Khi làm việc với tư cách nhà phân tâm học, tôi thường được hỏi trong những buổi hội nghị chuyên đề hoặc những giờ hướng dẫn cách một người nên đối mặt với những cảm xúc “không mong muốn”, như cảm giác bực tức mà đôi khi những bệnh nhân khơi dậy ở nhà trị liệu. Một nhà trị liệu nhạy cảm chắc chắn sẽ cảm thấy sự bực tức này. Anh ta có nên kìm nén nó để tránh phủ nhận bệnh nhân của mình không? Nhưng rồi chính bệnh nhân cũng sẽ cảm nhận được sự tức giận bị dồn nén này mà không thể hiểu nó, và sẽ cảm thấy bối rối. Vậy thì, nhà trị liệu có nên thể hiện cảm xúc này không? Làm như thế có khiến bệnh nhân cảm thấy bị xúc phạm hay mất tự tin không?
Tôi nghĩ nếu chúng ta bắt đầu với giả định rằng mọi cảm xúc mà bệnh nhân khơi gợi ở nhà trị liệu là một phần nỗ lực vô thức của bệnh nhân trong việc kể cho nhà trị liệu nghe câu chuyện của mình, và đồng thời che giấu nó khỏi nhà trị liệu, thì vấn đề làm sao để đối mặt với sự tức giận và những cảm xúc không mong muốn khác của bệnh nhân không quá quan trọng nữa. Mặc dù, tất nhiên cách bệnh nhân gợi lên nỗi sợ hãi hoặc bực bội ở nhà trị liệu liên quan đến quá khứ của bệnh nhân, nhưng những cảm xúc này phần lớn cũng có thể bị khơi dậy từ quá khứ của chính nhà trị liệu. Chúng không nên bị gạt sang một bên, chúng luôn là dấu hiệu của một sự thật bị ẩn giấu hoặc một nhận thức trong quá khứ. Nhà trị liệu phải cảm nhận được chúng và tháo gỡ chúng. Anh ta cần phải biết những cảm xúc do bệnh nhân khơi gợi có phải là sự trỗi dậy từ quá khứ của chính anh ta hay không. Và nếu là thế, anh ta có thể trải nghiệm và đối mặt với chúng. Điều này giống như những cố vấn làm việc với các bệnh nhân nghiện, hoặc những nạn nhân bị lạm dụng tình dục hay thể chất khi còn bé khác. Thông thường, họ chỉ ý thức được một dấu vết từ nỗi sợ hãi của chính họ trước khi nhanh chóng che đậy nó bằng những học thuyết trừu tượng, những lời khuyên đạo đức sáo rỗng, hoặc thường chỉ bằng hành vi độc đoán nào đó.
Bộc lộ bản thân trong những thôi thúc lặp lại
Khả năng chấp nhận những cảm xúc của bản thân một lần nữa sẽ mở ra những con đường tiến đến việc có thể đáp ứng những nhu cầu và mong ước bị dồn nén từ lâu của họ. Một số nhu cầu này không thể được thỏa mãn ở thực tại, vì chúng liên quan đến quá khứ. Chẳng hạn, trong số những mong ước, thì mong ước khẩn thiết nhất với một đứa trẻ có thể là có một người mẹ luôn ở bên khi nó cần. Thường thì, trẻ con luôn mong ước về những thứ tượng trưng đại diện cho nhu cầu bị dồn nén của chúng.
Tương tự như thế, có những nhu cầu có thể và nên được thỏa mãn ở hiện tại. Một nhu cầu vô cùng cơ bản trong việc thể hiện chính mình là bộc lộ con người thật của bản thân trước thế giới, bằng lời nói, bằng cử chỉ, bằng hành vi, bằng nghệ thuật, bằng tất cả những cách thể hiện chân thật nhất, bắt đầu bằng tiếng khóc chào đời.
