NHÂN VẬT YOUNG JUMP
Một bé trai có cặp mắt xanh, quần áo tươm tất, gọn gàng, với mái tóc óng mượt và một khoảnh tóc mọc trái khoáy – rất giống với mẹ cậu - và nụ cười tươi tắn luôn nở ra là hình ảnh người ta thường nhìn thấy trong những bức ảnh thời niên thiếu của Bill Gates. Những ấn tượng này có thể gây ngộ nhận đây là một cậu bé hiền lành, ngoan ngoãn. Nhưng chớ vội kết luận bởi trong thực tế Gates là một cậu bé hiếu động, luôn luôn nhảy nhổm lên vì một chuyện gì đó. Cậu bé này thường không biết chán khi chơi trò tự nhét người vào một cái hộp rồi búng nhảy ra ngoài và đo xem mỗi lần cậu đã nhảy được bao xa. Trong lứa tuổi vị thành niên và thậm chí cả sau này, cậu ta thường bất ngờ phóng người nhảy lên và với tay chạm vào các nhánh cây, chấn song cửa hoặc bất kỳ vật gì trên cao lọt vào mắt cậu bé.
GIAI ĐOẠN TRƯỞNG THÀNH
Những hành động thể hiện sự hiếu động đó đã tạo nguồn cảm hứng cho một họa sĩ truyện tranh người Nhật đặt tên cho nhân vật mà ông mô phỏng theo Gates là Young Jump. Giống như nguyên mẫu, nhân vật Young Jump nổi tiếng này cũng bất chấp mọi thủ đoạn trong lúc mạo hiểm lao vào ngành công nghệ cao của mình.
Gates là con trai duy nhất trong gia đình, anh có một chị gái lớn hơn anh một tuổi và một em gái kém anh chín tuổi. Anh được bà đặt cho biệt danh là “Trey” bởi vì chữ số “III” đi sau tên anh. Trey là một thuật ngữ của những người chơi bài hoặc chơi cờ domino để chỉ quân bài hoặc cờ domino có ba nút. Thân sinh của Gates, ông bà Bill Sr. và Mary Maxwell Gates, xuất thân trong những gia đình đã đến định cư tại bang Washington từ rất sớm. Đó là những gia đình có truyền thống gắn bó, đoàn kết chặt chẽ với nhau và luôn duy trì một nguồn tài chính an toàn, ổn định. Hai ông bà đã gặp gỡ và lập gia đình với nhau khi vẫn còn đang theo học đại học. Cha của Gates là thành viên của một công ty luật danh tiếng ở Seattle; và mẹ anh, một giáo viên, có mối quan hệ rất rộng với giới thượng lưu tại Seattle và tích cực tham gia vào các hoạt động văn hóa, xã hội của thành phố này.
Lúc còn bé, Gates rất thích được đu đưa trên lưng những chú ngựa gỗ; khi đã trưởng thành, Gates vẫn có thói quen đu đưa khi đang tập trung suy nghĩ hoặc đang chịu áp lực. Anh là một người rất dễ bị buồn chán.
“Khi còn là sinh viên, tôi ghi chép bằng cả hai tay và chỉ sử dụng tay phải khi cảm thấy buồn chán và muốn có một thách thức nhỏ nào đó”.
Năm lớp sáu, Gates là học sinh kém trong lớp, là đứa con ngỗ ngược trong mắt mẹ mình và thường gặp khó khăn trong cuộc sống. Cha mẹ anh quyết định đưa anh đến bác sỹ tâm lý để khám bệnh.
Gates nhận xét về bác sỹ này: “Ông ấy thật tuyệt vời. Ông đưa sách cho tôi đọc sau mỗi lần khám, những sách của Freud(*), và tôi thực sự bước vào lý thuyết tâm thần học”.
(*) Sigment Freud, người đã khởi xướng và xây dựng bộ môn phân tâm học, dựa trên các ý tưởng cho rằng đời sống tinh thần chi phối trên cả hai cấp ý thức và vô thức, và các biến cố thời thơ ấu có ảnh hưởng mạnh về mặt tâm lý trong suốt cuộc đời.
