Swede – Người Thụy Điển1. Trong suốt những năm tháng chiến tranh, khi tôi vẫn còn là cậu học sinh tiểu học, Người Thụy Điển đã là cái tên có sức hút ma thuật khắp vùng Newark, thậm chí có sức hút cả với những người trưởng thành vốn thuộc về thế hệ đã từng sống ở những khu dân cư Do Thái nghèo nàn trên phố Prince cũ kĩ của thành phố – những người vẫn chưa bị Mỹ hóa hoàn toàn đến độ một vận động viên trung học với tinh thần quả cảm và kĩ năng thi đấu thành thục có thể chinh phục và khiến họ kinh ngạc. Cái tên Người Thụy Điển thật nhiều ma lực. Khuôn mặt khác biệt nổi trội của anh ấy cũng thế. Trong số tất cả các học sinh người Do Thái có nước da trắng mịn theo học tại trường trung học công lập Do Thái của chúng tôi, không một ai sở hữu đặc điểm nào có nguồn gốc di truyền mơ hồ như hàm trái xoan và vẻ mặt vô hồn của chiến binh Viking như chàng trai tóc vàng, mắt xanh có tên Seymour Irving Levov này.
1 Biệt danh The Swede – Người Thụy Điển được đặt cho nhân vật chính vì hai lý do. Một là ngoại hình Bắc Âu của Levov, hai là tên đệm của nhân vật mẫu tạo cảm hứng sáng tạo ra nhân vật trong tiểu thuyết. Khi tác giả gọi Swede là gọi tên, gọi The Swede – Người Thụy Điển là gọi biệt danh. Trong truyện còn có The Kid, biệt danh của một người vóc dáng nhỏ bé nữa.
Người Thụy Điển tỏa sáng như một ngôi sao trong vai trò chốt chặn khi thi đấu bóng bầu dục, trung phong của đội tuyển bóng rổ và là người phòng thủ chốt gôn thứ nhất trong đội tuyển bóng chày. Chỉ có đội bóng rổ là có chút thành tích chừng nào Người Thụy Điển vẫn đạt phong độ cao - hai lần vô địch thành phố, mà trong cả hai lần đó Người Thụy Điển đều là cầu thủ ghi được nhiều bàn nhất. Mà dẫu vậy, thành tích của các đội tuyển thể thao vốn chẳng quan trọng đối với đám thanh niên địa phương - những đứa trẻ lớn lên trong những gia đình lao động ít học mà với họ, chẳng có gì quan trọng hơn thành tích học tập. Khả năng vượt trội về thể chất, cho dù được ngụy trang dưới lớp đồng phục thể thao và các quy tắc thi đấu cũng như tính vô hại đối với người Do Thái cũng không thể khiến cho cộng đồng chúng tôi hài lòng bằng tấm bằng thạc sĩ. Tuy nhiên, nhờ có Người Thụy Điển mà cả một vùng xung quanh đều ấp ủ một ước mộng về chính bản thân và thế giới chung của họ. Đó là ước mộng đâu đâu cũng có người hâm mộ thể thao: giống như thế giới của người ngoại bang (như những gì họ tưởng tượng về người ngoại bang). Các gia đình có thể quên đi cách mọi thứ vẫn vận hành trong thế giới của họ từ trước đến giờ, và kí thác mọi niềm hi vọng vào một màn thi đấu thể thao. Chủ yếu là để họ có thể quên đi cuộc chiến tranh.
Tôi cho rằng, chỉ có cuộc chiến tranh chống lại quân Đức và Nhật cùng nỗi sợ hãi âm thầm nhen nhóm chực chờ bùng lên trong lòng họ là lời giải thích hợp lí nhất cho sự tôn sùng được nâng lên ngang hàng Thần hộ mệnh Apollo1 mà các gia đình người Do Thái tại Weequahic dành cho Người Thụy Điển. Khả năng áp đảo và tinh thần bất khuất của Người Thụy Điển trên sân thi đấu, một khía cạnh bề nổi chẳng có nghĩa lí gì trong cuộc sống bỗng trở thành một nguồn cảm hứng mạnh mẽ duy trì sức sống kì lạ đến hoang đường, một nguồn giải tỏa mang đến niềm vui, niềm hạnh phúc gửi gắm nơi Người Thụy Điển, dành cho những con người vẫn luôn sống trong nỗi sợ hãi khôn xiết về một ngày không còn được gặp lại con cái, anh em hay các ông chồng của mình.
1 Thần Mặt trời/ Ánh sáng, chân lí và nghệ thuật trong thần thoại Hy Lạp
Những điều hiện hữu đó – tất cả những cú móc bóng vào gôn mà anh ấy thực hiện; tất cả đường dẫn bóng mà anh co chân nhảy lên vượt qua các đối thủ; tất cả những đường chuyền tạo thời cơ cho anh cướp lấy bóng để gập người lấy đà tung bóng vào rổ từ bên cánh trái đều được tôn vinh, ngợi ca và thần thánh hóa – đã tác động lên anh ra sao? Liệu đó có phải là những thứ đã biến anh trở thành một cậu bé mặt lạnh, vô cảm như đá với tính cách trầm tĩnh hay không? Hay sự điềm tĩnh có vẻ trưởng thành đó chỉ là biểu hiện bên ngoài của một cuộc đấu tranh gian khổ bên trong, nhằm kiểm soát và khống chế sự tự ái mà trong đó toàn cộng đồng đang dâng trọn tình yêu. Đội cổ động trường trung học có một màn cổ động dành riêng cho Người Thụy Điển. Không giống như các màn cổ động khác vốn được thực hiện nhằm nâng cao tinh thần thi đấu cho toàn đội hoặc khuấy động không khí khán giả, màn cổ động này là điệu nhảy nhịp nhàng với nhiều động tác dậm chân mạnh mẽ tôn vinh riêng Người Thụy Điển, thể hiện lòng nhiệt tình trọn vẹn và bất khuất đối với sự hoàn hảo của anh ấy. Màn cổ động làm rung chuyển cả phòng thi đấu bóng rổ mỗi lần anh ấy phản công hay ghi điểm, càn quét phía khán đài của cổ động viên trong sân vận động thành phố mỗi khi anh ấy giành được sân hay chặn được đường chuyền ở các trận đấu bóng bầu dục. Ngay cả trong các trận đấu bóng chày thưa thớt người xem ở Irvington Park – nơi không có đội cổ động hăng hái quỳ ở vạch biên, người ta cũng có thể nghe thấy bài cổ động đó được hô to theo vần theo nhịp bởi những người ủng hộ trung thành gốc Weequahic trên những bục gỗ không chỉ mỗi lần anh ấy tiến ra để đánh bóng, mà cả khi anh ấy bị đuổi ra ngoài vì phạm lỗi thường gặp ở vị trí hậu vệ chốt gôn số 1. Đó là một bài cổ động có tám âm tiết, trong số đó có ba âm tiết là tên anh ấy và sau đó là một tràng Cố lên! Cố lên!… Cố lên!. Đặc biệt, trong các trận bóng bầu dục, bài cổ động được hát theo nhịp độ tăng dần sau mỗi lần lặp lại cho đến khi đạt đến đỉnh điểm của sự cuồng mộ, những màn nhào lộn tung váy tỏa ra như làn sóng bùng nổ đẹp ngây ngất rồi tạo hình bông hoa màu cam có mười cánh, mỗi cánh là một thành viên với hình thể rắn rỏi, nhỏ xinh của đội cổ vũ bung xòe ra như pháo hoa lung linh trước những cặp mắt chiêm ngưỡng đầy kinh ngạc… Tất nhiên, những điều đó không phải vì tình yêu với bạn hoặc tôi, mà là dành cho Swede tuyệt vời. “Swede Levov! Đồng điệu với.... ‘The Love’!.... Swede Levov! Đồng điệu với....‘The Love’!… Swede Levov! Đồng điệu với....‘The Love’1!”
1 Levov và Love (Tình yêu) phát âm gần giống nhau.
Vâng, đúng vậy. Ở bất cứ nơi đâu anh ấy xuất hiện, mọi người đều yêu mến. Những chủ cửa hàng bánh kẹo mà chúng tôi, các cậu học sinh, vẫn hay quấy rầy thường gọi tất cả chúng tôi là “Ê, thằng kia, không làm thế!” hoặc “Này nhóc, thôi đi!” Nhưng với anh ấy, họ gọi một cách tôn trọng là “Swede”. Các bậc phụ huynh mỉm cười và ôn hòa gọi anh ấy bằng tên khai sinh “Seymour”. Những cô gái đang tám chuyện mà anh ấy đi ngang qua trên đường chết mê chết mệt anh ấy; trong số họ, cô nào dạn dĩ nhất sẽ gọi lớn từ sau lưng anh ấy “Quay lại đi, quay lại đi, Levov của đời em ơi!” Tất nhiên, anh ấy kệ họ và tiếp tục đi bộ về khu phố, mang theo trọn vẹn tình yêu của họ như thể anh ấy chẳng cảm nhận được chút tình cảm nào của họ hết. Ngược lại với những mộng tưởng hão huyền mà hầu hết chúng ta vẫn đang ấp ủ về việc chính chúng ta sẽ ngày một tốt đẹp hơn khi dành toàn bộ sự sùng bái, tôn thờ không vụ lợi cho Người Thụy Điển, tình yêu mãnh liệt và dồn dập đó dường như lại đang bào mòn cảm giác của anh ấy hoàn toàn. Anh ấy là biểu tượng mang trong mình niềm hi vọng ấp ủ của rất nhiều người, như một hiện thân của sức mạnh can trường, lòng quyết tâm, tính gan dạ trong chiến đấu – những đức tính sẽ mang các quân nhân tuổi trung học của chúng tôi trở về bình an vô sự từ những chiến trường như Midway, Salerto, Cherbourg, quần đảo Solomon, quần đảo Aleut, Tarawa – chẳng ai có thể chế giễu hay mỉa mai món quà vô giá mà cậu ấy có, tinh thần trách nhiệm tuyệt vời.