Khi còn nhỏ, đứa trẻ phải che giấu cảm xúc thật của nó khỏi chính nó và người khác, nên việc cất tiếng khóc – trải nghiệm đầu tiên để trở nên cởi mở này, đã tạo ra nhiều lo âu, nhưng trẻ vẫn cảm thấy rất cần vượt qua những giới hạn trước đó. Những trải nghiệm đầu tiên không phải lúc nào cũng dẫn đến cảm giác tự do. Khá thường xuyên chúng dẫn đến sự lặp lại hoàn cảnh thời thơ ấu mà ở đó, cô ấy sẽ cảm thấy xấu hổ và đau đớn tột cùng khi thể hiện chân thực con người thật của mình. Bằng ảo tưởng về những mong cầu có thể được bù đắp, cô sẽ tìm kiếm những người giống như cha mẹ mình vậy, những người chắc chắn không thể hiểu cô (dù vì nhiều lí do). Bởi sự mù quáng do dồn nén, cô sẽ khiến bản thân trở nên dễ hiểu với những người cô đã chọn, cô cố gắng biến những điều bất khả trở nên khả thi.
Trong quá trình trị liệu, Linda, 42 tuổi, đem lòng yêu một người đàn ông lớn tuổi hơn, thông minh và tinh tế. Ngoài khoái lạc và sự khêu gợi, anh ta đã gạt bỏ và phủ nhận mọi thứ mà anh ta không thể hiểu cái lí của chúng, bao gồm cả việc trị liệu tâm lí. Chính xác thì, Linda đã viết những lá thư dài, cố gắng giải thích cho anh ta về con đường trị liệu đã dẫn dắt cô đi đến thời điểm hiện tại. Cô đã thành công trong việc bỏ qua tất cả những dấu hiệu cho thấy sự khó hiểu của anh ta và càng nỗ lực hơn để chinh phục anh ta. Đến cuối cùng, cô phải thừa nhận rằng cô đã tìm ra một người cha thay thế. Cô vẫn không thể từ bỏ hi vọng rằng một ngày nào đấy cô sẽ được thấu hiểu. Sự thức tỉnh này khiến cô cảm thấy xấu hổ và đau đớn suốt một thời gian dài.
Một ngày nọ, cô đã có thể cảm nhận sâu sắc sự xấu hổ này trong buổi trị liệu và nói: “Tôi cảm thấy thật lố bịch, như thể tôi đang nói chuyện với bức tường và hi vọng nó trả lời, giống như một đứa trẻ ngốc nghếch vậy.” Tôi hỏi: “Chị có nghĩ nó lố bịch không nếu chị nhìn thấy một đứa trẻ nói với bức tường về những rắc rối của nó khi không có ai ở bên nó cả?” Linda thổn thức đầy tuyệt vọng, cô nhận ra thực tế luôn tràn đầy sự cô đơn vô bờ bến của mình. Cuối cùng, chính điều này đã giải phóng cô khỏi cảm giác lo âu, tiêu cực và xấu hổ lặp đi lặp lại.
Mãi sau này Linda mới dám liên kết trải nghiệm về “bức tường” này với tuổi thơ của chính mình. Cô vốn là người có khả năng thể hiện bản thân rất rõ ràng. Nhưng người phụ nữ này đã mô tả trải nghiệm của mình theo cách vô cùng phức tạp và với tốc độ nhanh đến mức tôi không thể hiểu hết những điều cô nói. Cô trải qua những giây phút căm ghét và phẫn nộ bất chợt, trách cứ tôi vô tâm và thiếu cảm thông. Linda khó mà công nhận tôi nữa, dù tôi không hề thay đổi. Nhưng từ đây, cô ấy đã khám phá lại tuổi thơ của mình. Cô nhận ra sự ghẻ lạnh của người mẹ dành cho cô. Bà cũng có một tuổi thơ không mấy dễ chịu, trải qua một năm đầu đời trong trại mồ côi, bà không thể đem đến sự dịu dàng và gần gũi cho con gái. Linda đã biết điều này từ lâu, nhưng đó chỉ là một sự nhận thức về mặt lí trí. Hơn nữa, sự cảm thông với câu chuyện buồn của người mẹ đã cản trở Linda cảm nhận hoàn cảnh của mình. Hình ảnh người mẹ đáng thương đã cản trở những cảm nhận của cô về chính mình.