Sau một năm điều trị cho cậu bé, bác sỹ công bố những kết luận khiến mẹ của Gates phải lo âu. Ông nói rằng sẽ vô ích nếu ép buộc cậu bé phải tuân theo các nề nếp ứng xử truyền thống hoặc bắt cậu phải biết vâng lời và ngoan ngoãn hơn:
“Ông bà sẽ thất bại nếu không điều chỉnh lại cách giáo dục bởi vì sẽ không có tác dụng trong việc khuất phục cháu nhà đâu”.
Gates liên tục thay đổi nhiều thú say mê của mình. Thổi kèn Trombone một thời gian, rồi quay sang nghiền ngẫm truyện Tarzan và Martian của nhà văn Edgar Rice Burroughs. Khi lên bảy tuổi, Gates quyết định đọc toàn bộ bộ sách bách khoa toàn thư. Cậu bé đã đọc tới tận vần P và rồi quyết định chuyển sang thú say mê khác. Cậu ngấu nghiến tìm hiểu cuộc đời của những người nổi tiếng như Franklin D.Roosevelt (1882-1945, Tổng thống thứ 32 của Mỹ - ND) hoặc Napoléon, cố gắng học theo mọi điều về vị hoàng đế Pháp này.
“Ngày còn bé, khoa học tự nhiên làm tôi rất thích thú bởi vì nhờ nó mới có các cuộc phóng tàu vũ trụ lên mặt trăng. Chúng tôi có thể tìm hiểu về oxy lỏng và biết được phải đạt đến vận tốc bao nhiêu thì tên lửa mới có thể thắng được lực hút của trái đất. Bây giờ, phần lớn các chương trình không gian đã được phổ biến rộng rãi nên nỗi khát khao tìm hiểu về nókhông còn thôi thúc tôi như trước kia nữa.”
Gia đình Gates đi lễ ở nhà thờ thuộc giáo đoàn University Congregational Church của mục sư Dale Turner. Hằng năm, mục sư Turner đều có lời hứa sẽ khao một bữa ăn tối tại nhà hàng Space Needle, cao gần 200m ở Seattle, cho những em đang học lớp giáo lý của nhà thờ có thể thuộc lòng đoạn Lời giảng trên Núi (Sermon on the Mount). Ba mươi mốt đứa trẻ khác tuy đọc được các chương 5, 6 và 7 của Sách Mathew nhưng vẫn còn vấp váp, khi đến lượt Gates, cha Turner thật sự kinh ngạc khi cậu bé đọc thuộc làu làu và càng kinh ngạc hơn khi biết Bill đã học các đoạn này khi đang trên đường đi ra bãi biển cùng gia đình. Mục sư nói:
“Chỉ cần tới nhà cậu bé ngày hôm ấy là tôi biết ngay rằng cậu bé này có điều gì đó rất đặc biệt. Tôi không thể tưởng tượng nổi là vì sao một đứa bé 11 tuổi lại có một trí tuệ như vậy. Qua các câu hỏi kiểm tra lại, tôi phát hiện ra là cậu bé không chỉ thuộc lòng mà còn hiểu rất sâu sắc đoạn kinh thánh đó”.
Mục sư Turner cũng phải thừa nhận rằng có lẽ Gates học thuộc đoạn kinh thánh này không phải vì đức tin mà chỉ vì cậu bé ưa thích sự thách thức.
“Khi bước vào tuổi trưởng thành, cha mẹ tôi thường khuyến khích các con đọc sách thật nhiều và cổ vũ cho tính độc lập suy nghĩ của chúng tôi. Hai người thường kéo chúng tôi vào mọi cuộc thảo luận trong bất cứ đề tài nào, từ nội dung của một quyển sách nào đó cho đến các vấn đề về chính trị. Vào mùa hè, gia đình chúng tôi cùng một số gia đình khác thường đến nghỉ ở Hood Canal. Ở đấy chúng tôi thường hay chơi các trò chơi có tính cạnh tranh cao như chạy tiếp sức, ném trứng, cướp cờ. Đó là những thời gian luôn bổ ích và mang đến cho chúng tôi cảm giác rằng chúng tôi có thể đua tranh và thành công”.
