Thái độ coi thường của nhiều người rối loạn thần kinh có thể bắt nguồn từ nhiều yếu tố khác nhau trong cuộc đời họ. Nhưng cơ chế chung của tất cả các biểu hiện này là sự phòng vệ khỏi những cảm xúc không mong muốn. Sự coi thường sẽ tan biến, mất trọng tâm khi nó không còn đóng vai trò là cái khiên chống lại sự xấu hổ của đứa trẻ trước tình yêu tuyệt vọng và không được đáp lại của nó, chống lại cảm giác thiếu thốn của nó, và trên hết, là chống lại cơn giận dữ vì cha mẹ không ở bên cạnh nó. Một khi chúng ta có thể cảm nhận và hiểu những cảm xúc bị dồn nén thời thơ ấu, chúng ta sẽ không cần dùng thái độ coi thường như một cơ chế phòng vệ chống lại nỗi xấu hổ này nữa. Mặt khác, nếu chúng ta cứ coi thường người khác và đánh giá quá cao những thành tựu của chính mình (“Cậu ta không thể làm được những gì tôi có thể làm”), chúng ta vẫn mãi xót xa rằng tình yêu sẽ không đến khi không có thành tích. Tuy nhiên, nếu chúng ta tránh né khoảnh khắc xót xa này, tận đáy lòng, chúng ta mới là người bị coi thường, vì chúng ta phải coi thường tất cả những gì không tuyệt vời, không tốt đẹp và không tài giỏi ở bản thân. Vì thế, chúng ta đã duy trì nỗi cô đơn thời thơ ấu: Chúng ta coi thường sự yếu đuối, vô dụng, không chắc chắn của đứa trẻ trong chúng ta và trong cả những người xung quanh.
Thái độ coi thường người khác ở những người vĩ cuồng thành công luôn đi kèm với sự thiếu tôn trọng cái tôi đích thực của họ, vì sự khinh thường mang hàm ý rằng: “Một cá nhân sẽ hoàn toàn vô giá trị nếu không có những phẩm chất vượt trội này.” Sâu xa hơn, điều này có nghĩa là: “Nếu không có những thành tựu này, những tài năng này, mình sẽ không thể được yêu thương, và chẳng bao giờ được yêu thương.” Chứng vĩ cuồng ở họ đảm bảo cho ảo tưởng rằng “Mình được yêu thương” sẽ tiếp diễn. Cách thoát khỏi ảo tưởng và sự phản bội chính mình này có thể minh họa rõ nét bằng giấc mơ của John.
John, 48 tuổi, quay trở lại trị liệu vì bị giày vò bởi những ám ảnh và liên tục mơ thấy anh ta đang ở trên một tòa tháp canh giữa một đầm lầy, nằm bên rìa một thị trấn thân quen với anh ta. Trên thực tế, thị trấn này không có tháp canh, nó mãi mãi thuộc về phong cảnh trong giấc mơ của John, và anh ta biết rõ điều đó. Từ đây, anh ta có một nơi ngắm cảnh tuyệt đẹp, nhưng anh ta cảm thấy buồn bã và bị bỏ rơi. Có một thang máy trong tòa tháp, phải rất khó khăn để anh ta lấy được tấm vé ra vào. Cũng có rất nhiều chướng ngại vật anh ta phải vượt qua khi leo lên tòa tháp. Giấc mơ thường xuyên lặp lại cùng với cảm giác bị bỏ rơi.
Sau rất nhiều thay đổi trong quá trình trị liệu, những phiên bản mới của giấc mơ này bắt đầu xuất hiện, và cuối cùng, nó thay đổi hoàn toàn. John ngạc nhiên khi mơ rằng anh ta có tấm vé vào cửa, nhưng tòa tháp đã bị sụp đổ và không còn cảnh quan nào nữa. Thay vào đó, anh ta có thể đi bộ vào thị trấn và nhìn thấy “không phải toàn cảnh” mà là “cái gì đó cận cảnh”. Chứng sợ thang máy của John phần nào được giải tỏa, anh ta đã từng rất lo lắng khi đứng trong cái thang máy đó. Nhân tiện nói về giấc mơ, anh ta nói anh ta có thể không phụ thuộc vào việc nhìn ra toàn bộ phong cảnh bên ngoài, nhìn thấy tất cả mọi thứ – hay là việc phải cảm thấy ở trên và thông minh hơn người khác. Anh ta giờ đây có thể đi bộ như bao người.