Nhưng trêu đùa hay mỉa mai chỉ giống như một cái hẫng trong cú đánh bóng của Người Thụy Điển, sự mỉa mai là trò giải khuây của con người trần tục và nó chẳng thể ngáng đường một vị thánh. Có thể đó là một khía cạnh khác trong cá tính mà anh ấy đang kìm nén, hoặc cá tính đó chưa thức tỉnh hẳn; nhưng nhiều khả năng là không có cá tính nào kiểu như thế tồn tại. Thái độ xa lánh, thờ ơ với mọi khao khát tình dục phi giới tính khiến anh ấy nổi bật lên, nếu không muốn nói là xuất chúng, khác biệt hẳn so với tính người nguyên thủy của tất cả những người khác trong trường. Anh bị trói buộc với lịch sử, là minh chứng của lịch sử, được tôn vinh bằng một tình yêu tôn thờ mà sẽ không bao giờ có được nếu như anh ấy không phá kỉ lục bóng chày Weequahic – bằng cách giúp đội nhà thắng đội Barringer hai mươi bảy điểm – vào một cái ngày không thể bi thương hơn, một ngày đau buồn trong năm 1943, khi năm mươi tám pháo đài bay đã bị máy bay chiến đấu của không quân Phát xít Đức bắn hạ, hai chiếc bị rơi do trúng hỏa lực phòng không, và thêm năm chiếc máy bay khác bị rơi sau khi vượt qua bờ biển Anh trên đường trở về từ cuộc ném bom nước Đức.
Em trai của Người Thụy Điển, Jerry Levov, là bạn cùng lớp của tôi. Jerry là một cậu bé có thân hình khẳng khiu như cây cam thảo với cái đầu nhỏ và tính tình linh hoạt kì lạ. Cậu ấy có tài năng được liệt vào hàng thiên tài toán học và là đại biểu đọc diễn văn từ biệt tại lễ tốt nghiệp của trường vào tháng 1 năm 1950. Mặc dù Jerry chưa bao giờ thực sự kết giao bạn bè với bất kì ai bởi tính cách nóng nảy và độc đoán, cậu ấy vẫn dành cho tôi sự quan tâm trong suốt nhiều năm; và đó là lí do tại sao từ khi 10 tuổi, tôi đã luôn tức giận vì bị cậu ấy đánh bại trong những trận đấu bóng bàn dưới tầng hầm hoàn thiện của một trong những ngôi nhà thuộc sở hữu của gia đình Levov ở góc đường Wyndmoor và Keer – cái từ “hoàn thiện” ám chỉ rằng tầng hầm được ốp ván bằng gỗ thông sần, nhiều mắt đã qua gia công bào nhẵn, chứ không phải như Jerry vẫn cho rằng tầng hầm là một nơi hoàn hảo để rút cạn sức lực một đứa trẻ khác.
Những đợt tấn công bùng nổ của Jerry trên bàn bóng bàn còn vượt quá cả anh trai mình trong bất kì môn thể thao nào. Một quả bóng bàn bình thường sẽ có kích thước và tạo hình được thiết kế một cách hoàn hảo để không thể đập vào mặt và làm bạn mù mắt. Tuy nhiên, lẽ ra tôi không nên đến chơi ở tầng hầm của Jerry Levov. Nếu không phải vì cơ hội có thể tuyên bố với mọi người rằng tôi biết mọi ngõ ngách trong nhà của Swede Levov, sẽ không ai có thể thuyết phục tôi bước vào cái tầng hầm đó mà không kèm theo bất kì biện pháp tự vệ nào ngoài một chiếc vợt bóng bàn nhỏ. Không thứ gì có trọng lượng nhẹ như một quả bóng bàn lại có thể gây chết người; tuy nhiên, khi Jerry đập bóng, cái nguồn năng lượng chết chóc ấy cứ đeo bám không rời tâm trí của cậu ta. Tôi chưa bao giờ mảy may nghĩ rằng biểu hiện đầy bạo lực đó hẳn phải có liên quan đến việc là em trai của Swede Levov. Bởi vì tôi không thể tưởng tượng ra điều gì tốt hơn là được trở thành em trai của Người Thụy Điển – chỉ trừ việc trở thành chính bản thân Người Thụy Điển – nên tôi không thể hiểu được rằng đối với Jerry,đó là một điều không thể tệ hơn.
Phòng ngủ của Người Thụy Điển – cấm địa mà tôi không bao giờ dám bước vào, nhưng sẽ dừng lại để lén nhìn khi tôi dùng nhà vệ sinh phía ngoài phòng của Jerry – lấp ló dưới mái hiên phía sau nhà. Trần nghiêng mái dốc, cửa sổ tò vò ở đầu hồi và cờ hiệu Weequahic treo trên tường, tất cả khiến cho căn phòng nhìn đúng như những gì tôi đã tưởng tượng về một căn phòng thực sự dành cho một cậu bé. Từ hai cái cửa sổ mở hướng ra bãi cỏ sau nhà, có thể thấy mái của ga-ra xe ô tô nhà Levov, nơi Người Thụy Điển, vào mỗi mùa đông kể từ khi còn là một cậu học sinh tiểu học, đã luyện tập đánh bóng trúng mục tiêu bằng cách vung gậy đập một quả bóng chày gắn với sợi dây treo vào cái thanh giằng của ngôi nhà – một ý tưởng có lẽ đã nảy ra sau khi anh ấy đọc một cuốn tiểu thuyết viết về bóng chày của tác giả John R.Tunis có tên là Kid – Cậu bé1 đến từ Tomkinsville. Tôi đã thấy cuốn sách đó và những cuốn sách về bóng chày khác của Tunis như Iron Duke, The Duke Decides, Champion’s Choice, Keystone Kids, Rookie of the Year, từng cuốn một được xếp ngay ngắn thẳng hàng trên cái giá gắn tường bên cạnh giường của Người Thụy Điển theo thứ tự bảng chữ cái, hai đầu giá có chốt chặn giữ sách. Đó là món quà mà Người Thụy Điển đã nhận được vào lễ trưởng thành truyền thống ở tuổi 13 của bé trai Do Thái, một mô hình thu nhỏ mô phỏng tuyệt tác điêu khắc nổi tiếng “Người suy tư” của điêu khắc gia Rodin2. Ngay lập tức, tôi đã tới thư viện để mượn tất cả các cuốn sách của tác giả Tunis mà tôi có thể tìm thấy ở đó và bắt đầu đọc cuốn Kid – Cậu bé đến từ Tomkinsville trước tiên. Đó là một câu chuyện hấp dẫn, thú vị, đầy tinh thần kiên định về một cậu bé tính tình cứng đầu nhưng thẳng thắn, đường hoàng có tên Roy Tucker – một cầu thủ ném bóng chày trẻ tuổi, có tiền đồ, đến từ những ngọn đồi thuộc vùng nông thôn của Connecticut, nơi cha cậu ấy mất khi cậu ấy vừa lên bốn và mẹ cậu ấy mất khi cậu ấy mười sáu tuổi. Chính cậu ấy đã giúp bà của mình thu vén chi tiêu để đảm bảo cuộc sống bằng cách làm việc cho một nông trại gia đình vào ban ngày, và làm thêm ban đêm ở một cửa hàng dược phẩm có tên Mackenzie’s tại một góc đường trục chính South Main trong thị trấn.
1 The Kid – biệt danh của một cầu thủ bóng chày có vóc dáng nhỏ bé như thiếu niên.
2 Nhà điêu khắc nổi tiếng Auguste Rodin (1840-1917).
Cuốn sách được xuất bản năm 1940, có hình vẽ minh họa đen trắng được dàn dựng phần nào theo lối biến điệu của trường phái biểu hiện và ứng dụng một chút kĩ năng giải phẫu kết cấu cơ thể. Cuốn sách miêu tả một cách thận trọng nhưng tinh tường các đoạn thăng trầm, khó khăn trong cuộc đời của cậu bé đó, lật giở lại giai đoạn trước khi môn bóng chày được đem ra mổ xẻ và phân tích với cả hàng triệu số liệu thống kê, khi kết quả dự đoán của một trận bóng phụ thuộc hoàn toàn vào số phận, khi mà cầu thủ chơi trong các giải hàng đầu trông giống những nam lao động gầy gò và nghèo đói hơn là những đứa trẻ to khỏe. Các bức vẽ dường như được dựng lên từ những nét khắc khổ, tăm tối của nước Mỹ trong thời kì suy thoái.
***
Cứ sau mỗi mười trang sách miêu tả ngắn gọn một khoảnh khắc hiện thực ấn tượng trong câu chuyện – “Cậu ấy có thể dồn thêm một chút nghị lực vào việc đó”, “Điều đó không thể chấp nhận được”, “Razzle khập khiễng chạy vào hầm trú ẩn” – lại có một bức hình minh họa in mực đen kịt hình một cầu thủ chơi bóng có khuôn mặt u tối, gầy nhẳng, in bóng trên một trang trắng trông quạnh quẽ giống như linh hồn cô độc nhất trên đời, tách biệt khỏi cả tự nhiên và con người, hoặc được đặt trong bức vẽ bằng nét đứt mô phỏng bãi cỏ trên sân bóng chày, hình vẽ kéo rê bên dưới là một bức tượng nhỏ trong tư thế khom khom như một con sâu. Cậu bé thậm chí chẳng có tí quyến rũ hay nét thu hút nào kể cả khi đang mặc đồng phục chơi bóng chày; nếu chơi ở vị trí ném bóng, bàn tay đeo găng của cậu bé trông cứ như thể là bàn chân thú vậy; các bức hình nối tiếp nhau đều nhằm thể hiện một cách sinh động, rõ ràng rằng việc chơi bóng ở các vị trí chủ chốt trong đội hình, tuy có oai hùng và quả cảm, nhưng hóa ra lại là một dạng thức vắt kiệt sức lao động vốn đã không được hậu đãi xứng đáng.