Gates nói trí nhớ của anh không phải là chiếc máy chụp hình mà đơn giản là vì nó cực tốt – đặc biệt đối với những vấn đề anh say mê.
“Tôi vẫn có thể nhớ được tất cả các dòng thoại trong vở kịch hồi trung học, Black Comedy. Tôi rất sợ sẽ quên mất những lời thoại này đến mức tôi phải khắc sâu chúng vào trong đầu ”.
Ngay từ nhỏ, anh đã rất giỏi trong việc đàm phán kinh doanh. Gates đã điều đình với chị gái Kristi để được phép sử dụng đôi găng tay chơi bóng chày của chị ấy bất cứ khi nào cần và người chị không được phép nại ra bất kỳ lý do nào để từ chối. Bù lại, Gates trả cho chị mình 5 đô la và yêu cầu chị phải ký tên vào một bản hợp đồng.
Gates sinh hoạt trong đoàn Hướng đạo sinh và đạt được rất nhiều danh hiệu. Trong một lần cắm trại trên núi, đôi giày mới của Gates làm chân của anh bị phồng rộp và vì vậy mẹ anh phải lái xe đến tận nơi cắm trại để đón anh về nhà. Mặc dù kham khổ như vậy nhưng sau này Gates vẫn cho rằng “đó là một môi trường tốt, nó khuyến khích sự học hỏi và tính ham hiểu biết”.
Để khỏa lấp những khó khăn khi học tại trường công lập, Gates thường phải nhận đóng vai hề trong lớp. Điều đó đã thay đổi khi cha mẹ anh quyết định con trai họ phải được học trong môi trường giáo dục đặc biệt phù hợp với nhu cầu của cậu bé và Gates được đưa vào học tại Lakeside School, một trường tư rất nghiêm khắc tại Seattle.
“Thế là tôi vào học ở trường tư và ở đây không có chỗ cho một anh hề dù tôi đã viết đơn xin nhận vai này. Thực tế thì tôi đã không có gì nổi bật trong một vài năm đầu ở trường. Tôi thử trình diễn cái bài quen thuộc của mình: hơi-đâu-mà-chứng- tỏ-là-người-ngon-lành. Khi tôi bắt đầu nỗ lực, các bạn tôi nói: “Ai chà! Chúng tôi cứ nghĩ cậu ta ngu đần chứ! Tốt nhất là phải đánh giá lại anh bạn này”.
Gates dùng thời gian nghỉ hè năm 1972 để trở thành cậu bé chạy văn thư cho Quốc hội. Vốn đã có đôi chút kinh nghiệm trong kinh doanh, Gates tiếp tục thể hiện xu hướng này khi kết hợp với một người bạn bỏ tiền ra mua 5.000 huy hiệu vận động tranh cử tổng thống của George S.McGovern Thomas Eagleton, với giá 5 xu/cái, sau khi nghị sĩ này bị loại khỏi danh sách đề cử ứng viên tổng thống của đảng Dân chủ. Những chiếc huy hiệu này sau đó đã nhanh chóng trở thành vật được nhiều người sưu tầm săn lùng. Gates và bạn của anh ta đã bán những huy hiệu của mình với giá cao gấp nhiều lần, đôi khi lên tới hơn 25 đô la/cái.
Ed Roberts, người sáng lập ra công ty MITS, nơi Gates và Allen bắt đầu công việc đầu tiên của họ, nhận xét rằng Gates đã gặt hái thành công từ khi còn quá trẻ và vì vậy anh ta hoàn toàn không phải vất vả, nỗ lực gì trong tuổi thanh niên của mình.
“Đại loại anh ta giống như Elvis Presley vậy,” Roberts nói về anh ta, “Anh ta chẳng cần phải trưởng thành.”