John còn ngạc nhiên hơn khi sau đó, anh ta mơ thấy mình đột nhiên ngồi trong thang máy tòa tháp một lần nữa, đi lên cái cáp treo mà không hề cảm thấy sợ hãi. Anh ta tận hưởng chuyến đi đó, leo lên nóc, và kì lạ là, anh ta nhìn thấy cuộc đời xung quanh mình đầy màu sắc. Anh ta đang ở trên một cao nguyên, từ đây anh có thể nhìn xuống những thung lũng. Ở đó cũng có một thị trấn, với một khu chợ đầy hàng hóa, một ngôi trường nơi trẻ con đang tập múa ba-lê và anh ta có thể tham gia cùng (đây là một mong ước từ thời thơ ấu), có một nhóm người đang trò chuyện, trong đó có cả anh ta. Anh ta cảm thấy hòa nhập với xã hội này bằng chính con người của mình. Mặc dù giấc mơ phản ánh mong ước của anh ta hơn là thực tế, nó cho anh ta thấy những nhu cầu thực sự của bản thân: là được yêu thương, yêu thương mà không cần đến thành tựu. Giấc mơ này khắc sâu trong anh ta. Anh ta nói:
Giấc mơ trước đây của tôi về tòa tháp chính là biểu tượng cho sự cô độc và nỗi cô đơn của tôi. Ở nhà, tôi là anh cả, tôi thấy mình luôn vượt xa những người em, cha mẹ cũng chẳng thể thông minh như tôi, tôi cảm thấy đơn độc trong mọi vấn đề liên quan đến tri thức. Một mặt, tôi phải chứng minh trình độ kiến thức của mình để được những người xung quanh coi trọng. Mặt khác, tôi phải giấu nó đi, nếu không cha mẹ tôi sẽ nói: “Việc học khiến con tự mãn rồi đấy! Con nghĩ con giỏi hơn tất cả mọi người vì con có cơ hội đi học ư? Nếu mẹ không hi sinh và cha không làm việc chăm chỉ thì con sẽ chẳng bao giờ làm được như thế đâu.” Nó khiến tôi cảm thấy tội lỗi và tôi cố gắng giấu đi sự khác biệt, những sở thích và tài năng của mình. Tôi muốn giống như bao người khác. Chẳng có cách nào để tôi là chính mình, để tôi được tôn trọng con người thật của tôi.
Vậy là, John đã đi tìm tòa tháp của mình và đấu tranh với các chướng ngại vật (trên đường đi, với những cái vé vào cửa, nỗi sợ hãi của anh và những chướng ngại khác nữa). Khi anh lên đỉnh tháp, chính là khi anh thấy mình thông minh hơn người khác, anh cảm thấy cô đơn và bị bỏ rơi.
Có là một nghịch lí nổi tiếng và phổ biến là cha mẹ giữ một thái độ cạnh tranh và hằn học với con mình, đồng thời giục giã chúng phải đạt được những thành tựu vĩ đại nhất và tự hào về thành công đó. Do đó, John phải đi tìm tòa tháp của mình và đối mặt với những chướng ngại. Cuối cùng, anh trải qua một cuộc nổi loạn chống lại áp lực thành tựu và căng thẳng, từ đó tòa tháp đã biến mất khỏi những giấc mơ của anh. Anh có thể từ bỏ ảo tưởng vĩ cuồng của mình trong việc nhìn thấy tất cả mọi thứ từ trên cao và ngắm nhìn quang cảnh thị trấn thân thương của mình (trong bản thân anh) một cách rõ ràng và gần gũi hơn.
Chỉ đến lúc này, anh mới hiểu mình cảm thấy bị thôi thúc tự cô lập bản thân khỏi những người xung quanh thông qua thái độ coi thường. Đồng thời, anh ta cô lập và tách biệt khỏi con người thật của mình, ít nhất là phần không chắc chắn và bất lực bên trong anh ta.
Về nguyên tắc, thái độ coi thường sẽ biến mất khi ta bắt đầu cảm thấy xót thương cho những điều đã không thể thay đổi, vì thái độ coi thường cũng có cách của riêng nó để phủ nhận thực tại trong quá khứ. Sau tất cả, có lẽ sẽ bớt đau đớn hơn khi nghĩ rằng người khác không hiểu vì họ ngây dại. Rồi chúng ta có thể nỗ lực giải thích cho họ, và tiếp tục duy trì ảo tưởng rằng mình được thấu hiểu (“nếu tôi có thể thể hiện bản thân đúng cách”) 21. Tuy nhiên, nếu không nỗ lực, chúng ta sẽ buộc phải nhận ra rằng không thể có sự thấu hiểu nào, vì sự dồn nén những nhu cầu thời thơ ấu của cha mẹ đã khiến họ không nhận ra những nhu cầu của con cái mình.
21 Những ví dụ đau đớn về quá trình này chính là các tác phẩm của Van Gogh (xem Nagara, 1967), người đã vô cùng nỗ lực, bằng mọi giá giành lấy tình cảm của người mẹ nhưng không thành.
Ngay cả những bậc cha mẹ nhận thức rất rõ về vấn đề này không phải lúc nào cũng thấu hiểu con mình, nhưng họ sẽ tôn trọng cảm xúc của con kể cả khi họ không hiểu. Khi không nhận được sự tôn trọng, con cái sẽ tìm cách trốn tránh một sự thật đau đớn trong những hệ tư tưởng. Thực tế, chủ nghĩa dân tộc, phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa phát-xít không là gì ngoài vỏ bọc ý thức hệ từ những kí ức vô thức, đau đớn của thái độ coi thường biến thành sự thiếu tôn trọng một cách tiêu cực và nguy hiểm với cuộc sống của con người, và được ca ngợi như một cương lĩnh chính trị. Sự tàn nhẫn tiềm tàng truyền qua nhiều thế hệ được trút lên những đứa trẻ bất lực, giờ đây trở nên rõ ràng hơn trong sự bạo lực của các nhóm chính trị như thế. Tuy nhiên, nguồn gốc của sự tàn nhẫn này trong thời thơ ấu và trong thái độ coi thường với đứa trẻ vẫn bị che giấu và phủ nhận, không chỉ bởi những thành viên trong những hội nhóm này, mà còn bởi toàn xã hội.