Phải đến khi Linda có thể trách cứ, đầu tiên là với tôi, sau đó là với người mẹ của mình, thì cô mới ý thức được về cảm giác tuyệt vọng: Mục tiêu cả đời của cô là tìm kiếm sự gần gũi và kết nối chưa bao giờ được đáp ứng từ thời thơ ấu và đã bị dồn nén. Những kí ức bị dồn nén về người mẹ bẽn lẽn, xa cách và thường xuyên vắng mặt đã khiến cô con gái cảm thấy như đây là bức tường ngăn cách cô với người khác. Cuối cùng cô cũng được giải phóng khỏi thôi thúc lặp lại việc tìm kiếm một người bạn đời không hiểu gì về cô hoặc những hành động tương tự, để rồi cô cảm thấy bất lực và phụ thuộc vào anh ta. Sự mê hoặc của những mối quan hệ nhiều dày vò thế này là kết quả của những kí ức bị chôn vùi và một sự đấu tranh cho một lối thoát tốt đẹp hơn về sau.
Chứng biến thái tính dục và rối loạn ám ảnh cưỡng chế
Nếu chúng ta bắt đầu từ một tiền đề rằng sự phát triển toàn diện của một cá nhân (và sự cân bằng của anh ta, vốn dựa trên nền tảng đó) phụ thuộc vào cách người mẹ cảm nhận được những nhu cầu và cảm xúc của anh ta trong những ngày tháng đầu tiên của cuộc đời, thì chúng ta buộc phải giả định rằng: Đây là khởi đầu của một bi kịch sau này có thể đã được định sẵn. Nếu người mẹ không thể tìm thấy niềm vui ở con cái mà bắt con cư xử theo một cách nào đó, thì sự chọn lọc giá trị đầu tiên đã diễn ra với đứa trẻ. Giờ đây, “tốt” được phân biệt với “xấu”, “dễ chịu” được phân biệt với “khó chịu”, và “đúng” thì khác với “sai”, sự phân biệt này xảy ra trong nội tâm đứa trẻ. Nền tảng này sẽ đi theo tất cả những suy nghĩ, đánh giá của anh ta về chính mình.
Một đứa trẻ như vậy phải học được rằng có những thứ về chính mình mà mẹ “không có quyền sử dụng”. Bà sẽ bắt con mình kiểm soát những chức năng cơ thể càng sớm càng tốt. Ở mức độ ý thức, cha mẹ dường như mong muốn đứa con làm vậy để không cảm thấy bị xã hội xúc phạm, nhưng trong vô thức, họ đang bảo vệ những dồn nén của chính mình từ lúc họ còn bé và nỗi sợ hãi “bị xúc phạm”.
Marie Hesse, mẹ của nhà thơ và tiểu thuyết gia Hermann Hesse, trong cuốn nhật kí của mình, bà mô tả cái ý chí đã tan vỡ từ lúc bốn tuổi của bà. Khi con trai lên bốn, bà phải chịu đựng rất nhiều hành vi nổi loạn của con trai và tìm cách ngăn chặn những hành vi đó ở nhiều mức độ khác nhau. Năm 15 tuổi, Hermann Hesse được gửi đến một trung tâm chăm sóc người động kinh và khuyết tật ở Stetten, “để chấm dứt sự nổi loạn của con trai một lần và mãi mãi”. Trong một bức thư đầy giận dữ gửi đi từ Stetten, Hermann viết cho cha mẹ rằng: “Nếu con là kẻ cố chấp và không phải là con người, liệu con có thể hi vọng sự thấu hiểu từ cha mẹ?” Không có gì thay đổi cả, việc giải phóng khỏi gia đình đi kèm với điều kiện con “phải tiến bộ”, và do đó, đứa trẻ “đã tiến bộ”.
Trong một bài thơ dành tặng cha mẹ, sự phủ nhận và lí tưởng hóa vẫn được duy trì, Hermann tự trách mình rằng chính “tính cách” của ông đã gây khó dễ cho cha mẹ. Rất nhiều người cả đời phải day dứt vì cảm giác tội lỗi đè nặng này, vì cảm giác không thể đáp ứng kì vọng của cha mẹ. Cảm giác này mạnh mẽ hơn bất kì sự hiểu biết thường tình nào, rằng việc thỏa mãn nhu cầu của cha mẹ không phải trách nhiệm và nghĩa vụ của đứa trẻ. Không có lí lẽ nào có thể xoa dịu được cảm giác tội lỗi đã có mầm mống từ rất sớm này, và từ đó chúng thôi thúc sự mãnh liệt và bướng bỉnh của con. Chúng ta chỉ có thể chậm rãi tháo gỡ những cảm xúc mạnh liệt này với sự trợ giúp của trị liệu chữa lành.