Tuy nhiên, về một phương diện nào đó, tuổi tác cũng đã trui rèn tâm tính của Gates:
“Tôi không còn bất chợt nhảy cẫng lên như tôi đã thường làm trước kia, khi công ty mới thành lập... hoặc thậm chí cả trong lúc đang họp... Bây giờ, hành động đó không còn thường xảy ra nữa”.
Có thể tin được điều anh nói miễn là anh không bị thách thức bởi một người sau này trở thành mẹ của các con anh:
Tại một bữa tiệc của Microsoft, Gates bị thách nhảy qua một cái bàn. Hôm đó là một buổi tiệc trang trọng và Gates đang mặc trên người bộ tuxedo và chân xỏ đôi giày da bóng láng nên cú nhảy này xem ra không phải dễ. Tuy vậy anh vẫn chấp nhận và nhảy qua được. Không chỉ có thế. Khi Melinda French cắm thêm một ngọn nến đang cháy lên bàn và thách anh ta nhảy lần nữa. Và rồi cứ sau mỗi lần anh nhảy qua được cô lại đặt thêm nến lên bàn. Gates mỗi lúc mỗi lùi xa hơn để lấy đà trong khi mọi người bu quanh hò reo, cổ vũ anh.
Sau này, trong khu nhà mới của gia đình Gates ở Lake Washington, họ cho đặt một dụng cụ thể dục tập nhào lộn trên không (trampoline) thật lớn.
BILL GATES CÓ KHẢ NĂNG TRỞ THÀNH NGƯỜI BỊ BÊNH TỰ KỶ KHÔNG?
Có người suy diễn rằng Bill Gates trông gần gần giống như người mắc bệnh tự kỷ. Một câu hỏi mà có lẽ không bao giờ chúng ta nhận được câu trả lời đầy đủ. Tự kỷ là một căn bệnh chưa được hiểu cặn kẽ, dù đã được nghiên cứu rất kỹ nhưng sự hiểu biết của chúng ta về bệnh trạng thuộc về hành vi này còn rất hạn chế. Tuy nhiên chúng ta đã biết rằng hầu hết các cậu bé bị mắc chứng tự kỷ được sinh ra trong những gia đình mà cả cha lẫn mẹ đều có chỉ số thông minh cao. Tạp chí Time đã có lần so sánh và đưa ra những đặc điểm của người mắc chứng tự kỷ được biểu hiện ở Gates:
- Khả năng tuyệt vời trong tư duy đối với lĩnh vực trừu tượng, logic và nhắm thẳng đến mục tiêu.
- Đột ngột hoảng loạn, giận dữ, hoặc các cơn bộc phát cảm xúc không thể kiểm soát khác.
- Rất miễn cưỡng khi phải nhìn thẳng vào mắt người khác.
- Dễ dàng có những động tác không tự chủ hoặc lặp đi lặp lại như co giật, máy giật hoặc đong đưa người.
- Thích nhào lộn hoặc nhảy nhót.
CÂU LẠC BỘ CÁC BÀ MẸ CỦA TRƯỜNG LAKESIDE
Các bậc cha mẹ nào còn nghi ngờ việc họ có thể tác động mạnh mẽ đến cách giáo dục của con em mình thì nên nhớ đến hiệu quả tuyệt vời từ việc làm của Câu lạc bộ Các Bà Mẹ ở trường Lakeside.
Vào năm 1967, Câu lạc bộ này sử dụng số tiền thu được từ việc bán đồ cũ để lắp đặt một máy trạm đầu cuối thô sơ để con em mình có dịp tiếp xúc với những công nghệ mới lạ (nói rõ ra thì đó là chiếc máy nhập liệu ASR-33 Teletype, được nối với máy tính chủ General Electric Mark II đặt ở nơi khác. Để con em mình có thể làm việc trên chiếc máy trạm này, các bà mẹ phải trả phí thuê bao mỗi giờ để được phép truy cập vào máy chủ.)
Cha của Gates nói rằng cậu con trai học lớp bảy của ông nhanh chóng bị chiếc máy mê mẩn và không rời khỏi nó. Chẳng mấy chốc, Gates và các bạn của cậu đã bỏ bê lớp học để cả ngày quanh quẩn tại trung tâm máy tính; đến năm lớp tám, Gates đã có thể kiếm tiền được từ công việc lập trình.