Cậu bé từ Tomkinsville lẽ ra nên được đặt tên là Chú cừu từ Tomkinsville, hay thậm chí là Chú cừu từ Tomkinsville trên đường tới Lò mổ. Trong sự nghiệp của cậu bé với vai trò ngòi kích nổ mới cho câu lạc bộ bóng chày Brooklyn Dodger đang ở tuyến cuối, mỗi một chiến thắng của cậu đều được thưởng bằng một sự thất vọng ghê gớm hoặc một chấn thương chí mạng. Tình cảm gắn bó khăng khít ngày càng được vun đắp giữa cậu bé xa nhà, cô đơn và Dave Leonard, cầu thủ bắt bóng kì cựu của câu lạc bộ Dodger, người đã dạy dỗ cậu cách thức thi đấu tại một giải lớn; và anh ấy cũng chính là người đã “đứng sau gôn với đôi mắt nâu kiên định”, dẫn dắt cậu bé vượt qua sáu tuần thi đấu nghiệt ngã và tiến thẳng vào mùa giải mà không bị đánh trúng bất kì một trái bóng nào khi một cầu thủ kì cựu bị loại ra khỏi bảng phân công vị trí thi đấu chiến lược của câu lạc bộ ngay trong đêm. “Người ta thường không hay đề cập đến tốc độ này trong môn bóng chày: tốc độ lên voi xuống chó trong chớp mắt của một cầu thủ.” Sau đó, sau chiến thắng trong trận đấu thứ mười lăm liên tiếp của cậu bé – một kỉ lục tân binh mà không một cầu thủ ném bóng nào trong cả hai giải đấu từng vượt qua – cậu bất ngờ bị xô ngã trong phòng tắm bởi chính đồng đội của mình khi họ đang ăn mừng chiến thắng, và chấn thương khuỷu tay từ cú ngã đó đã khiến cho cậu không thể ném bóng nữa. Cậu phải ngồi ở băng ghế dự bị suốt thời gian còn lại trong năm và giữ vị trí đập bóng dự bị bởi sức mạnh của cậu; rồi sau đó, cậu quay trở về quê hương Connecticut và ở đó suốt cả mùa đông tuyết phủ. Cậu làm việc ban ngày ở nông trại và buổi tối ở hiệu thuốc trong thị trấn. Dù đã trở nên nổi tiếng nhưng cậu vẫn mãi là cháu trai cưng của bà mình. Trong khoảng thời gian này, cậu đã siêng năng tập luyện theo hướng dẫn của Dave Leonard để giữ được phong độ cú xuynh bóng1 (“Sai lầm tệ nhất của cậu ấy là luôn có xu hướng hạ vai phải xuống, rồi xoay bật người lên, vung gậy đánh bóng”) bằng cách vụt thật mạnh vào một trái bóng được gắn vào một sợi dây buộc trên cái xà nhà đơn sơ của mình trong những sáng mùa đông lạnh giá với chiếc “gậy bóng chày yêu dấu” cho đến khi cả người ướt đẫm mồ hôi. Tiếng cây gậy vụt bóng bôm bốp nghe thật gọn và ngọt. Tới mùa giải sau, cậu ấy đã sẵn sàng trở lại đội hình thi đấu của câu lạc bộ Dodger, chơi ở vị trí phòng ngự số 9 phía ngoài phần sân bên phải theo đội hình chiến lược, đánh gậy số 325 ở vị trí thứ hai và dẫn dắt đội tuyển của mình tiến thẳng vào chung kết của giải đấu. Vào ngày cuối của mùa giải, trong trận đấu với đội Giants, đội dẫn trước chỉ sau nửa đầu trận đấu, cậu ấy đã châm ngòi cho đợt đập bóng tấn công của đội Dodgers và đến cuối lượt bóng thứ mười bốn – hai cú đập trượt, hai cầu thủ đối phương đang chạy gôn, đội Dodgers dẫn trước một điểm do cậu ghi được với màn gồng hết mình chạy về gôn nhà – cậu đã cứu vãn kết quả trận đấu thành công với một cú lao thẳng vào tường phòng ngự vị trí giữa ngoài – vị trí số 8 bên phải – để bắt bóng. Chiến công táo bạo khủng khiếp đó đã đưa đội Dodgers vào vòng loại Cúp Thế Giới và để lại cậu nằm “quằn quại trong đau đớn tột cùng do chấn thương trên nền cỏ xanh của sân thi đấu, sâu ở vị trí số 8 bên phải”. Tác giả Tunis đã kết thúc câu chuyện như thế này: “Bóng tối chạng vạng đột ngột ập xuống một đám cầu thủ, bao phủ đám đông khổng lồ đang đổ ào ra sân và cả hai người đàn ông đang khênh cáng mang theo một hình hài bất động chậm chạp xuyên qua đám đông hỗn loạn… Có tiếng sấm nổ vang dội. Mưa trút xuống ào ào trên sân vận động Polo Grounds.” Tuôn rơi, tuôn rơi trong tiếng sấm đì đùng, và thế là Cuốn sách Hướng nghiệp2 dành cho các cậu bé đã kết thúc rồi.
1 Xoay người, vung chày, đập bóng.
2 Book of Job là một tác phẩm trong Kinh Thánh Hebrew và là cuốn sách viết thơ đầu tiên trong Kinh Cựu Ước của Kito giáo. Sách đề cập đến công lí của Chúa trước sự khốn khổ của loài người – hay đơn giản hơn, “Tại sao những người công chính phải khốn khổ?”.
Tôi khi đó đã mười tuổi rồi và chưa từng đọc một cuốn sách nào như thế. Sự tàn nhẫn của cuộc sống. Sự bất công của nó. Tôi không thể tin nổi cuộc sống chính là như thế. Thành viên đáng bị khiển trách của đội Dodgers là Razzle Nugent, một tay ném cừ khôi nhưng lại say xỉn và nóng tính, một kẻ bắt nạt dữ dằn, đố kỵ sâu cay với Cậu bé. Tất nhiên, Razzle không phải là người “bất động” trên chiếc cáng được khiêng ra sân, mà đó là cầu thủ chơi tốt nhất trong số tất cả bọn họ, là đứa trẻ mồ côi đến từ nông trại vẫn được gọi là Cậu bé, khiêm tốn, nghiêm túc, trong sáng, trung thành, ngây thơ, kiên cường, chăm chỉ, nói năng nhẹ nhàng, dũng cảm; một vận động viên xuất sắc, một cậu bé đẹp mộc mạc, chân phương. Khỏi phải nói, tôi liên tưởng ngay đến sự tương đồng giữa Người Thụy Điển và Cậu bé, rồi tự hỏi làm sao Người Thụy Điển có thể chịu đựng được khi đọc cuốn sách đã khiến tôi gần như bật khóc và trằn trọc không ngủ được này. Nếu tôi có đủ dũng khí để đối diện với anh ấy, có lẽ tôi sẽ hỏi anh xem liệu anh có nghĩ kết cục đó chính là dấu chấm hết cho sự nghiệp của Cậu bé không, hay Cậu bé có cơ hội quay lại sân thi đấu nữa không. Cái từ “bất động” khiến tôi cảm thấy hãi hùng. Liệu Cậu bé có mất mạng trong lượt bắt bóng cuối cùng của năm đó không? Liệu Người Thụy Điển có biết điều đó không? Anh ấy có bận lòng chút nào về chuyện đó không? Liệu cái thảm họa đó có xảy đến với anh ấy không? Nó đã có thể đốn gục Cậu bé đến từ Tomkinsville, vậy thì nó cũng có thể xảy đến và đốn gục Người Thụy Điển vĩ đại lắm chứ? Hay cuốn sách viết về một ngôi sao đáng yêu phải lãnh cú đòn thù bất công, đầy ác ý đó – một cuốn sách viết về một cậu bé trong sáng có tài năng thiên phú cao tuyệt, một con người với sai lầm lớn nhất là luôn có xu hướng hạ vai phải thấp xuống và xuynh bóng lên cao, nhưng lại bị ông trời ganh ghét mà hủy hoại – chỉ là “lại một cuốn sách khác” nằm giữa những bức tượng “Người suy tư” chặn sách trên giá của anh ấy mà thôi?
Đại lộ Keer là nơi ở của những gia đình người Do Thái giàu có, hoặc có vẻ giàu có so với phần lớn các gia đình phải thuê những căn hộ trong những tòa nhà có hai, ba hoặc bốn hộ gia đình cùng ở, với khoảng hiên lát gạch đã trở thành một phần không thể thiếu được trong hoạt động thể dục thể thao sau giờ học của chúng tôi: những trò chơi tầm phào, trò bài xì dách, và trò đập bóng tính điểm vào bậc thềm, kéo dài vô tận cho đến khi quả bóng cao su rẻ tiền bị vỡ tung sau những cú ném không thương tiếc vào vỉa hè. Chính đại lộ này đây, con đường nằm trong mạng lưới những con đường có hàng cây keo gai chạy dài đã khiến trang trại Lyon bị ngăn cách trong suốt những năm kinh tế bùng nổ đầu thế kỉ hai mươi, thế hệ tiếp nối ngay sau đó của những người Do Thái di cư sống tại Newark đã tụ hợp lại thành một cộng đồng chung, lấy cảm hứng từ xu thế chủ đạo chính của đời sống Mỹ thay vì các ngôi làng nhỏ của người Do Thái vùng Đông Âu mà các đấng sinh thành nói và viết cổ ngữ Ri-di1 của họ đã tái dựng lại quanh con phố Prince thuộc khu vực Quận 3, nơi đã bị bần cùng hóa cực độ2. Những người Do Thái sống ở đại lộ Keer trong những ngôi nhà có tầng hầm hoàn thiện, có mái hiên được che rèm chắn sáng, có bậc tam cấp lát đá trước nhà, có lẽ là những người đứng ở hàng tuyến đầu, dám trở thành và đóng vai trò tiên phong táo bạo trong công cuộc vươn tới một cuộc sống thường nhật đầy đủ tiện nghi của người Mỹ chính gốc. Và dẫn đầu trong đạo quân tiên phong ấy chính là gia đình Levov, gia đình đã sinh ra Swede của chúng tôi, chàng trai có ngoại hình mà càng lớn chúng tôi càng cảm thấy gần giống như một người ngoại đạo.
1 Cổ ngữ của người Do Thái.
2 The Third Ward, một khu vực có thật ở Houston, Mỹ, có trật tự trị an vô cùng kém.
Bản thân những người nhà Levov, ông Lou và bà Sylvia, cha và mẹ của anh ấy cũng chẳng khác những người Mỹ chính hiệu hơn là bao so với cặp cha mẹ người Do Thái gốc Jersey đã sinh ra tôi khi bàn tới cả ngoại hình lẫn phép cư xử lịch thiệp hay sự khéo ăn khéo nói, có tu dưỡng. Và điều đó đối với tôi là một bất ngờ lớn. Khác hẳn những ngôi nhà chỉ dành cho một hộ gia đình sống trên đại lộ Keer, giữa chúng tôi và gia đình Levov không hề xuất hiện sự phân biệt của tầng lớp bần nông và tầng lớp quý tộc như tôi đã và đang được học ở trường. Cô Levov cũng giống như mẹ ruột của tôi. Bà là một người quán xuyến công việc gia đình gọn gàng, có phong thái lịch sự hoàn hảo không chê vào đâu được, một người phụ nữ ưa nhìn và vô cùng quan tâm đến cảm nhận của người khác, luôn làm cho các con trai của mình cảm thấy rằng họ quan trọng – một trong số nhiều phụ nữ của kỉ nguyên đó, những người không bao giờ mơ tưởng tới chuyện thoát khỏi “doanh nghiệp gia đình” khổng lồ với trung tâm là những đứa con. Cả hai cậu bé nhà Levov đều được thừa hưởng từ mẹ vóc người cao ráo và mái tóc sáng màu; mặc dù vậy, mái tóc đỏ và xoăn hơn cùng làn da vẫn còn vương tàn nhang như một cô gái trẻ đã mang lại cho bà một vẻ ngoài phần nào nhạt chất Aryan1 hơn chúng. Có vẻ như so với hai đứa con của mình thì sự dị biệt trong mã gen của bà so với những người còn lại trong khu phố chúng tôi được thể hiện một cách ít rõ rệt hơn hẳn.