Có lẽ chúng ta không thể chữa lành vết thương lớn nhất, nỗi đau không được yêu thương như một con người thực sự, mà không phải chịu đựng nỗi xót xa. Những vết thương ấy có thể được che đậy và phủ lấp thành công (dưới chứng vĩ cuồng và chứng trầm cảm), hoặc liên tục bị cứa rách bằng những thôi thúc lặp lại. Chúng ta sẽ đối mặt với khả năng bị cứa rách này trong những rối loạn ám ảnh và chứng biến thái tính dục, do phản ứng đầy khinh miệt của người mẹ (hoặc người cha) bị dồn nén và lưu lại trong cơ thể đứa trẻ. (Điều tương tự cũng xảy ra với đứa trẻ bị đối xử tệ bạc và bị quấy rối). Người mẹ thường phản ứng bằng sự ngạc nhiên và kinh hoàng, ác cảm và kinh tởm, choáng váng và giận dữ, hoặc sợ hãi và hoảng loạn với những cơn bốc đồng tự nhiên nhất của đứa trẻ: hành vi tự khoái, việc con tự khám phá cơ thể của chính nó, việc đi tiểu tiện và đại tiện của nó, hay sự tò mò và giận dữ của đứa trẻ trước sự phản bội và bất công. Sau đó, tất cả những trải nghiệm này vẫn liên kết chặt chẽ với ánh mắt sợ hãi của người mẹ. Ánh mắt ấy khiến đứa trẻ rơi vào những ám ảnh và biến thái mà ở đó, những hoạt cảnh sang chấn nó phải chịu đựng luôn lặp lại. Để tránh né đau thương, chính đứa trẻ không được nhận ra ý nghĩa thật sự của những hoạt cảnh này.
Bệnh nhân sẽ trải qua giằng xé khi anh ta hé lộ với nhà trị liệu hành vi tình dục và tự khoái thầm kín của anh ta từ trước đến giờ. Anh ta cũng có thể đề cập đến thông tin này mà không có cảm xúc gì, chỉ đơn thuần là cung cấp thông tin, như thể đang nói chuyện với một người khác. Tuy nhiên, câu chuyện này sẽ không thể giúp anh ta bớt cô đơn hoặc đưa anh ta ngược trở lại với tuổi thơ của mình. Chỉ khi anh ta sẵn sàng không né tránh những cảm xúc xấu hổ và sợ hãi của mình, mà chấp nhận và trải nghiệm chúng, anh ta mới có thể khám phá những sự thật trong quá khứ lí giải cho những cảm xúc này. Hành vi vô hại nhất của anh ta rồi sẽ khiến anh ta cảm thấy hèn hạ, bẩn thỉu hoặc hoàn toàn bị tan vỡ. Thực tế, anh ta ngạc nhiên khi nhận ra những cảm giác xấu hổ này đã bị dồn nén bao lâu, và làm cách nào nó tìm thấy một chỗ đứng bên cạnh những quan điểm tình dục đầy bao dung và cấp tiến của anh ta. Những trải nghiệm này lần đầu cho anh ta thấy sự thích nghi từ sớm bằng cách thỏa hiệp không phải là biểu hiện của kẻ hèn nhát, mà thực sự đó là cơ hội sống duy nhất của anh ta, để thoát khỏi nỗi sợ hãi về những nguy hiểm gần kề đe dọa sự sống còn của anh ta (nỗi sợ chết).
