Nếu chúng tôi phải nói với bệnh nhân rằng trong xã hội khác, sự lệch lạc biến thái của anh ấy không phải vấn đề. Vấn đề ở đây là xã hội của chúng ta bị thoái hóa, tạo ra những giới hạn và ràng buộc. Chúng tôi sẽ nói với anh ấy ít nhất một phần sự thật, nhưng điều này dường như không mấy có ích với bệnh nhân. Thay vào đó, anh ấy sẽ cảm thấy rằng cùng với quá khứ của riêng mình, anh ta đang bị bỏ rơi và bị hiểu lầm, và những diễn giải này chỉ góp phần rất nhỏ vào bi kịch thực sự của anh ấy. Điều anh ấy phải hiểu rõ nhất là thôi thúc lặp lại của chính anh và vấn đề đằng sau sự thôi thúc đó. Cảnh ngộ khốn đốn của anh ấy chắc chắn là kết quả của những áp lực xã hội, nhưng chúng không ảnh hưởng lên tâm lí của anh ấy thông qua những tri thức trừu tượng, khó hiểu. Mà nỗi tuyệt vọng đã bám sâu trong trải nghiệm cảm xúc sớm nhất của anh ấy với mẹ mình. Do đó, những vấn đề của anh ấy không thể tháo gỡ bằng lời nói, mà chỉ có thể thông qua trải nghiệm – không chỉ trải nghiệm đã được điều chỉnh để thích nghi khi lớn lên, mà trên hết, là thông qua một trải nghiệm ý thức về nỗi sợ hãi ban đầu bị người mẹ coi thường, cùng cảm giác oán giận và buồn đau sau đó. Bất kể diễn giải có khéo léo đến đâu, chỉ ngôn từ thôi sẽ chẳng thay đổi được gì, thậm chí còn làm sâu sắc thêm sự chia rẽ giữa những suy đoán lí trí và sự hiểu biết về cơ thể, một sự chia rẽ đau đớn anh phải chịu đựng từ lâu.
Cho nên, chúng ta khó có thể giải phóng một người nghiện khỏi cơn nghiện đau đớn và dai dẳng chỉ bằng cách cho anh ta thấy những định kiến phi lí, sự lạm dụng và cái tai ác của xã hội có thể gây ra chứng loạn thần kinh và biến thái của những người sống trong nó – dù điều này có thể đúng. Người nghiện sẽ yêu thích những lí giải như thế và hăm hở tin tưởng nó, vì chúng giúp anh ta quên đi sự thật đau thương. Mặc dù những nỗi đau ấy có thể khơi gợi ở chúng ta sự căm phẫn, nỗi oán giận và cảm giác bất lực, nhưng những sự thật chúng ta có thể nhìn nhận sẽ giúp chúng ta chấm dứt rối loạn. Nói cách khác, những thứ khiến chúng ta rối loạn là những thứ chúng ta không thể nhìn cho thấu đáo, những ràng buộc xã hội mà chúng ta tiếp thu thông qua đôi mắt của cha mẹ. Không có việc đọc hay học nào có thể giải phóng chúng ta khỏi những ánh nhìn đấy.
Thực tế, nhiều người mắc phải những triệu chứng rối loạn thần kinh nghiêm trọng lại là những người rất thông minh. Họ đọc trong sách báo về tính vô lí của các cuộc chạy đua vũ trang, về sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản, sự thiếu chân thành trong hoạt động ngoại giao, sự hung hăng và thao túng quyền lực, sự khuất phục và nhún nhường của phe yếu, và sự bất lực của các cá nhân,… Họ suy nghĩ về những chủ đề như vậy. Điều họ không nhìn thấy – vì họ không thể thấy, là sự phi lí nằm trong quan điểm của cha mẹ thấm nhiễm vào họ từ khi họ còn là một đứa trẻ.
Sự áp đặt và bắt buộc tuân thủ những quy tắc và luật lệ không bắt đầu ở văn phòng, ở nhà máy hay trong một đảng phái chính trị. Việc này bắt đầu ngay ở những tháng ngày đầu tiên trong cuộc đời của một đứa trẻ. Một đứa trẻ không có khả năng phản kháng lại sự áp đặt này, và bắt đầu dồn nén những cảm xúc đau khổ, bất mãn. Dần dần, trẻ thuận theo và không thể tìm thấy lí lẽ gì để phản kháng nữa. Không có gì thay đổi trong vấn đề tuân thủ và phụ thuộc, chỉ thay đổi đối tượng mà đứa trẻ sẽ phụ thuộc vào.
Những hành động xung đột có thể được nuôi dưỡng bằng sự phẫn uất vô thức của những đứa trẻ bị ngược đãi, bị bỏ tù, bị bóc lột, bị kìm hãm và bị chèn ép. Sự phẫn nộ này có thể phần nào giảm bớt khi chiến đấu với “kẻ thù” mà không cần phải từ bỏ lí tưởng về cha mẹ mình. Sự phụ thuộc vào cha mẹ sau đó sẽ thay đổi thành sự phụ thuộc vào một hội nhóm hoặc một người dẫn dắt mới. Song, nếu chịu đựng sự vỡ mộng và cảm giác cay đắng sau đó, anh ta chưa chắc đã thoát ra khỏi những ràng buộc xã hội và chính trị, nhưng anh ta có thể thoát khỏi những thôi thúc hành động lặp lại. Anh ta sẽ có một mục tiêu rõ hơn, bắt nguồn từ những quyết định sáng suốt và có ý thức.
Một khi đã đối mặt và cảm nhận được thực tế của riêng mình, nhu cầu nội tâm xây dựng những ảo tưởng và phủ nhận mới để tránh cảm nhận thực tại đó sẽ biến mất. Chúng ta sẽ nhận ra rằng suốt cuộc đời mình, chúng ta đã phải sợ hãi và đấu tranh để tránh né điều thực sự không thể xảy ra nữa, nó đã xảy ra rồi – từ khi chúng ta bắt đầu cuộc đời này trong trạng thái hoàn toàn phụ thuộc.
Những ảnh hưởng trị liệu (dưới dạng cải thiện tạm thời) có thể đạt được nếu một trạng thái ý thức khắc nghiệt được thay thế bằng ý thức của nhà trị liệu, hoặc của ai đó bao dung hơn trong hội nhóm. Tuy nhiên, mục tiêu của trị liệu không phải là thay đổi quá khứ, mà là giúp bệnh nhân vừa đối diện với quá khứ của chính mình, vừa có thể xót xa cho nó. Bệnh nhân phải khám phá những kí ức ban đầu bên trong chính mình, phải ý thức được sự coi thường và thao túng vô thức của cha mẹ, để anh ta có thể giải phóng chính mình khỏi điều đấy. Chừng nào anh ta còn tận dụng triệt để một sự bao dung thay thế, mượn từ nhà trị liệu hoặc hội nhóm của mình, thì những thái độ coi thường mà anh ta tiếp thu từ cha mẹ mình vẫn sẽ ẩn nấp và không thay đổi trong vô thức của anh ta, mặc cho những mục tiêu và trí tuệ của anh ta được cải thiện trở nên tốt hơn. Thái độ coi thường này sẽ tự bộc lộ trong mối quan hệ với mọi người, và tiếp tục dày vò bệnh nhân chừng nào nó vẫn hoạt động trong từng tế bào cơ thể của anh ta. Những bí mật, những nỗi đau, những bất mãn trong vô thức vẫn sẽ giữ nguyên và bất tận. Thay đổi chỉ diễn ra khi nào những bí mật này tiến vào ý thức.