1 Aryan: Nguyên bản là chủng người sinh sống ở cùng Iran-Ấn độ, tuy nhiên, trong cuốn sách này, tác giả nói theo ý hiểu sai lệch xuất phát từ thời Đức Quốc xã, coi Aryan là tên gọi của chủng người “thượng đẳng” ở Bắc Âu có tóc vàng, mắt xanh, với đại diện tiêu biểu là người Đức.
Cha Levov thì chỉ cao khoảng chừng 1 mét 75 – khổ người khẳng khiu, chân tay dài nghều ngào và tính cách kích động còn hơn cả cha của tôi – tôi nghĩ bản tính dễ hoảng loạn của tôi phần nào được định hình chính bởi sự thiếu bình tĩnh của cha mình. Chú Levov cũng là một trong số những người cha Do Thái lớn lên từ khu ổ chuột, những người đã dằn vặt cả một thế hệ Do Thái tiếp nối – những người trẻ có chí tiến thủ và được đào tạo đại học – với quan điểm thô kệch, thiếu hiểu biết của họ: một người cha coi mọi việc đều là nhiệm vụ không thể lay chuyển; một người cha chỉ biết có đúng hoặc sai chứ không chấp nhận bất cứ điều gì trung lập; một người cha với những tham vọng, thiên kiến và tín ngưỡng được củng cố bởi những suy nghĩ cẩn trọng, vững chắc đến mức chúng đang trói buộc ông chặt hơn ông tưởng. Họ là những người đàn ông hạn chế với nguồn năng lượng vô hạn; những người đàn ông tự phụ cũng cả thèm chóng chán; những người đàn ông tin rằng điều nghiêm túc nhất trong cuộc sống là tiếp tục tiến lên, bất chấp mọi thứ. Và chúng tôi là con trai của họ. Bổn phận của chúng tôi là yêu thương họ.
Chuyện là, cha tôi là một bác sĩ chuyên điều trị bệnh bàn chân. Trong suốt nhiều năm trời, phòng khách của chúng tôi đã bị trưng dụng làm văn phòng của ông. Ông cũng kiếm đủ tiền trang trải cuộc sống của gia đình tôi, nhưng chỉ thế không hơn; trong khi đó, chú Levov giàu lên nhờ vào nghề sản xuất găng tay phụ nữ. Cha đẻ của ông ấy – tức là ông nội của Swede Levov – đã rời vùng quê nghèo để đến Newark vào những năm 1890, và tìm được công việc nạo thịt ở miếng da cừu tươi sau khi vớt ra từ thùng nước vôi sống (để thuộc da), một người Do Thái đơn độc bên cạnh những kẻ nhập cư gốc Ý, Ai-len, Xla-vơ thô lỗ nhất Newark trong xưởng thuộc da phố Nuttman của ông trùm da láng T.P.Howell, khi đó là cái tên nổi danh trong ngành công nghiệp lớn nhất và lâu đời nhất thành phố: thuộc da và sản xuất đồ da. Yếu tố quan trọng nhất để thuộc da là nước – các tấm da quay tròn trong những vại nước lớn, những chiếc thùng hình trụ xả nước bẩn ra ngoài ào ạt, các ống nước phun nước nóng và nước lạnh xối xả, lượng nước tương đương hàng trăm nghìn ga-lông1. Nếu có nước mềm2, nước tốt, người ta có thể dùng chúng để sản xuất bia và làm đồ da. Tại Newark, người ta làm cả hai – có cả xưởng ủ bia lớn và xưởng thuộc da lớn; và món quà dành cho cộng đồng dân nhập cư là vô số các công việc trong môi trường ẩm ướt, bốc mùi và nặng nhọc.
1 Dung tích tương đương 4,546 lít ở Anh hoặc 3,785 lít ở Hoa Kỳ.
2 Nước cứng đã lọc bỏ các ion khoáng có hàm lượng canxi và chất khoáng thấp.
Người con trai, Lou – cha đẻ của Swede Levov – đã tới làm việc tại xưởng thuộc da sau khi rời trường học ở tuổi mười bốn để đỡ đần cho gia đình chín miệng ăn, và dần trở nên thành thục không chỉ trong công việc nhuộm da hoẵng bằng cách dùng cọ cứng, phẳng rải thuốc nhuộm đất sét lên tấm da, mà còn thông thạo cả việc phân loại và xếp hạng các loại da. Xưởng thuộc da luôn bốc lên thứ mùi pha tạp giữa mùi lò mổ và mùi hóa chất dùng trong các công đoạn ngâm và nấu để lọc thịt, cạo lông, tẩy axit, tách mỡ cho da sống; tại đó, suốt một ngày dài đủ 12 tiếng vào mùa hè, các máy thổi sấy khô liên tục hàng ngàn các tấm da treo cao khiến cho nhiệt độ của phòng sấy dưới mái trần thấp lên đến một trăm hai mươi độ; ở nơi đó, có các phòng chứa thùng nước vôi sống rộng mênh mông, tối tăm như các hang động và lênh láng nước rửa da; ở nơi đó, những công nhân nam cục mịch đeo tạp dề dày nặng, người đeo lủng lẳng móc và gậy, kéo lê và đẩy các toa xe hàng chất cao ngồn ngộn như muốn rơi ra, vắt ép và treo các tấm da ngấm sũng nước lên, rồi bị quay như dế bởi guồng lao động của ca làm việc kéo dài suốt 12 giờ đồng hồ – một nơi dơ dáy, hôi hám, ngập thứ nước nhuộm đỏ có, đen có, xanh dương có và cả xanh lá cây; nơi có hàng đống những cuộn da lớn lăn lóc khắp sàn nhà, hàng ao mỡ, hàng núi muối, hàng thùng tô nô chứa dung môi – nơi đó chính là trường trung học và cũng là trường cao đẳng của Lou Levov. Điều đáng kinh ngạc không phải là ông ấy đã trở nên gai góc và bền bỉ như thế nào. Mà điều đáng kinh ngạc là đôi khi ông ấy vẫn có thể cố gắng cư xử một cách lịch thiệp.
Ông ấy đã tốt nghiệp và rời Howell & Co. khi mới hai mươi tuổi để cùng với hai người anh em của mình thành lập một cơ sở chuyên cung cấp da cá sấu làm túi xách phụ kiện nhỏ theo hợp đồng cho R.G.Salomon, vua da thuộc mềm Cordovan tại Newark và cũng là người dẫn đầu trong ngành thuộc da cá sấu. Đã có lúc, công việc kinh doanh tưởng chừng như sẽ phất lên rực rỡ, nhưng sau phi vụ đổ bể, công ty lâm vào tình trạng phá sản, cả ba người nhà Levov đã phải tất tả chạy vạy, mặt dày mày dạn để xoay xở ngược xuôi. Lou Levov khởi nghiệp với công ty phụ kiện da dành cho phụ nữ Newark Maid và sau đó vài năm thì ông tự kinh doanh riêng bằng cách mua lại các món đồ da cũ – những món đồ da có khiếm khuyết như túi xách tay, găng tay, thắt lưng – rồi bán lại chúng trên xe đẩy hàng rong vào các ngày cuối tuần và đến từng nhà để bán vào ban đêm. Down Neck – phần nhô ra của bán đảo, mũi cực đông của Newark là nơi đặt chân đầu tiên của những người di cư theo làn sóng mới, nơi có những vùng đất thấp với các đầm lầy muối nối liền từ phía Bắc đến phía Nam – là nơi tập trung của người Ý, những người đã từng làm găng tay trên đất nước quê hương của họ. Và họ bắt đầu nhận làm găng tay tại nhà theo kiểu khoán sản phẩm cho ông ấy. Từ những tấm da mà ông ấy đưa, họ cắt và khâu thành những chiếc găng tay nữ mà ông ấy mang đi để rao bán trên toàn bang. Trước khi chiến tranh bùng nổ, có cả một tập thể các gia đình người Ý nhận cắt và khâu găng tay trẻ em cho ông trên những gác xép nhỏ ở phố Chợ Tây. Đó là một công việc kinh doanh nhỏ, thực sự không có lãi, cho đến khi vận đỏ tìm tới ông vào năm 1942: găng tay dài da cừu màu đen có lót, được Quân đoàn Phụ nữ Hoa Kỳ đặt hàng. Ông đã thuê lại nhà máy sản xuất ô dù cũ, một đống gạch nát xỉn màu khói đã năm mươi năm tuổi, cao bốn tầng trên Đại lộ Trung tâm và đường số 2; rất nhanh sau đó, ông mua lại luôn chỗ đó và cho một công ty khóa kéo thuê lại tầng thượng. Newark Maid bắt đầu sản xuất găng tay số lượng lớn; cứ mỗi hai hoặc ba ngày lại có xe tải ghé qua công ty và mang hàng đi.
Có một niềm hân hoan còn lớn hơn cả việc giành được hợp đồng cung cấp sản phẩm cho chính phủ chính là trở thành đối tác của Bamberger. Newark Maid đã thành công trở thành nhà sản xuất chính cho sản phẩm găng tay phụ nữ chất lượng cao của Bamberger sau cuộc gặp tình cờ giữa Lou Levov và Louis Bamberger. Trong một buổi tiệc tối nghi thức dành cho Meyer Ellenstein, Ủy viên hội đồng thành phố từ năm 1933, người Do Thái duy nhất từng trở thành thị trưởng của Newark, một số nhân sự cấp cao của công ty Bam nghe nói rằng cha của Swede Levov cũng có mặt và đã tìm đến để chúc mừng ông vì con trai ông đã được tờ Tin tức Newark bình chọn là trung vệ bóng rổ xuất sắc nhất toàn hạt. Nhận ra đó là cơ hội đổi đời – một cơ hội để vượt qua mọi chướng ngại và leo thẳng tới đỉnh cao – ngay tại đó, trong bữa tiệc tối của ngài Ủy viên Ellenstein, Lou Levov dạn dĩ đã lèo lái cuộc trò chuyện thành bài giới thiệu bản thân với huyền thoại L. Bamberger, nhà sáng lập cửa hàng bách hóa uy tín nhất tại Newark, đồng thời cũng là người đã tặng thành phố cả một tòa bảo tàng; một nhân vật quan trọng đầy quyền lực, có địa vị trong cộng đồng người Do Thái địa phương như Barnard Baruch trong toàn bộ cộng đồng người Do Thái cả nước nhờ mối liên hệ mật thiết của ông với Tổng thống Hoa Kỳ FDR1.
