Những biến thái tính dục, những ám ảnh, và việc cuốn theo các hệ tư tưởng không phải là con đường duy nhất dẫn đến bi kịch sớm phải chịu đựng tổn thương từ sự coi thường. Có muôn vàn cách chúng ta có thể lan truyền ra bên ngoài cái đặc tính gia đình, hoàn cảnh sống mà chúng ta phải chịu đựng hồi còn bé. Chẳng hạn, có những người chưa bao giờ nói lớn tiếng hay tức giận, dường như luôn luôn ôn hòa và cao quý, nhưng vẫn khiến người khác cảm thấy lố bịch, ngu ngốc, thậm chí là ồn ào, hoặc là luôn tầm thường so với chính họ. Họ không biết điều ấy, và có lẽ không chủ ý làm thế, nhưng đó là những gì họ tỏa ra: thái độ của cha mẹ họ, thứ họ chưa bao giờ nhận thức được. Con cái của những người như vậy sẽ cảm thấy đặc biệt khó khăn khi muốn trách cứ ai đó, cho đến khi chúng học được điều đó trong quá trình trị liệu.
Rồi có những người tỏ vẻ rất thân thiện, bao trùm bầu không khí xung quanh, khiến người đối diện cảm thấy sự có mặt của bản thân không là gì cả. Họ truyền tải cảm giác rằng họ là người duy nhất tồn tại, là người duy nhất có thể nói bất kì điều gì thú vị hoặc thích đáng. Người khác chỉ có thể đứng đó và ngưỡng mộ họ trong sự hứng thú, hoặc quay đi trong sự thất vọng và buồn bã vì thấy bản thân không có giá trị gì, không thể thể hiện được khả năng của mình trước sự hiện diện của họ. Những người này có thể là con cái của những cha mẹ vĩ cuồng. Khi còn nhỏ, họ không có khả năng đấu tranh với cha mẹ mình; và lúc trưởng thành, họ vô thức đem đến cảm giác này cho những người xung quanh họ.
Những người khi còn nhỏ có trí tuệ vượt xa cha mẹ mình và được cha mẹ ngưỡng mộ, họ tạo ra những ấn tượng khác biệt, nhưng vì thế họ phải một mình đối mặt với những vấn đề của chính họ. Những người này cho ta cảm giác về sức mạnh trí tuệ và ý chí của họ, và họ dường như cũng đòi hỏi chúng ta phải chiến đấu chống lại những cảm giác yếu đuối thông qua việc nâng cao tri thức, trí tuệ. Khi ở bên cạnh họ, chúng ta cảm thấy không thể nhìn nhận bản thân là một người có vấn đề, và cũng như họ, chúng ta có cảm giác không được cha mẹ công nhận. Trước cha mẹ, chúng ta luôn luôn phải tỏ ra mạnh mẽ.
Khi ghi nhớ những ví dụ này, chúng ta sẽ dễ dàng hiểu tại sao các giáo sư hoặc nhà văn, những người có khả năng thể hiện bản thân một cách rõ ràng, sẽ sử dụng thứ ngôn ngữ phức tạp và rối rắm đến nỗi học sinh và độc giả của họ phải đấu tranh trong bực tức để hiểu được những ý tưởng không mấy hữu dụng. Sau đó, người học có thể trải qua những cảm xúc tương tự như giáo viên của mình khi bị dồn nén trong mối quan hệ với cha mẹ. Nếu một ngày nào đó, người học đấy trở thành giáo viên, họ sẽ có cơ hội truyền lại mớ kiến thức không mấy hữu ích này và coi đấy như một viên đá quý giá vô ngần (có lẽ vì họ đã phải trả giá rất nhiều để có được những thứ tưởng như quý giá ấy).
Một phần rất lớn tạo nên thành công của quá trình trị liệu chính là khi chúng ta nhận thức được những xu hướng tiêu cực của cha mẹ mình đang tồn tại trong chính chúng ta. Nhưng để tự giải phóng bản thân khỏi những xu hướng đó, chúng ta cần nhiều hơn một sự nhận thức thuần tri thức: Chúng ta phải đối mặt với cảm xúc về cha mẹ mình thông qua đối thoại nội tâm.
Khi bệnh nhân đã tháo gỡ cảm xúc của mình với quá khứ tuổi thơ và lấy lại cảm giác đầy sức sống, lúc đó trị liệu đã đạt được mục tiêu của nó. Bệnh nhân có thể sử dụng những công cụ mình đã học bất cứ khi nào những cảm xúc từ quá khứ bị khơi gợi lên trong những sự kiện ở hiện tại. Theo thời gian, cô sẽ tận dụng những công cụ này ngày càng hiệu quả và tốn ít thời gian hơn. “Kim chỉ nam” của cuộc đời cô sẽ luôn ở đó mỗi khi cô cần.
