngập. Những người khi còn bé đã dồn nén thành công những cảm xúc mãnh liệt của mình thường cố tìm lại sự mãnh liệt bị đánh mất thông qua chất kích thích hoặc đồ uống có cồn, ít nhất trong khoảng thời gian ngắn.
Nếu chúng ta muốn tránh việc lạm dụng vô thức và sự thiếu tôn trọng với trẻ nhỏ, trước hết chúng ta cần nhận thức được những mối nguy này. Chỉ khi chúng ta trở nên nhạy bén với những phương thức kín đáo khiến một đứa trẻ phải chịu đựng sự sỉ nhục, chúng ta mới có thể hi vọng phát triển sự tôn trọng mà trẻ cần trong những năm tháng đầu tiên của cuộc đời. Có rất nhiều cách để phát triển sự nhạy bén này. Chẳng hạn, chúng ta có thể quan sát những đứa trẻ xa lạ và cố gắng thông cảm cho chúng trong hoàn cảnh của chúng. Nhưng trên hết, chúng ta phải có lòng cảm thông với số phận của chính mình. Những cảm xúc của chúng ta sẽ luôn hé lộ câu chuyện thực sự mà không ai khác biết và chỉ chúng ta có thể khám phá.