1 Franklin Delano Roosevelt là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 32, người duy nhất đắc cử hơn hai nhiệm kỳ liên tiếp.
Theo như những câu chuyện lan truyền trong khu phố, mặc dù Bamberger không làm gì hơn ngoài bắt tay và hỏi ông ấy vài câu (liên quan đến Swede) trong nhiều lắm chỉ là vài phút, nhưng Lou đã dám nói thẳng với ông ấy rằng, “Ông Bamberger, chúng tôi đảm bảo chất lượng hàng hóa tốt, chúng tôi đảm bảo giá thành hợp lý, vậy sao chúng tôi lại không thể bán găng tay cho công ty ông nhỉ?” Sau đó, chưa chờ đến sang tháng, công ty của ông Bam đã gửi đơn đặt hàng cho Newark Maid; đơn hàng đầu tiên của họ là 500 hộp 12 cặp găng tay.
Vào cuối cuộc chiến, Newark Maid đã tự thiết lập được chỗ đứng cho chính mình, chứ không còn dựa chút nào vào thành tích thể thao của Swede Levov, và trở thành một trong những tên tuổi đáng nể nhất trong làng sản xuất găng tay phụ nữ ở phía Nam Gloversville, New York – thủ phủ của ngành kinh doanh găng tay, cũng là nơi Lou Levov xuất da sống bằng đường sắt qua Fultonville tới xưởng thuộc da găng tay tốt nhất trong ngành để xử lí. Chưa đến một thập kỉ sau, cùng với sự mở rộng của nhà máy tại Puerto Rico năm 1958, Người Thụy Điển đã trở thành vị chủ tịch trẻ tuổi của công ty, mỗi sáng chạy xe ba mươi dặm có lẻ từ nhà anh ấy ở Tây Newark qua các vùng ngoại ô để đến Đại lộ Trung tâm đi làm – một người khai hoang tầm ngắn đang sống trong một trang trại rộng cả trăm mẫu Anh1 trên con đường đằng sau những ngọn đồi thưa người ở phía xa xa của Morristown, tại vùng nông thôn trù phú Old Rimrock, New Jersey, cách xa vị trí xưởng thuộc da đầu tiên mà ông nội Levov của anh ấy đã từng làm cái công việc lóc bỏ chỗ thịt úng nước, dai như cao su, trương phình lên gấp đôi kích thước thật ra khỏi miếng da thật sau khi được vớt ra từ thùng nước vôi sống khổng lồ từ ngày ông mới đặt chân lên đất Mỹ.
2 1 mẫu Anh = 0.4 ha.
Vào một ngày tháng Sáu năm 1945, sau khi tốt nghiệp trường Weequahic, Người Thụy Điển đã gia nhập bộ đội Thủy quân lục chiến, háo hức tham gia trận đánh kết thúc cuộc chiến tranh. Người ta đồn rằng cha mẹ anh ấy đã phát hoảng và tìm mọi cách để đưa anh ra khỏi Thủy quân lục chiến và gia nhập Hải quân. Ngay cả khi anh có thể đánh bại được chủ nghĩa bài Do Thái khét tiếng của quân đoàn Thủy quân lục chiến thì liệu anh đã từng nghĩ xem liệu mình có còn sống sót được sau cuộc xâm lăng của quân phát xít Nhật hay không? Nhưng Người Thụy Điển sẽ không để ai lung lạc và khiến anh từ bỏ thử thách sự nam tính và lòng ái quốc mà anh đã âm thầm tự đặt ra cho bản thân ngay khi vụ Trân Châu Cảng vừa diễn ra để được ra trận chiến đấu như một trong những người con can trường nhất, dám xả thân cho tình thế cam go của tổ quốc trong chiến tranh, khi anh vừa mới tốt nghiệp trung học. Anh hoàn thành đợt huấn luyện cấp tốc tại đảo Parris, Nam Carolina, địa điểm được đồn là nơi lính thủy đánh bộ Mỹ chọn để khởi hành đi tấn công các bãi biển Nhật Bản vào ngày 1 tháng Ba năm 1946, cũng chính là ngày Mỹ thả bom nguyên tử xuống thành phố Hiroshima. Hệ quả là Người Thụy Điển phải trải qua phần còn lại của đời lính trong vai trò một “chuyên gia của các trò tiêu khiển”. Anh ấy điều hành huấn luyện vận động giãn cơ, uốn dẻo cho tiểu đoàn trong nửa giờ trước mỗi bữa sáng, sắp xếp những trận thi đấu giao hữu quyền Anh nhỏ cho các tân binh vài đêm một tuần, và phần lớn thời gian anh ấy chơi cho đội tuyển bóng chày của đơn vị, thi đấu với các đội tuyển bóng chày khác thuộc lực lượng vũ trang khắp miền Nam; chơi bóng rổ suốt mùa đông và chơi bóng chày suốt mùa hè. Anh đóng quân ở Nam Carolina khoảng một năm thì đính hôn với một cô gái Công giáo Ireland. Cha cô là một Thiếu tá Lục quân và, cũng từng là huấn luyện viên bóng bầu dục cho đội Purdue. Ông đã kiếm cho anh một công việc nhẹ nhàng làm huấn luyện viên khóa tập cốt để giữ anh lại đảo Parris chơi bóng. Vài tháng trước khi Người Thụy Điển giải ngũ, cha anh đã đi một chuyến tới đảo Parris, ở đó suốt một tuần, ngay gần căn cứ, tại một khách sạn thuộc Beaufort và chỉ rời đi khi lễ đính hôn của anh với cô Dunleavy kết thúc. Năm 1947, Người Thụy Điển trở về quê nhà để đăng ký học tại Cao đẳng Upsala, East Orange ở tuổi hai mươi, không hề bị cản trở vì có một người vợ ngoại đạo mà trái lại còn anh hùng hào hoa hơn ai hết bởi vì anh ấy đã tạo được dấu ấn cho mình trong vai trò một người lính Thủy quân lục chiến gốc Do Thái – một huấn luyện viên không hề thua kém các trại huấn luyện quân sự được coi là khắc nghiệt nhất trên thế giới. Thủy quân lục chiến được xây dựng nên từ những trại huấn luyện tân binh như vậy, và Seymour Irving Levov đã góp phần vào công cuộc đó.
Chúng tôi đều biết tất cả những chuyện này bởi vì những câu chuyện thần bí về Người Thụy Điển vẫn luôn sống động và được lan truyền khắp các hành lang và lớp học của trường trung học. Tôi nhớ có khoảng hai hoặc ba lần cuốc bộ lặn lội cùng với bạn bè tới Viking Field ở East Orange để xem đội tuyển bóng chày Upsala thi đấu trên sân nhà vào ngày thứ Bảy. Ngôi sao qua mặt được cả cầu thủ đập bóng và cầu thủ canh gôn số 1 chính là Người Thụy Điển. Ba cú home run1 trong cùng một trận đấu với đội Muhlenberg. Cứ khi nào lũ chúng tôi nhìn thấy một người đàn ông mặc vest chỉnh tề và đội mũ đứng trên khán đài, chúng tôi lại thì thầm vào tai nhau, “Người chiêu mộ, người chiêu mộ đấy!” Khi tôi đang học đại học thì nhận được tin từ một cậu bạn thân vẫn đang sống trong khu phố rằng có câu lạc bộ hạng nhỏ Double A Giant mời Người Thụy Điển ký hợp đồng, nhưng anh ấy đã từ chối để gia nhập công ty của cha mình. Sau đó, tôi còn nghe được từ cha mẹ về đám cưới của Người Thụy Điển với Hoa khôi bang New Jersey. Trước khi tham gia cuộc thi giành danh hiệu Hoa hậu Mỹ tại thành phố Atlantic năm 1949, cô ấy đã từng đạt danh hiệu Hoa khôi hạt Union, còn trước đó, cô cũng đã từng giữ danh hiệu Nữ hoàng sắc đẹp mùa xuân ở Upsala. Từ Elizabeth. Một cô gái ngoại đạo Do Thái. Giờ cô ấy là Dawn Dwyer. Anh ấy thực sự đã cưới cô ấy.
1 Home run dùng để chỉ một cú đánh bóng vượt qua hàng rào của sân; khi đó, người đánh bóng được tự do chạy quanh các gôn để trở về chỗ cũ và thắng điểm.
Một tối mùa hè năm 1985, khi ghé thăm New York, tôi đã đi xem đội Mets thi đấu với đội Astros, và trong khi đang rảo quanh tìm lối đi tới ghế của mình cùng với một số bạn bè, tôi đã thấy Người Thụy Điển, khi đó đã già hơn thời điểm tôi xem anh ấy chơi bóng ở Upsala tới ba mươi sáu tuổi. Anh ấy đang mặc một chiếc áo sơ mi trắng, đeo cà vạt kẻ sọc, mặc bộ vest mùa hè màu xám tro và trông vẫn hết sức tuấn tú. Mái tóc vàng sẫm hơn một hoặc hai tông nhưng vẫn dày như trước; tóc anh ấy giờ không còn cắt ngắn nữa mà gần như phủ kín hai bên tai, dài chạm cổ áo. Trong bộ đồ hợp với anh ấy đến từng chi tiết, dáng người anh ấy trông có vẻ cao ráo và gọn gàng săn chắc hơn cái dáng vẻ của chính anh ấy trong bộ đồng phục một môn thể thao nào đó mà tôi còn nhớ được. Cô bạn đi cùng chúng tôi chú ý đến anh ấy trước tiên.
“Người đó là ai vậy? Người đó đó – người ngồi chỗ đó ấy… Anh ta có phải là John Lindsay không nhỉ?” Cô ấy hỏi.
“Không.” Tôi trả lời.
“Ôi Chúa ơi. Bà biết người đó là ai mà? Đó là Swede Levov đấy.” Tôi nói với các bạn bè của tôi, “Đó chính là Người Thụy Điển!”