Gần một chục học sinh của trường Lakeside đã trở thành những người đi tiên phong trong lĩnh vực phần mềm vi tính, Bill Gates và Paul Allen – đồng sáng lập viên của Microsoft – là những người nổi bật nhất trong số học sinh này.
Ngay từ khi còn nhỏ, chủ tâm của Gates dường như là không muốn học những môn mà mình không thích nhưng ngược lại, với những môn mà anh đã thích rồi thì anh có khả năng tự học rất nhanh. Năm 13 tuổi, Gates tự học lập trình vi tính.
“Tất nhiên, theo suy nghĩ chung thì thầy giáo sẽ say sưa tìm hiểu những gì liên quan đến máy tính rồi sau đó sẽ dạy lại cho học sinh. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Sự việc lại diễn biến theo hướng ngược lại. Có một nhóm học sinh có thển ói là đã tự ý làm thay công việc của các người thầy.”
“Giờ đây khi nhìn lại và suy nghĩ, tôi đã thắc mắc – quái lạ, làm sao mà mình lại đâm ra nghiện cái máy đó như vậy nhỉ? Thật khó hiểu. Thời đó, người ta không dùng một đường điện thoại riêng cho chiếc máy, nên chúng tôi phải dùng chung đường điện thoại của văn phòng kinh doanh. Vì vậy chúng tôi phải luôn cố tranh giành để được ngồi vào chiếc máy này và thường phải ở lại cho đến tận trời tối. Trong khi đó, những người bảo vệ thì luôn tìm cách tống cổ chúng tôi ra ngoài. Cái máy trạm đâu phải là một máy tính, vì vậy chúng tôi phải quay số điện thoại kết nối với một máy tính ởxa. Một máy tính đúng nghĩa thời đó rất đắt, đến mức người ta chỉ có thể thuê giờ sử dụng thôi. Chiếc máy tính GE màchúng tôi thường kết nối tới có giá là 4 triệu đô la.”
Gates có thể là một thiên tài về công nghệ, nhưng sau lần ghé thăm Seattle, Jay Leno, người dẫn chương trình hài hước nổi tiếng của truyền hình Mỹ, đã đùa:
“Gates đâu cần thiết phải tỏ ra lập dị, khác người. Tối qua tôi ghé thăm nơi ở của anh ấy và thấy đầu máy video của anh ta vẫn lóe sáng 12 giờ.”
NHÓM LẬP TRÌNH
Lamont Benson, một người hàng xóm của Paul Allen nhớ lại:
“Tôi nhớ là lúc nào cũng nhìn thấy đèn mở sáng tới tận 3 giờ sáng trong phòng của Paul. Cậu ta cùng với Gates thức suốt đêm để làm việc bên máy tính.”
Mặc dầu Gates là người không có quy cũ trong nơi ăn chốn ở, trong vệ sinh cá nhân hoặc khi lái xe nhưng anh lại rất thích sự ngăn nắp gọn gàng trong việc lập trình máy tính:
“Cho chạy chương trình chỉ làmột cuộc sát hạch tuyệt đối. Bạn viết một chương trình, chạy thử nó và chỉ có hai khả năng xảy ra, hoặc là nó hoạt động hoặc nó không.”
Gates bị loại khỏi Câu lạc bộ Những Lập Trình Viên Lakeside chỉ vì cậu nhỏ hơn hai tuổi so với Paul Allen và những thành viên khác trong nhóm. Họ cho rằng Gates chưa đủ chín chắn. Nhưng khi thấy Câu lạc bộ không thể làm được việc gì nếu thiếu cậu ta nên cả nhóm đã mời Gates nhập bọn lại. Gates ra điều kiện. Và cậu bé trở thành người đứng mũi chịu sào trong các dự án sau này.
Thầy giáo môn toán của trường Lakeside nhớ lại rằng Gates có tài ứng dụng toán học vào việc lập trình rất tốt: “Cậu ta có khả năng nhìn ra được những giải pháp ngắn gọn và trực tiếp hơn”.