Một người mẹ có thể nguy hiểm đến mức đó ư? Đúng, nếu bà luôn tự hào bà là một người con thân yêu, tốt đẹp của mẹ mình, người không còn tè dầm lúc sáu tháng tuổi và sạch sẽ thơm tho từ lúc một tuổi, lên ba tuổi đã có thể “làm mẹ” của những đứa em, và những gì tương tự như thế 16. Người mẹ đó đã nhìn thấy ở đứa con của mình một phần bản thân mà bà chưa bao giờ trải nghiệm và cảm thấy xa lạ, cảm giác này bùng nổ trong ý thức của bà khiến bà sợ hãi. Bà cũng nhìn thấy ở đó đứa em đầy tự do của mình, người mà bà đã chăm bẵm từ hồi nhỏ, và chỉ hiện tại bà mới cảm nhận được sự đố kị, thậm chí ghét bỏ trong hình hài đứa con mình. Từ đó, bà dạy dỗ con mình sống bằng những ánh nhìn của người ngoài, dù có thể bà hiểu biết hơn mẹ mình trong vấn đề này.
16 Hình thức gây rối loạn phát triển tự nhiên ở trẻ này không phổ biến ở Mĩ như ở Châu Âu. Rất nhiều bệnh nhân của tôi đã không còn tè dầm từ lúc 5 tháng tuổi, và mẹ của họ thì khá tự hào về “thành tích” này. Độc giả người Mĩ có thể quen thuộc hơn với những hình thức khác như việc cho ăn theo lịch và luyện cho trẻ sơ sinh ngủ qua đêm bằng cách kệ tiếng khóc của nó.
Khi đứa trẻ lớn lên, nó không thể ngừng việc sống thật với mình và sẽ luôn có cách bộc lộ nó ở đâu đó, hoàn toàn bí mật. Bằng cách này, một người có thể thích nghi với những đòi hỏi của những người xung quanh và phát triển một cái tôi giả dối. Nhưng trong sự biến thái và chứng rối loạn ám ảnh, anh ta vẫn cho phép một phần con người thật của mình được sống – trong sự dày vò. Và do đó, cái tôi thật sự vẫn sống, nhưng trong âm thầm, như khi đứa trẻ sống với người mẹ, tiếp tục dồn nén những kí ức đau buồn về bà. Trong sự biến thái và ám ảnh của mình, anh ta liên tục kích hoạt lại một bi kịch. Đấy là người mẹ đáng sợ phải có mặt bên cạnh anh ta trước khi sự thỏa mãn tình dục xảy ra: trạng thái cực khoái (với một vật kích thích tình dục) chỉ có thể đạt đến trong sự coi thường chính mình; những chỉ trích chỉ có thể được bộc lộ trong những ảo tưởng vô cùng phi lí, kì quặc và gây ám ảnh. Không có gì dễ khiến chúng ta quen với bi kịch ẩn giấu trong những mối quan hệ mẹ con vô thức hơn là việc chứng kiến sức mạnh hủy diệt của những thôi thúc lặp lại, và sự tương tác âm thầm của thôi thúc này trong màn kịch của chính nó.
Điều quan trọng là, mặc dù bệnh nhân có thể cảm nhận rằng nhà trị liệu đang chống lại những khao khát và thôi thúc của mình, hoặc đang có ý chỉ trích hay coi thường mình, nhưng nhà trị liệu không bao giờ nên như vậy. Điều này nghe có vẻ hiển nhiên, nhưng thực tế thì không phải lúc nào cũng như thế. Thực tế, nhà trị liệu đôi khi làm điều ngược lại một cách vô thức. Bởi nhà trị liệu sợ hãi vùng đất bị dồn nén của chính mình. Anh ta khó có thể chịu đựng được việc trở thành một nhân vật thù địch, anh ta chứng tỏ sự bao dung của mình theo cách không cho phép sự sợ hãi và bối rối của một đứa trẻ xuất hiện ở bệnh nhân.