***
Một cậu bé mảnh khảnh, tóc vàng hoe, chừng bảy, tám tuổi đang đi song song với Người Thụy Điển. Cậu bé đội mũ của tuyển thủ đội Mets, đang dùng tay trái đập đập liên tục vào chiếc găng tay hở ngón đu đưa của cầu thủ chốt gôn số 1, giống như Người Thụy Điển đã từng. Cả hai, rõ ràng là một cặp cha con, đang cười khoái chí về một chuyện gì đó lúc tôi tiến tới gần và giới thiệu bản thân mình.
“Em là bạn của em trai anh hồi còn ở Weequahic.”
“Cậu là Zuckerman phải không?” Anh ấy đáp lời, nồng nhiệt bắt tay tôi. “Nhà văn?”
“Vâng, em là Zuckerman nhà văn đây ạ.”
“Chắc chắn rồi, cậu từng là cạ cứng vô cùng ăn ý của Jerry.”
“Em không nghĩ rằng Jerry có bạn chơi ăn ý xứng tầm đâu. Cậu ấy quá xuất sắc, khó có người bì kịp. Cậu ấy từng khiến em đập bóng đến tụt chun quần mà vẫn thua thê thảm dưới tầng hầm nhà anh. Đối với Jerry, hạ đo ván em lúc chơi bóng bàn rất quan trọng.”
“Vậy cậu chính là cậu đó rồi. Mẹ tôi vẫn thường nói rằng đứa bé ấy thật ngoan và trầm tĩnh mỗi khi đến chơi nhà.”
“Con có biết đây là ai không?” Người Thụy Điển quay sang nói với cậu bé. “Tác giả đã viết những cuốn sách đó. Nathan Zuckerman.”
Làm ra vẻ khó hiểu, cậu bé nhún vai và khẽ khàng nói, “Chào chú ạ.”
“Đây là con trai tôi, Chris.”
“Đây đều là bạn em.” Tôi nói, sải rộng tay về phía họ để giới thiệu ba người bạn đi cùng. Rồi tôi quay ra nói với họ, “Còn đây là vận động viên sáng giá nhất trong lịch sử trường trung học Weequahic. Một nghệ sĩ thực thụ thành thục đến ba môn thể thao. Hậu vệ phòng ngự số 1 bên cánh trái giống như Hernandez. Cầu thủ bóng chày luôn có những cú đập bóng chạy thẳng gôn số 2 an toàn. Các cậu biết chuyện đó không?” Tôi quay sang nói với con trai anh ấy, “Cha cháu từng là Hernandez của chúng ta đấy.”
“Hernandez thuận tay trái.” Cậu bé đáp lời.
“Chà, đó là điểm khác biệt duy nhất.” Tôi nói với cậu chàng cứng nhắc bé nhỏ, rồi đưa tay ra lần nữa để bắt tay cha cậu ta. “Rất vui khi gặp anh, Swede.”
“Tôi cũng vậy, chắc chắn rồi. Thoải mái đi, Skip.” “Nhắc về em với em trai anh nhé.” Tôi nói.
Anh ấy cười lớn, rồi chúng tôi tách ra, ai đó đã nói với tôi ngay trong lúc đó, “Chà, chà, vận động viên sáng giá nhất trong lịch sử trường trung học Weequahic vừa gọi anh một cách rất thân thiết là Skip ư?”
“Tôi biết, tôi còn không thể tin nổi.” Trong tôi xuất hiện một cảm giác lâng lâng, gần giống như cái cảm giác mà tôi đã từng một lần nếm trải trước kia khi tôi mới lên mười, khi Người Thụy Điển tỏ ra thân mật với tôi khi anh ấy gọi tôi bằng biệt danh, một cái tên giễu mà mọi người gán cho tôi chỉ bởi vì tôi đã bỏ qua hai lớp ở trường tiểu học.
Đang xem lượt đấu thứ nhất thì cô bạn đi cùng quay sang phía tôi và nói, “Anh nên nhìn mặt mình lúc này – đáng ra anh phải nói trước với chúng tôi rằng anh ta là thần Zeus mới đúng. Tôi có thể tưởng tượng ra hồi nhỏ trông thế nào rồi.”
Bức thư sau đây đến tay tôi thông qua nhà xuất bản của tôi một vài tuần trước ngày lễ tưởng niệm liệt sĩ Hoa Kỳ1, năm 1995.
1 Ngày thứ hai cuối cùng của tháng 5, ở Mỹ, là ngày tưởng niệm những thành viên của lực lượng vũ trang đã hi sinh trong chiến tranh. Trước năm 1971, ngày này là 30 tháng 5.
Thân gửi Skip Zuckerman:
Tôi xin lỗi nếu bức thư này gây ra bất cứ sự bất tiện nào cho cậu. Có lẽ cậu không còn nhớ đến cuộc gặp gỡ giữa chúng ta tại Sân vận động Shea nữa. Tôi đã ở đó cùng với con trai lớn của tôi (hiện đã là sinh viên đại học năm thứ nhất) còn cậu thì đang đi xem đội Mets thi đấu cùng với vài người bạn. Cậu vẫn có thể xem Mets thi đấu vào thời điểm mười năm trước đó, thời đại của Carter-Gooden-Hernandez. Nhưng bây giờ, cậu không thể nữa rồi. Tôi viết thư để hỏi xem liệu chúng ta có thể gặp nhau nói chuyện vào một ngày nào đó không. Tôi sẽ rất vui nếu cậu cho phép tôi được mời cậu đến ăn tối ở New York. Tôi đang mạn phép đề xuất một cuộc gặp gỡ với cậu để chia sẻ những điều tôi đã suy nghĩ từ khi cha tôi qua đời năm ngoái. Ông ấy đã chín mươi sáu. Ông là người năng nổ, tự phụ và dễ bị kích động cho đến phút cuối cùng. Tất cả những điều đó khiến cho việc chứng kiến ông ra đi càng thêm khó khăn, mặc dù ông đã cao tuổi.
Tôi muốn nói về ông ấy và cuộc đời của ông ấy. Tôi đang cố gắng viết một bài tri ân tôn vinh ông ấy, để gửi riêng đến bạn bè, gia đình và các cộng sự kinh doanh. Hầu hết mọi người đều nghĩ cha tôi là người không thể quỵ ngã, một người đàn ông trơ lì với tính cách nóng nảy. Điều đó khác xa sự thật. Không phải ai cũng biết ông đã phải chịu đựng nhiều đến thế nào sau những cú sốc xảy đến với những người thân yêu của mình.
Xin đừng bận lòng nếu cậu không thể dành thời gian cho tôi, tôi có thể hiểu được.
Trân trọng,
Seymour “Swede” Levov, WHS 1945
Nếu có ai hỏi tôi liệu anh ta có thể nói chuyện với tôi về bài tri ân mà anh ta đang viết để tỏ lòng thành kính với cha mình không, có lẽ tôi sẽ chúc người đó may mắn và từ chối can dự. Tuy nhiên, có nhiều lý do đã thuyết phục tôi gửi tin nhắn cho Người Thụy Điển chỉ trong vòng một giờ sau đó để nói với anh ấy rằng tôi đã sẵn sàng làm theo ý anh. Lý do thứ nhất là Swede Levov muốn gặp tôi. Nực cười làm sao, có lẽ nào khi đã chớm tuổi lão niên mà chỉ cần nhìn thấy chữ kí của anh ấy ở cuối thư là đủ để làm tôi chìm đắm vào những kí ức về anh ấy, cả trong và ngoài sân thi đấu, dù một vài trong số chúng đã xảy ra từ 50 năm trước. Tôi vẫn nhớ như in hồi đó, ngày nào tôi cũng cần mẫn đến sân thi đấu để xem luyện tập bóng bầu dục vào đúng cái năm mà Người Thụy Điển đồng ý gia nhập đội bóng. Vào thời điểm đó, anh ấy đã là một nghệ sĩ móc bóng vào rổ trên sân bóng rổ rồi, nhưng không ai có thể ngờ được là anh ấy còn có thể thi đấu điêu luyện như một ảo thuật gia trên sân bóng bầu dục cho đến khi huấn luyện viên ép anh ấy vào sân thi đấu như một giải pháp cứu cánh cho đội bóng của chúng tôi; và thế là, dù vẫn đứng chót bảng xếp hạng giải đấu thành phố, nhưng kể từ đó, trong một trận đấu, đội bóng đã ghi được không chỉ một hay hai mà tới ba bàn thắng, tất cả đều được ghi sau khi bóng chuyền tới tay Người Thụy Điển. Năm mươi hoặc sáu mươi đứa trẻ tụ tập dọc bên lề đường biên, tại chỗ diễn ra màn ghi bàn để dõi xem Người Thụy Điển – đội chiếc mũ bảo hiểm bằng da bị rách và mặc chiếc áo thi đấu màu nâu được đánh số 11 màu cam – nỗ lực cùng với đội tuyển đại diện cho trường đấu với các cầu thủ đội JV. Thủ quân của đội tuyển, Lefty Leventhal, là người chuyền bóng hết lần này đến lần khác cho Swede (“Lev-en-thal chuyền bóng cho Le-vov! Lev-en-thal chuyền bóng cho Le-vov!” là một câu cổ động theo thể thơ anapest1 luôn khiến chúng tôi mường tượng lại bầu không khí thi đấu trong thời hoàng kim của Người Thụy Điển), và nhiệm vụ của đội JV, bị dồn về chơi phòng thủ là cản phá không cho Swede Levov ghi bàn mọi lúc mọi nơi. Tôi đã ngoài sáu mươi tuổi, cái nhìn cuộc sống của tôi không còn giống như khi tôi còn là một cậu bé nữa, nhưng sự mê đắm của cậu bé ngày đó chưa bao giờ tan biến hoàn toàn; cho đến tận hôm nay, tôi vẫn chưa từng quên hình ảnh Người Thụy Điển, sau khi bị bao vây, ép sát đến nghẹt thở bởi những cầu thủ phòng ngự, từ từ đứng dậy, vùng mình khỏi đám đấu thủ hỗn loạn, đưa mắt nhìn lên trên bầu trời tối sầm đang sập xuống bằng một cái nhìn đầy ai oán, thở dài thảm não, và rồi thản nhiên chạy về hội ý với đồng đội của mình mà không bị thương dù chỉ một chút. Khi anh ấy ghi bàn là một kiểu vinh quang, còn khi anh chỉ đơn giản đứng dậy và vùng ra khỏi đám đối thủ nằm chồng chất trên người cũng là một kiểu vinh quang khác, cho dù chỉ là vinh quang trong một cuộc ẩu đả giành bóng.