Khi nhóm lập trình viên của phòng máy tính xài hết khoản tiền lớn để trả cho thời gian họ ngồi sử dụng máy tính tại Câu lạc bộ Các Bà Mẹ thì thiết bị này phải “lên đường” thôi. Tuy nhiên một bà mẹ đã kịp tạo ra cho nhóm một cơ hội thật khó tin. Trong những năm cuối thập niên 1960, Gates và các thành viên của nhóm Lập trình viên Lakeside sử dụng bất kỳ phương tiện nào: xe đạp, xe buýt hoặc đi nhờ xe, để mỗi buổi chiều đi tới văn phòng công ty Computer Center Corporation (C-Cubed), tại đó, thay phiên nhau, dùng thời gian rãnh của chiếc máy tính Digital Equipment Corporation đời mới, họ truy tìm lỗi lập trình.
Cứ 6 giờ chiều mỗi ngày, khi các nhân viên của C-Cubed xếp hàng ra về cũng là lúc ba cậu học sinh trung học bắt đầu đến. “Chúng tôi thường xuyên ở lại làm việc cho đến hết đêm chỉ bởi chúng tôi quá thích được làm việc với các phần mềm. Đó là thời gian vui thú của chúng tôi,” Allen nhớ lại Gates và những người bạn của mình sau đó đã biên soạn một tập sách hướng dẫn dày 300 trang có tên là The Problem Report Book và nó được các chuyên gia lập trình của C-Cubed sử dụng.
Gates nói rằng anh và những người bạn của mình không bao giờ viết virus máy tính mà theo anh lúc đó vẫn hoàn toàn vô danh vì tại thời điểm đó các máy tính còn chưa được nối mạng. Gates không thể hiểu được tại sao lại thích thú khi phá hỏng công việc của người khác nhưng bản thân anh rất hiểu lý do tại sao người ta vui vẻ chấp nhận thách thức chứng tỏ sự thông minh hơn một hệ thống máy tính.
“Khi tôi còn nhỏ, việc làm cho một máy tính phải ngưng hoạt động là một việc ghê gớm. Nó là một cách để học hỏi.”
“Chúng tôi may mắn là được cho phép thâm nhập vào bên trong hệ thống máy tính chứ vào lúc đó nếu không được phép mà làm như vậy thì thế nào cũng gây ra những rắc rối nho nhỏ.”
Các cậu bé đã nắm lấy cơ hội để lén lút học ngôn ngữ máy tính.
“Paul công kênh tôi lên để lục lọi trong các thùng đựng rác và tôi đã nhặt nhạnh những tờ giấy ghi chép lấm lem đầy vết cà phê của các lập trình viên để học về hệ điều hành.”
Sự thèm muốn đi đến tận cùng giới hạn của Gates cuối cùng đã khiến cho cậu bé bị rắc rối to khi cậu đột nhập vào một chương trình được bảo vệ. Mật khẩu của người sử dụng là giấy thông hành trình ra cho máy tính cho biết khu vực nào thì người sử dụng được phép vào và khu vực nào thì không. Chỉ vì vui thích, Gates đã vòng vèo tránh được khóa bảo mật này và thâm nhập được vào hệ thống tài chính kế toán và nhiều thông tin bí mật khác của công ty. Việc làm mạo hiểm của cậu đã làm tê liệt hệ điều hành và sau đó bị phát hiện. Cha mẹ cậu đã bắt cậu phải rời xa máy tính, và lần này Gates đã nghe lời.
“Trong khoảng thời gian nửa cuối lớp chín và trọn năm học lớp mười, tôi thề là không đụng đến máy tính nữa. Tôi cố gắng trở thành một cậu bé bình thường và ngoan nhất có thể được.”