Nhà trị liệu phải để bệnh nhân quyết định cô có đi làm hay không; cô có muốn ở một mình cùng người yêu hay không; cô có muốn tham gia một đảng phái chính trị hay không, nếu có thì là phe nào,... Tất cả phải do bệnh nhân quyết định. Cuộc đời cô, trải nghiệm của cô, và những gì cô học được từ những trải nghiệm đó đều đóng một vai trò quan trọng trong cách cô sống với cuộc đời. Nhà trị liệu không có nghĩa vụ phải khiến cô “quảng giao” hơn, hay “nâng cao nhận thức” của cô (kể cả vấn đề chính trị), vì mọi hình thức tuyên truyền, hướng dẫn, đều phủ nhận sự tự chủ của bệnh nhân), hoặc “giúp cô kết bạn”. Tất cả là chuyện bệnh nhân cần phải quyết định.
Khi bệnh nhân đã ý thức được và liên tục thấy rằng quá trình nuôi dưỡng của cha mẹ đã thao túng và hủy hoại tuổi thơ của cô như thế nào, khi những khát khao trả thù đã biến mất, cô sẽ nhìn ra sự thao túng nhanh hơn và ít có ham muốn thao túng người khác hơn. Nhờ vậy, cô có thể tham gia các hội nhóm mà cô muốn mà không bị phụ thuộc và cảm thấy bất lực, vì cô đã trải qua sự bất lực và phụ thuộc trong thời thơ ấu. Nếu bệnh nhân nhận ra hồi còn bé, cô đã coi từng câu chữ của cha mẹ là trí tuệ cao siêu như thế nào, thì cô sẽ bớt có nguy cơ lí tưởng hóa các cá nhân hoặc các hệ thống tư tưởng, hoặc bị lừa bởi một thầy cả trong giáo phái nào đó. Trong khi lắng nghe một bài giảng hoặc đọc một cuốn sách, bệnh nhân có thể tạm thời cảm thấy hứng thú và ngưỡng mộ giống như hồi nhỏ, nhưng cô sẽ sớm nhận ra và khước từ bản chất rỗng tuếch ẩn sau những lời nói quyến rũ đến rùng mình. Một người trưởng thành thông qua trải nghiệm của riêng mình không thể bị lừa bởi những lời nói hấp dẫn nhưng vô lí. Cuối cùng, một người đã ý thức và tháo gỡ được toàn bộ bi kịch số phận của mình sẽ nhìn thấy rõ nỗi đau của người khác hơn, dù người đó có thể vẫn cố gắng che giấu nó. Cô sẽ không coi thường cảm xúc của người khác, bất kể mọi thứ có ra sao, vì cô coi trọng cảm xúc của mình và biết làm thế nào để đối diện với chúng. Chắc chắn cô sẽ không để cho vòng tròn luẩn quẩn độc hại của sự coi thường tiếp diễn mãi.
Việc tháo gỡ những tổn thương thời thơ ấu và từ bỏ thái độ coi thường này không chỉ ảnh hưởng tích cực đến một cá nhân và gia đình người đó, mà nó còn đóng một vai trò quan trọng với toàn xã hội. Những người đã khám phá ra quá khứ của mình thông qua cảm xúc, đã học được cách hiểu rõ những cảm xúc đó và giải quyết vấn đề chuyển tiếp thái độ từ cha mẹ sang con cái thông qua trị liệu, sẽ không còn bị thôi thúc căm ghét những người vô tội để bảo vệ những người thực chất phải nhận sự căm ghét đó. Họ có thể ghét bỏ những gì đáng ghét và yêu những gì xứng đáng được yêu. Một khi họ dám nhận ra người nào đẩy họ đến hoàn cảnh này và quá trình xảy ra sự việc đó, họ sẽ có định hướng tốt hơn với thực tại và có thể tránh những hành động mù quáng và vô thức. Họ sẽ không còn cư xử như những đứa trẻ từng bị ngược đãi, như những đứa trẻ phải bảo vệ cha mẹ của mình. Giờ đây, họ không còn cần một người đóng thế nào khác chịu đựng những cảm xúc bị chôn vùi đang dày vò họ.