1 Anapest hay Anapaest là một cách chia âm tiết sử dụng trong thơ ca trang trọng, bao gồm hai âm tiết ngắn, theo sau là một âm dài.
Và rồi một ngày nọ, tôi được san sẻ ánh hào quang đó. Hồi đó, tôi mới mười tuổi, chưa từng có con người vĩ đại nào đoái hoài đến tôi cả; và tất nhiên chắc hẳn tôi sẽ nằm ngoài sự chú ý của Người Thụy Điển như bất kì đứa trẻ nào khác đang dõi xem từ bên lề vạch biên sân thi đấu, nếu không phải là bạn của Jerry Levov. Thời đó, Jerry mới coi tôi như một người bạn; mặc dù tôi thấy thật khó tin, nhưng Người Thụy Điển chắc hẳn đã chú ý đến tôi khi tôi đến chơi nhà họ. Rồi, vào một buổi chiều thu năm 1943, sau khi anh ấy bị toàn bộ đội JV cản phá ác liệt trên sân sau khi vừa được bắt một cú sút mạnh, nhanh từ đường chuyền ngắn của Leventhal, huấn luyện viên đã phải thổi còi, phát tín hiệu rằng mọi thứ đãquá đủ cho ngày hôm đó. Lúc này, Người Thụy Điển mới ngập ngừng vận động để giãn khuỷu tay và khập khiễng chạy ra khỏi sân. Phát hiện ra tôi trong số những đứa trẻ khác, anh gọi với qua, “Chẳng bao giờ có chuyện như thế này trong bóng rổ đâu, Skip ạ.”
Vị thần (bản thân cũng chỉ mới mười sáu tuổi) đã đưa tôi lên thiên đường của các vận động viên cùng với anh ấy. Người được ngưỡng mộ đã thừa nhận sự ngưỡng mộ được gửi đến anh. Tất nhiên, mỗi người tôn sùng của các vận động viên cũng như thần tượng phim ảnh thường tưởng tượng rằng giữa họ và anh ấy hoặc cô ấy có một sợi dây liên kết riêng bí mật; nhưng trong trường hợp này, mối liên kết đó đã được xác nhận công khai bởi một ngôi sao bình dị nhất trong số các ngôi sao, ngay trước sự chứng kiến của một đám trẻ ganh đua đã bị làm cho nín lặng – một cảm giác tuyệt vời, và tôi đã run lên vì sung sướng. Tôi đỏ mặt, tôi xúc động đến run người và gần như không nghĩ được gì khác trong suốt phần còn lại của tuần đó. Thái độ tự giễu, sự hào phóng đầy nam tính, cốt cách lịch thiệp mang khí chất của một hoàng tử, sự thỏa mãn của chàng vận động viên này quá dồi dào đến mức anh sẵn sàng chia sẻ một phần nào đó cho đám đông – sự hào phóng này không chỉ khiến tôi cảm thấy choáng ngợp và xúc động bởi vì anh ấy đã gọi biệt danh thân mật của tôi, mà còn ghim chặt trong tâm trí tôi như một biểu trưng của điều gì đó rất lớn lao, thậm chí còn cao quý hơn cả tài năng thi đấu thể thao của anh ấy: khả năng “luôn là chính mình”, khả năng sở hữu giọng nói và nụ cười trong sáng, không gợn một chút tự cao tự đại, bất chấp việc mang trong mình một thứ sức mạnh áp đảo đến kì lạ – tính khiêm tốn thiên bẩm của một người mà không chướng ngại nào có thể cản chân, một người có thể tìm được chỗ đứng cho bản thân mà không gặp phải dù chỉ một chút khó khăn. Tôi không nghĩ rằng tôi lại là người đàn ông trưởng thành duy nhất từng là một cậu nhóc Do Thái có khát khao trở thành một đứa bé “chuẩn Mỹ” trong những năm chiến tranh ái quốc – khi hi vọng thời chiến của toàn bộ khu phố chúng tôi hội tụ hết trên dáng hình tuyệt vời của Người Thụy Điển – người luôn mang trong mình những hồi ức về phong cách xuất chúng của chàng trai tài năng này.
Chất Do Thái trong con người anh ấy chỉ phảng phất như cảm giác của một trong những vận động viên cao ráo, tóc vàng mang lại cho chúng tôi – về chuyện sự ngưỡng mộ của chúng tôi dành cho Người Thụy Điển và sự hòa hợp vô thức của anh ấy với nước Mỹ, tôi cho rằng tất cả những điều đó đều đượm vẻ tủi nhục và chối bỏ bản thân. Những khao khát đầy mâu thuẫn của gốc gác Do Thái vừa bị khơi dậy, nhưng cùng lúc đó lại cũng được xoa dịu bởi sự hiện diện của anh; sự mâu thuẫn giữa Hai thái cực, vừa muốn hòa đồng lại vừa muốn nổi bật của cộng đồng những người Do Thái vừa một mực cho rằng mình khác biệt, nhưng đồng thời cũng khăng khăng bảo vệ ý kiến rằng họ cũng giống như bao người khác, tất cả đều được hóa giải nhờ vào hào quang chiến thắng huy hoàng của anh chàng Swede này; mà thực ra, anh cũng chỉ là một người nhà Seymour khác trong số những người mang họ Seymour trong vùng, mà tổ tiên xa xưa của họ cũng mang họ Solomons hoặc Sauls, dòng họ đã sinh ra tộc Stephens, và tiếp đó sinh ra họ Shawns. Vậy dòng máu Do Thái ở đâu trong anh? Ta không thể nhận ra, nhưng ta biết nó vẫn luôn ở đó. Vậy còn tính phi lý? Vậy còn đứa trẻ nhõng nhẽo trong anh? Những ham muốn bất kham thì sao? Không xảo trá. Không thủ đoạn. Không ranh mãnh. Tất cả đều đã bị anh ấy loại bỏ để đạt tới sự hoàn mĩ. Không tranh giành. Không mâu thuẫn. Không nước đôi. Chỉ đơn giản là một phong cách rất riêng – một bản chất ngôi sao đã được tinh luyện tới mức thuần túy.
Chỉ là… Anh ấy đã làm gì với tính cá nhân của mình vậy? Tính cá nhân của Swede là gì? Chắc chắn con người anh phải được xây dựng trên một nền móng nào đó, nhưng thật khó để tưởng tượng ra được các yếu tố cấu thành nên nó.
Lớp nền đó chính là lý do thứ hai thúc đẩy tôi trả lời là thư của anh. Dạng thức tinh thần nào đang hiện hữu trong cơ thể người đàn ông này? Điều gì, nếu tồn tại bất cứ điều gì như vậy, đã đe dọa làm mất ổn định quỹ đạo của Người Thụy Điển? Nào có ai sống trên đời mà không phải chịu cảnh ủ ê, buồn khổ, hoang mang hay mất mát. Ngay cả những người có tất cả mọi thứ khi còn nhỏ cũng sớm muộn sẽ phải nếm trải những khổ đau mà người bình thường phải chịu đựng, đôi khi còn phải nếm trải nhiều hơn. Nhận thức và sự suy tàn là hai yếu tố bắt buộc. Tuy nhiên, đến tận bây giờ tôi vẫn không thể mường tượng ra dạng thức nào của chúng được áp dụng trong trường hợp của anh; chúng chẳng thể giúp tôi hình dung được con người anh rõ ràng hơn là bao: trong những suy tưởng từ hồi vị thành niên còn sót lại, tôi vẫn tin rằng đối với Người Thụy Điển, cuộc đời chẳng có gì đau đớn.
Nhưng anh ấy đang ám chỉ điều gì trong bức thư thận trọng và nhã nhặn đó khi nói về người cha quá cố của mình, một người đàn ông không hề mạnh mẽ, trơ lì như mọi người vẫn nghĩ? Anh ấy đã viết, “Không phải ai cũng biết ông đã phải chịu đựng nhiều đến thế nào sau những cú sốc xảy đến với những người thân yêu của mình.” Không, chính Người Thụy Điển mới đang phải chịu đựng một cú sốc. Anh ấy muốn tâm sự về việc phải chịu đựng cú sốc đó. Thứ anh ấy muốn thổ lộ không phải là cuộc đời của cha mình, mà chính là cuộc đời của riêng anh.
Nhưng tôi đã sai.
Chúng tôi gặp nhau tại một nhà hàng Ý ở khu West Forties, nơi nhiều năm nay Người Thụy Điển vẫn thường xuyên đưa gia đình anh ấy đến mỗi khi họ ghé qua New York để xem kịch ở Broadway hoặc đi xem đội Knicks thi đấu ở sân vận động Garden; ngay lập tức, tôi hiểu ra rằng tôi sẽ không bao giờ có thể đến gần được nền tảng của anh. Tất cả mọi người trong nhà hàng Vincent’s đều biết tên anh, từ ông chủ Vincent, vợ của ông, đầu bếp chính Louie, nhân viên pha chế Carlo đến anh phục vụ bàn Billy; mọi người đều biết Levov và gửi lời hỏi thăm tới vợ và các con của anh ấy. Hóa ra khi cha mẹ anh còn sống, anh thường đưa họ tới nhà hàng Vincent’s để tổ chức kỉ niệm hoặc sinh nhật. Không, tôi đã nghĩ, anh mời tôi đến đây chỉ để thể hiện rằng tại đây, phố West 49, anh ấy vẫn được ngưỡng mộ như hồi còn ở đại lộ Chancellor.