Một nhà trị liệu như vậy có thể nhấn mạnh rằng với anh ta, bệnh nhân của anh ta luôn luôn là người lớn và không phải “trẻ con” – như thể những cảm xúc của đứa trẻ là một điều gì đó đáng xấu hổ, vô ích và không có giá trị. Thỉnh thoảng, nhà trị liệu nói về vấn đề bệnh tật. Anh hăm hở coi bệnh nhân của mình càng khỏe mạnh càng tốt, anh ta có thể cảnh báo trước cho bệnh nhân về “sự hồi tưởng nguy hiểm”, và cho rằng “bệnh tật” đôi khi không phải là cách duy nhất bộc lộ con người thật của một người. Sau tất cả, có nhiều người đã cố gắng cả đời mình để làm người lớn và khỏe mạnh (bình thường) nhất. Họ đáng ra phải nhận được sự ủng hộ để họ cảm thấy nhẹ nhõm hơn khi họ khám phá ra những trói buộc xã hội trong việc bị phủ nhận thời thơ ấu và những “chuẩn mực” họ tôn thờ. Chỉ bằng cách từ bỏ chúng, họ mới có thể kết nối với những cảm xúc thật của mình. Tôi thích sử dụng từ “bệnh nhân” thay vì “thân chủ” – từ vốn được sử dụng thường xuyên hơn trong trị liệu ngày nay. Phải đến khi tôi cảm nhận bản thân như một bệnh nhân, như một người chịu đau đớn, thì tôi mới tìm ra cách thoát khỏi cái bẫy dồn nén và giúp đỡ chính mình. Là một “thân chủ” của một “nhà trị liệu giỏi” (có vẻ thế), tôi chỉ tiếp thu được kiến thức của họ. Những kiến thức ngày chẳng có ích gì cho tôi trong việc tìm kiếm sự chữa lành.
Mark, 32 tuổi, liên tục phải sống trong sự lệch lạc và rất sợ bị người khác phủ nhận. Anh phải chịu đựng sự phủ nhận từ người mẹ. Anh bị thôi thúc phải làm những việc mà xã hội và những người xung quanh anh không ủng hộ và coi thường, dù anh rất sợ phải chịu sự trừng phạt cho những gì anh ta gây ra. Nếu xã hội bất chợt vinh danh sự lệch lạc này của anh ta (như đã xảy ra trong một số đội nhóm), anh ta có thể đã thay đổi thôi thúc này của mình, nhưng điều đó sẽ không bao giờ cho anh ta tự do. Điều anh ta tìm kiếm không phải là sự chấp nhận cái lệch lạc biến thái của anh ta, mà là ánh mắt sợ hãi và ghê tởm của mẹ mình, với hi vọng về một kết quả tốt hơn. Anh ta cũng tìm kiếm điều này ở nhà trị liệu của mình, anh sẽ vận dụng đủ mọi cách khiến nhà trị liệu cảm thấy ghê tởm, sợ hãi và khó chịu. Thôi thúc lệch lạc này cho thấy rất rõ những gì đã thực sự xảy ra trong những năm đầu đời của Mark. Tuy nhiên, việc kể lại này không có ích gì cho anh ta nếu anh ta không thể tiếp cận những cảm xúc bị dồn nén. Một người thông tuệ nhất cũng khó lòng giúp anh ta phá bỏ được rào cản này. Nhưng với việc thể hiện sự bất mãn, bộc lộ bản thân và cảm nhận những cảm xúc thầm kín nhất, đối mặt với những lạm dụng và loại bỏ những hành vi không tốt, anh ta có thể từ bỏ màn kịch của mình. Giờ đây, anh ta biết mình thực sự cần gì.
Nếu nhà trị liệu có thể nhìn thấu những mục tiêu và thôi thúc đằng sau sự lệch lạc này, thì toàn bộ bức tường phòng vệ mục nát trong bệnh nhân sẽ sụp đổ và nhường chỗ cho cảm giác xót xa và bất lực tột cùng. Cuối cùng, khi anh ta cảm nhận được vết thương lòng của mình, thì sự méo mó và lệch lạc sẽ không còn cần thiết nữa. Nếu bệnh nhân được dạy dỗ từ bé rằng không được cảm thấy gì cả, trong khi nhà trị liệu cố gắng cho bệnh nhân thấy những “xung đột bản năng tính dục” của anh ta, thì đấy rõ ràng là một sai lầm. Nếu không có những cảm xúc giận dữ, bị bỏ rơi, ghen ghét, cô đơn và được yêu thương, thì làm thế nào để bệnh nhân có thể trải nghiệm những xung đột này?