Không bao lâu sau, Gates quay trở lại gặp lúc Câu lạc bộ máy tính đang đảm nhận công việc kiếm tiền để trả cho chi phí sử dụng máy tính. Các thành viên bắt đầu thực hiện dự án sử dụng máy tính để đếm lưu lượng ô tô trên đường. Traf-O-Data, tên chương trình này, đã mang về cho họ 20.000 đô la trước khi các khách hàng của họ tìm nơi cung cấp dịch vụ tinh vi hơn. Sau này, đã xảy ra rất nhiều cuộc tranh cãi về khoản lợi nhuận thu được từ dự án này, nhưng phần lớn mọi tài liệu liên quan, thậm chí cả chương trình cũng bị thất lạc. Tuy nhiên, Gates và Allen nói rằng, công ty nhỏ này là một vụ kiểm nghiệm khả năng của họ trong thế giới kinh doanh và cho biết họ đã kiếm được nhiều tiền. Cho đến thời điểm đó, Gates nói:
“... Tôi như một kẻ say mê công nghệ từ trong xương tủy.”
Giống như các thiếu niên khác, Gates và bạn bè của mình luôn tìm cách tranh thủ cảm tình từ các giáo viên:
“Khi nhận làm công việc sắp xếp lịch học trong trường, chúng tôi tính toán rằng qua đó chúng tôi có thể quyết định một cách chính xác học sinh nam hay nữ nào sẽ vào học ở lớp chúng tôi và điều này là một phần thưởng tuyệt vời. Công việc đó đã thúc đẩy chúng tôi học cách viết các phần mềm thú vị.”
Vào mùa hè đó, Gates và Allen đã kiếm được khoảng 5.000 đô la trả bằng giờ sử dụng máy tính, nhờ vào việc viết chương trình xếp lịch lớp học.
Một tối, nhân viên của công ty cho thuê thiết bị văn phòng đến văn phòng của C-Cubed và lấy đi những cái ghế mà các cậu bé đang ngồi làm việc. Gates và những người bạn của anh có một bài học sống động trước mắt về ý nghĩa của từ “phá sản”.
Gates và Allen cảm thấy thất vọng khi khó tìm được một máy tính nào khác để làm việc nên cuối cùng Gates và Allen bỏ tiền ra mua một bộ vi xử lý 8008, với giá 360 đô la, để hai người, cùng với nhóm bạn, tự lắp ráp máy tính riêng cho chính mình. Khi con chip xử lý được mang đến, gói cẩn thận bằng giấy nhôm mỏng, tất cả cậu bé thấy nó như một vật thiêng liêng bí hiểm đến nỗi không ai dám chạm tay vào nó. Công việc lắp ráp một máy tính đã thuyết phục Gates và Allen rằng họ nên sống chết với công việc kinh doanh phần mềm.
Thế nhưng:
“Khi chúng tôi còn trẻ, Paul Allen đã hướng dẫn cho tôi rất nhiều về phần cứng máy tính và luôn khuyến khích tôi đặt lòng tin – và đánh cược – vào bộ vi xử lý. Tôi có may mắn là ngay từ khi còn rất trẻ đã tìm thấy điều mà tôi yêu thích và hấp dẫn tôi – thậm chí đến tận bây giờ. Và tôi cũng may mắn có được song thân luôn động viên khuyến khích tôi.”
Gates nói rằng mãi tới lúc Allen hướng dẫn anh về máy tính và bộ vi xử lý máy tính, anh vẫn còn đang cân nhắc giữa hai ngả đường, hoặc trở thành luật sư hoặc trở thành nhà khoa học:
“Tôi không biết nên quyết định lựa chọn con đường nào. Cha tôi là một luật sư, nhưng các nhà khoa học có những công việc thú vị hơn so với các luật sư.”
Mặc dầu vậy, Gates vẫn không nhìn thấy rõ tương lai của mình trong lãnh vực điện toán. Đó “không phải là dòng suy nghĩ chủ đạo của tôi, tôi không nghĩ mình suốt đời cứ mãi làm hacker, chuyên thâm nhập vào bên trong máy tính để mày mò kiếm tìm gì đó.”