Tương lai của nền dân chủ và sự tự do dân chủ phụ thuộc vào khả năng chúng ta có thể thực hiện bước tiến này và nhận ra rằng, chúng ta không thể đấu tranh chống lại sự căm ghét bên ngoài, mà bỏ qua những thông điệp bên trong. Chúng ta phải biết và sử dụng những công cụ cần thiết để xử lí sự thù ghét này: Chúng ta phải cảm nhận và thấu hiểu nguồn gốc và tính hợp lí của nó. Chừng nào con đường làm sáng tỏ cảm xúc của chính mình vẫn còn bị ngăn chặn bởi nỗi sợ hãi vô thức về cha mẹ chúng ta, chừng đó việc sử dụng thiện chí, lòng tốt và một tinh thần yêu thương với những người xung quanh cũng sẽ chẳng có ích gì.
Việc cảm nhận một cách có ý thức những cảm xúc của mình chính là sự giải phóng, không phải chỉ bởi những căng thẳng bị dồn nén lâu ngày trong cơ thể được xả thoát, mà hơn cả, nó giúp chúng ta nhìn nhận thực tại (cả quá khứ và tương lai) và giải phóng chúng ta khỏi những dối trá và ảo tưởng. Quá trình này đưa chúng ta quay lại với những kí ức bị dồn nén và giúp chúng ta xua tan những triệu chứng bệnh lí hiện hữu. Theo đó, nó tiếp thêm cho ta sức mạnh mà không mang tính hủy hoại. Cảm xúc bị dồn nén có thể được tháo gỡ ngay khi chúng ta cảm nhận được những cảm xúc này, hiểu chúng và công nhận sự hợp lí của chúng. Việc tháo gỡ những cảm xúc này là hoàn toàn khả thi và khác biệt với việc dồn nén chúng.
Dẫu thế, sự căm ghét vô lí không bao giờ biến mất. Sự căm ghét có thể chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác, nhưng nó sẽ mãi mãi hiện hữu và không phai nhạt. Cảm giác này cũng không thể nguôi ngoai: Sự thù ghét đầu độc và che mờ tâm hồn, dày vò kí ức và tâm trí, giết chết khả năng cảm thông và thấu suốt của mỗi người. Sức mạnh hủy diệt của sự thù ghét này bắt nguồn từ những bi kịch, những tổn thương đã bị dồn nén và lưu trữ trong cơ thể, nhưng nếu không có liệu pháp trị liệu hiệu quả, thì chúng ta khó có khả năng tiếp cận trực tiếp với ý chí, với ý thức của mình. Việc căm ghét và xúc phạm một người vô tội, coi anh ta là một thế thân, chỉ giúp gia cố những bức tường ngục tù của sự bối rối, cô lập, sợ hãi và cô đơn trong nội tâm. Điều đấy chắc chắn không thể đem cho chúng ta tự do. Không sớm thì muộn, một ngôi nhà được xây dựng từ sự phản bội chính mình cũng sẽ sụp đổ và hủy hoại con người sống trong đó – nếu không giết chết người xây nên thì sẽ là con cái của anh ta. Chúng cảm nhận được lời nói dối của cha mẹ nhưng không nhận thức được nó, và cuối cùng sẽ phải trả giá đắt cho sự ngầm thỏa hiệp này.
Một cá nhân có thể chân thành và không tự dối lừa bản thân khi đối mặt với những cảm xúc của mình, họ không cần phải che giấu chúng dưới vỏ bọc của một hệ tư tưởng. Điểm tương đồng cơ bản của những phong trào chủ nghĩa dân tộc khác nhau đang phát triển ngày nay đã hé lộ rằng, động cơ của những người tham gia các phong trào này không liên quan đến lợi ích thực sự với những người đang đấu tranh và ghét bỏ điều gì đấy, mà thay vào đó, động cơ của họ có liên quan rất nhiều đến câu chuyện tuổi thơ của chính họ. Vấn nạn ngược đãi, bị sỉ nhục và lạm dụng trẻ em giống nhau ở khắp mọi nơi, vì đây là phương cách để “người lớn” né tránh những kí ức tuổi thơ đau buồn. Những cá nhân nào không muốn biết về quá khứ thực sự của chính mình sẽ cùng nhau phủ nhận xã hội, tìm kiếm một “kẻ thù” chung để bộc phát sự phẫn nộ bị dồn nén của mình. Nhưng là những cư dân của hành tinh nhỏ bé này vào cuối thế kỉ XX, mối nguy hiểm tiềm tàng trong sự tự dối lừa đang gia tăng theo cấp số nhân và nguy cơ đó ngày càng gần hơn với chúng ta. May mắn là, chúng ta đồng thời đã có những công cụ để thực sự thấu hiểu bản thân, cả trong quá khứ lẫn hiện tại.