Trong mười năm trở lại đây, tôi đã nhận được nhiều lá thư từ độc giả nói rằng ở tuổi vị thành niên, họ bị đàn ông quấy rối và lạm dụng tình dục, bị lợi dụng tình cảm, nhưng họ không thể nhận ra sự thật này bởi sự mù quáng bắt nguồn từ những kí ức tuổi thơ bị dồn nén của họ. Phải đến khi họ đọc cuốn sách của tôi – Thou Shalt Not Be Aware (Tạm dịch: Bạn không nên biết điều này), họ mới bắt đầu hoài nghi. Lần đầu tiên trong cuộc đời, họ dám đặt câu hỏi về hành vi của những người đã quấy rối họ. Họ chưa bao giờ nghĩ rằng họ bị phản bội, rằng họ khao khát tình yêu và tình cảm của họ bị lợi dụng, vì họ không có khả năng nhận thức những cảm xúc của mình. Con đường duy nhất họ có thể đi là lí tưởng hóa kẻ quyến rũ, người bạn, người thầy, hoặc người chủ của mình, và trở nên nghiện một kiểu hành vi tính dục đặc biệt nào đó, hoặc nghiện thuốc, hoặc cả hai. Việc đấu tranh để được xã hội chấp nhận những hình thái nghiện ngập này, dù là tính dục hay phi tính dục, là một trong nhiều cách để ta trốn tránh việc phải đối mặt với quá khứ của mình.
Có rất nhiều người mà nhu cầu được bảo vệ, được quan tâm, được yêu thương nhưng không được đáp ứng của họ bị tính dục hóa từ sớm, họ sống với những ám ảnh tình dục khác nhau mà chưa từng đối mặt với quá khứ của mình. Họ tham gia những hội nhóm, chấp nhận vô điều kiện những học thuyết xác nhận những ám ảnh của mình, và giả vờ chia sẻ với người khác về kiến thức “khoa học”, trong khi họ vô thức ngụy trang đi quá khứ bị dồn nén của mình. Khi đó, họ đang làm tổn thương người khác theo cách họ từng bị tổn thương mà không có chút hối hận nào. Tôi cho rằng tương lai (tức phương pháp trị liệu) của những cá nhân này và nạn nhân của họ sẽ gặp phải nguy cơ trở nên rối loạn hơn do ảnh hưởng từ nhiều hệ tư tưởng trị liệu. Họ nên biết rằng họ có thể khám phá quá khứ của chính mình, nghiên cứu nó, lí giải nó và giải phóng bản thân khỏi những ám ảnh cố hữu gây tổn hại đến họ và những người khác. Điều rất đáng chú ý là chứng “nghiện” tình dục thường biến mất khi bệnh nhân bắt đầu trải nghiệm những cảm xúc của riêng mình và tìm ra những nhu cầu thực sự của anh ta.
Tôi muốn trích một đoạn tin tức về St. Pauli, phố đèn đỏ ở Hamburg, từng xuất hiện trên tạp chí Stern của Đức (Tháng Sáu, 1978): “Bạn trải qua một giấc mơ nam tính, đầy say mê nhưng cũng đầy mộng ảo, được phụ nữ chiều chuộng như một đứa trẻ, đồng thời lại đang ra lệnh cho họ như một vị Pasha 17.” “Giấc mơ” này thực tế không vô lí tí nào, nó trỗi dậy từ những nhu cầu hợp lí và chân thành nhất của một đứa trẻ. Thế giới của chúng ta sẽ khác đi rất nhiều nếu đa phần trẻ em đều có cơ hội đòi hỏi mẹ mình như một vị Pasha, được mẹ yêu chiều cùng lúc, mà không cần đánh đồng bản thân với những nhu cầu của người mẹ.
Người đưa tin đã hỏi một số khách hàng thân thiết ở dãy phố này rằng điều gì khiến họ hài lòng nhất về những cơ sở kinh doanh ở đây, và tóm tắt các câu trả lời như sau:
17 Một tước hiệu cao quý dành cho nam giới dưới đế chế Ottoman và ở Bắc Phi (ND).
Những cô gái luôn sẵn sàng phục vụ và hoàn toàn chiều theo ý của khách hàng. Họ không đòi hỏi những cam kết tình cảm như người yêu. Khi khoái lạc qua đi, không có bất kì ràng buộc, chiêu trò tâm lí hoặc những dằn vặt nào trong ý thức: “Anh trả tiền và anh tự do!” Với khách hàng, ngay cả khi (và đặc biệt là) sự nhục nhã xuất hiện trong một cuộc gặp gỡ như thế cũng góp phần làm tăng những khoái cảm, nhưng điều này ít được đề cập đến.