THỰC TẬP TẠI MẠNG LƯỚI NĂNG LƯỢNG
Chơi trò chơi điện tử và lãng phí thời gian vào những chuyện vô bổ trên máy tính không bao giờ đủ thỏa mãn với Gates và Paul Allen. Lúc ấy họ đã mơ tới một ngày họ sẽ là chủ một công ty phần mềm:
“Trong thực tế, chúng tôi đã nhiều lần rất thất vọng khi thử liên hệ với công ty IBM hoặc Digital và hỏi: “Các ông có cần bộ biên dịch hoặc phần mềm soạn thảo của chúng tôi không?” và thường câu trả lời của họ sẽ là: “Không, chúng tôi tự làm ra những sản phẩm này và dù sao các cậu cũng chỉ là những học sinh trung học. Mà tại sao các cậu lại cứ gọi điện thoại đến chúng tôi với những sản phẩm đó vậy.”
Cơ hội được làm công việc lập trình nghiêm chỉnh xuất hiện khi các kỹ sư đang làm việc cho mạng lưới năng lượng Northwest gặp rắc rối, và trong quá trình tìm kiếm câu trả lời, họ đã phát hiện ra tài liệu C-Cubed Problem Report Book. TRW Inc. là công ty đang nhận trách nhiệm viết các chương trình phân tích nhu cầu điện năng của Columbia Basin, rồi sau đó kiểm soát lượng điện do các đập nước phát ra. Nhưng các lỗi xuất hiện ở chương trình đang chạy trên máy PDP-10 đã làm giảm tiến độ phát triển đi rất nhiều. Tài liệu The Problem Report Book đã chỉ ra và giải thích được rất nhiều lỗi và người ta đọc được trên tài liệu họ tên của hai lập trình viên đã khám phá ra các lỗi này - Bill Gates và Paul Allen. Công ty TRW đã tìm ra họ và yêu cầu họ đến Portland, Oregon để phỏng vấn vào làm việc ở công ty.
“Không một ai biết chúng tôi mới chỉ là học sinh lớp 9 và lớp 10.”
Dẫu sao họ cũng được nhận vào làm việc. Gates xin giấy phép nghỉ học tại trường rồi đi tới Portland, tại đây anh và Allen được bố trí riêng một phòng và được phân công làm việc dưới quyền nhà lập trình John Norton. Với khả năng có thể nhớ được một danh sách 5.000 trang của hệ điều hành, Norton đã làm lóa mắt các anh bạn trẻ tài năng vừa mới nhận việc. Gates thường nói rằng khả năng của Norton đã thách thức mình làm việc tốt hơn.
“Trong đầu tôi luôn in đậm hình ảnh của người tên là Norton mà tôi đã gặp tại TRW. Anh luôn chỉ bảo mỗi khi công việc của tôi không đạt đến mức tốt nhất. Vì vậy khi làm việc cẩu thả hoặc lười biếng, tôi liền tưởng tượng thấy anh ấy đến bên tôi, nhìn vào chương trình và nói, Nhìn đây nhé, làm cách này thì tốt hơn đấy.”
Gates trở lại nhà và hoàn thành nốt chương trình trung học vào năm 1973 sau khi đã đạt được số điểm hoàn hảo 800 về môn toán trong kỳ kiểm tra Scholastic Aptitude Test.
Trong bức thư của Vernon Harrington, giáo viên trường Lakeside, giới thiệu Gates tới trường Harvard có đoạn viết:
“Khi là học sinh lớp 10 Bill Gates đã nổi tiếng trong nhóm những học sinh say mê máy tính trong trường. Học sinh tài năng này có khả năng đặc biệt trong toán học, anh ta có thể tính toán nhanh hơn cả những người thầy của mình. Cùng với hai người bạn, anh đã hoàn thành một hợp đồng cài đặt hệ thống trả lương cho một công ty ở Portland. Họ đã từng kiếm được 5.000 đô la, trả bằng giờ sử dụng máy tính, nhờ đã điện toán hóa chương trình sắp xếp lịch học cho trường.”
Harrington cũng viết thêm, trong hai năm cuối tại trường trung học Gates cũng có sự chú tâm vào các lĩnh vực chính trị, kịch nghệ trong lúc vẫn giữ thói quen đọc sách thuộc đủ loại đề tài.