Cảm giác nhục nhã, ghê tởm bản thân, coi thường chính mình đã khơi dậy câu chuyện quá khứ, và bằng thôi thúc lặp lại, đã tạo ra những trạng thái bi kịch tương tự trong khi tìm kiếm những khoái lạc. Từ góc nhìn này, thôi thúc lặp lại là một cơ hội tuyệt vời để tháo gỡ các lớp phòng vệ khi bệnh nhân cảm nhận và làm sáng tỏ những cảm xúc hiện tại. Nếu không tận dụng cơ hội này, nếu bỏ qua thông điệp của những cảm xúc này, thì thôi thúc lặp lại sẽ tiếp diễn không thể dừng lại trong suốt phần đời còn lại của bệnh nhân, dù nó tồn tại dưới bất kì hình thức nào.
Những gì thuộc về vô thức không thể bị phá vỡ bằng những tuyên bố hay cấm đoán. Tuy nhiên, người ta có thể phát triển sự nhạy cảm để nhận ra nó và bắt đầu trải ng- hiệm nó một cách có ý thức, cuối cùng họ sẽ kiểm soát được nó. Một người mẹ không thể thực sự tôn trọng đứa con nếu cô không nhận ra cảm giác tủi hổ sâu sắc mà cô gây ra cho thằng bé bằng một vài nhận xét châm chọc, vốn chỉ để che đi sự thiếu chắc chắn của chính mình. Thực tế, nếu người mẹ chưa bao giờ ý thức được cảm giác bẽ bàng, tủi nhục của mình, và cố gắng né tránh nó bằng sự mỉa mai, cợt nhả, thì cô cũng không thể nhận ra rằng con mình cảm thấy bẽ bàng, bị coi thường và không có giá trị như thế nào.
Ta có thể nói điều tương tự với hầu hết các bác sĩ tâm thần, các nhà tâm lí học lâm sàng, và các nhà trị liệu. Chắc chắn họ không sử dụng những từ như “tệ hại”, “bẩn thỉu”, “nghịch ngợm”, “ích kỉ”, “hư hỏng”, nhưng trong thâm tâm, đôi khi họ sẽ thốt ra chứng “ái kỉ”, “vĩ cuồng”, “tiêu cực”, “dồn nén” hoặc “rối loạn ranh giới”, mà không để ý rằng họ đang gán cho những từ này một ý nghĩa xấu. Có thể vốn từ chuyên sâu của họ, thái độ được cho là khách quan của họ, thậm chí cách họ hình thành những học thuyết của mình và sốt sắng đưa ra chẩn đoán, tất cả điều đó có phần tương tự như những cái nhìn đầy coi thường của một người mẹ – điều mà từ đó, họ có thể truy tìm về đứa trẻ ba tuổi phải thỏa hiệp bên trong chính mình nếu họ sẵn sàng.
Cũng dễ hiểu khi thái độ khinh thường của một bệnh nhân nào đó có thể thôi thúc nhà trị liệu bảo vệ sự hơn người của mình thông qua các học thuyết khoa học. Nhưng nếu nhà trị liệu xây một bức tường như vậy, anh ta sẽ không nhìn thấy con người thật sự của bệnh nhân và của chính mình. Con người ấy vẫn ẩn khuất khỏi đôi mắt của nhà trị liệu như cái cách họ che giấu mình trước đôi mắt ghẻ lạnh của người mẹ. Tuy nhiên, chúng ta có thể tận dụng tốt những mảnh ghép của câu chuyện về một đứa trẻ bị coi thường đằng sau thái độ và cử chỉ coi thường của bệnh nhân đó. Bằng cách này, nhà trị liệu sẽ đỡ cảm thấy rằng mình đang bị tấn công và dễ dàng từ bỏ mong muốn phòng vệ bằng những học thuyết của mình. Các học thuyết nói chung là cần thiết, nhưng không nên biến các học thuyết đó thành một tấm khiên phòng vệ: Chúng không được trở thành người kế nhiệm của một người mẹ nghiêm khắc và thích kiểm soát, buộc nhà trị liệu thỏa hiệp với nó.