Vincent’s là một trong số những nhà hàng Ý lâu năm rải rác trên những con phố ở khu trung tâm West Side, nằm giữa nhà thi đấu Madison Square Garden và trung tâm thương mại; các nhà hàng nhỏ vừa đủ rộng để đặt ba bàn ăn và đủ sâu để treo bốn đèn chùm, với phong cách trang trí và thực đơn gần như không thay đổi kể từ trước khi giống cải lông được tìm ra. Chiếc ti vi đặt ở quầy bar nhỏ lúc đó đang chiếu một trận bóng; có một vị khách cứ chốc chốc lại đứng lên, tiến lại xem khoảng một phút, hỏi nhân viên pha chế tỉ số, hỏi Mattingly1 đang chơi thế nào, rồi lại quay trở về bữa ăn của ông ta. Những chiếc ghế bọc nhựa dẻo có màu lam ngọc, sàn nhà lát màu hồng da cam lấm chấm, một bức tường ốp gương, những đèn chùm giả đồng và, để trang trí, một chiếc cối xay hạt tiêu màu đỏ tươi cao năm hơn 1,5m được đặt ở một góc, trông giống như tác phẩm điêu khắc của Giacometti2 (một món quà mà theo Người Thụy Điển là được gửi đến cho Vincent từ quê nhà của ông ở nước Ý). Đối trọng với chiếc cối xay đó, ở góc đối diện, đứng sừng sững trên một giá đỡ chai rượu vang Barolo. Một chiếc bàn chất đầy những lọ đựng sốt Marinara của nhà hàng Vincent’s nằm chếch đối diện tô đựng kẹo bạc hà cay miễn phí sau bữa tối bên cạnh quầy thanh toán của bà chủ nhà hàng; trên xe đẩy để đồ tráng miệng là món bánh napoleon, tiramitsu, bánh ngọt nhiều tầng, báng tart táo và dâu ngào đường; sau bàn của chúng tôi, trên một bức tường là những bức ảnh có bút tích (“Gửi tới Vincent và Anne những lời chúc tốt đẹp nhất”) của Sammy Davis, Jr., Joe Namath, Liza Minnelli, Kaye Ballard, Gene Kelly, Jack Carter, Phil Rizzuto, Johnny và Joanna Carson. Chỗ đó lẽ ra nên có một tấm của Người Thuỵ Điển, tất nhiên rồi, và có lẽ đã là như thế nếu chúng ta vẫn đang chiến đấu chống lại quân Đức, Nhật; và bên kia đường là trường Trung học Weequahic.
1 Cựu vận động viên bóng chày chuyên nghiệp người Mỹ, huấn luyện viên và hiện tại là quản lý cho đội Miami Marlins. Với biệt danh “ The Hit Man” và “Donnie Baseball”, ông đã dành toàn bộ sự nghiệp 14 năm của mình để chơi cho đội New York Yankees và sau đó quản lý Los Angeles Dodgers trong năm năm.
2 Alberto Giacometti là một nhà điêu khắc, họa sĩ người Thụy Sĩ.
Người phục vụ bàn – Billy, một người đàn ông hói đầu, nhỏ nhắn nhưng vững chãi, có cái mũi tẹt như của một vận động viên đấm bốc – thậm chí còn không cần hỏi xem Người Thụy Điển muốn gọi món gì. Trong hơn ba mươi năm qua, Người Thụy Điển chỉ gọi duy nhất món đặc sản ruột của nhà hàng – ziti1 à la Vincent, sau món nghêu posillipo. “Món mì ziti nướng ngon nhất ở New York đấy.” Người Thụy Điển nói với tôi như vậy, nhưng tôi vẫn gọi món theo sở thích truyền thống riêng của mình, món gà cacciatore, “rút xương” theo như gợi ý của Billy. Trong khi ghi chú các món được gọi, Billy nói với Người Thụy Điển rằng Tony Bennett2 đã ở đây vào tối hôm trước. Đối với một người đàn ông có thể hình chắc gọn như Billy, một người mà bạn có lẽ sẽ hình dung như đang gánh trên vai gánh nặng cuộc đời lớn lao hơn rất nhiều so với một đĩa mì ziti, chất giọng the thé, gay gắt và căng thẳng vì chịu đựng những nỗi muộn phiền quá lâu của Billy thật đáng ngạc nhiên và là một đặc ân thật sự. “Đoán xem ông bạn của ông đã ngồi đâu? Đoán xem ông ấy ngồi đâu đi, ông Levov? Tony Bennett đã ngồi trên chiếc ghế đó.” Quay về phía tôi, anh ấy nói, “Ông có biết Tony Bennett đã nói gì khi mọi người tiến tới bàn ông ấy và tự giới thiệu với ông ấy không? Ông ấy nói ‘Thật hân hạnh được biết anh’. Và ông đang ngồi trên ghế của ông ấy đấy.”
1 Một món mì kết hợp phong cách ẩm thực Mỹ và Ý ngon miệng bao gồm các nguyên liệu như mì Ý, sốt cà chua, xúc xích, phô mai, thịt và gia vị.
2 Anthony Dominick “Tony” Benedetto (sinh ngày 3 tháng Tám năm 1926) hay thường được gọi với cái tên thân mật Tony Bennett, là một ca sĩ người Mỹ xuất sắc ở các thể loại nhạc Pop truyền thống, đồng thời cũng là bậc thầy nhạc Jazz. Ông còn là người đã sáng lập Học viện Nghệ thuật Frank Sinatra tại Astoria, Queens, New York.
Câu chuyện đó đã kết thúc phần giải trí. Từ lúc đó về sau cho đến hết bữa ăn toàn là chuyện công việc.
Anh ấy đã mang theo những tấm ảnh chụp ba đứa con trai cho tôi xem, và từ món khai vị cho tới món tráng miệng, câu chuyện của chúng tôi toàn xoay quanh chúng: Chris mười tám tuổi, Steve mười sáu tuổi và Kent mười bốn tuổi. Cậu thì chơi bóng vợt tốt hơn bóng chày nhưng vẫn đang bị huấn luyện viên thúc ép... cậu thì chơi tốt cả bóng bầu dục và bóng đá nhưng không thể chọn ra một môn để tập trung... cậu thì là quán quân bơi lội từng phá kỉ lục môn bơi bướm và bơi ngửa ở trường học. Cả ba đều là những học sinh siêng năng đạt toàn điểm A, điểm B; một đứa sẽ theo con đường khoa học, một đứa có xu hướng “hoạt động xã hội” nhiều hơn, trong khi đứa thứ ba… v.v. Có một bức ảnh chụp các cậu bé chung với mẹ của chúng – một người phụ nữ xinh đẹp với mái tóc vàng óng, trạc 40 tuổi, hiện đang là trưởng phòng quảng cáo của Tuần báo Hạt Morris. Nhưng, Người Thuỵ Điển nhanh chóng bổ sung thêm rằng đến tận khi đứa con nhỏ nhất của họ vào lớp hai, cô ấy mới bắt đầu dấn thân vào nghề này. Các cậu bé đã rất may mắn khi có một người mẹ chọn đặt việc ở nhà và chăm sóc con cái lên trên...
Trong suốt bữa ăn, tôi đã rất ấn tượng trước thái độ chắc chắn của anh, dù là khi nói về những điều bình thường nhất, cũng như việc bản chất tốt đẹp của con người này bộc lộ ra từ mọi lời anh nói. Tôi cứ chờ đợi anh tiết lộ đến một điều gì đó khác hơn là những sự thật hiển nhiên không thể chê trách này, nhưng tất cả những gì tôi tìm thấy bên dưới vỏ bọc bề nổi đó là càng nhiều lớp vỏ bọc khác. Thay vì tồn tại, thứ mà anh có, tôi nghĩ, chỉ là sự nhạt nhòa – bởi anh tỏa ra cảm giác ấy. Anh đã tự dựng nên cho mình một danh tính ẩn, và cái danh tính ẩn mình đó đã trở thành chính anh. Trong suốt bữa ăn, tôi đã không ít lần nghĩ rằng mình sẽ không chịu nổi đến cuối bữa; tôi sẽ không thể chịu đựng được đến khi ăn món tráng miệng nếu anh cứ tiếp tục không ngớt ngợi ca gia đình mình... cho đến khi tôi bắt đầu băn khoăn rằng liệu người đàn ông này đang che giấu bản chất thật của mình hay anh ta đã phát điên.
Có thứ gì đó đang chi phối, kìm hãm anh. Thứ gì đó đã khiến anh trở nên tầm thường. Thứ gì đó đã cảnh báo anh: nó không cho phép anh đối nghịch với bất cứ chuyện gì hết.
Người Thụy Điển, hơn tôi khoảng sáu, bảy tuổi, đã gần bảy mươi, nhưng những vết chân chim nơi khóe mắt hay những vết nhăn bên dưới xương gò má nhô ra vẫn không thể làm phai mờ thần thái rạng rỡ của anh mà chỉ khiến anh trông hơi hốc hác hơn một chút so với tiêu chuẩn thông thường của một người vạm vỡ. Tôi nhận thấy rất rõ ở anh vẻ gầy gò của một người ăn kiêng, đồng thời áp dụng chế độ tập luyện đi bộ và chơi tennis nghiêm ngặt; cho đến gần cuối bữa ăn, tôi mới biết rằng anh vừa trải qua một cuộc phẫu thuật tuyến tiền liệt vào mùa đông vừa rồi và chỉ mới bắt đầu lấy lại số cân nặng đã mất. Tôi không biết liệu việc biết được anh ấy đã phải trải qua gian khổ hay việc anh ấy tự thú nhận chuyện đó mới là điều khiến tôi kinh ngạc tột độ. Tôi thậm chí còn tự hỏi liệu có phải việc anh mới trải qua phẫu thuật gần đây và những ảnh hưởng hậu phẫu có phải lý do khiến tôi có cảm giác tâm trí anh ấy không bình thường không.
Cuối cùng, tôi đã phải ngắt lời anh, cố gắng không tỏ ra tuyệt vọng theo bất kì cách nào, để hỏi thăm về công việc kinh doanh, rằng việc điều hành một nhà xưởng ở Newark trong thời buổi này ra sao. Nhờ thế mà tôi biết được rằng Newark Maid đã không còn ở thành phố Newark kể từ đầu những năm 70. Hầu hết toàn bộ ngành công nghiệp này đều đã chuyển hoạt động ra nước ngoài: các hội liên hiệp càng ngày càng gây khó dễ cho các chủ sản xuất, khiến họ không thể kiếm được tí lời lãi nào; hầu như không thể tìm được nguồn lao động nhận làm khoán sản phẩm hoặc nhận làm công việc theo cách mà họ muốn nữa; và khi chuyển đi nơi khác, họ hoàn toàn có khả năng tìm được những công nhân có thể được đào tạo tới mức gần đạt tiêu chuẩn mà ngành công nghiệp găng tay đòi hỏi cách đây 40 hay 50 năm. Gia đình anh ấy đã duy trì hoạt động kinh doanh ở Newark trong một thời gian khá dài; Người Thụy Điển đã cố gắng bám trụ gần sáu năm sau những cuộc bạo động năm 19671 cốt để làm tận trách nhiệm với những lao động lâu năm của nhà xưởng, chủ yếu là người da đen, chống chọi lâu nhất có thể với hiện thực kinh tế của toàn ngành và những lời chửi rủa của cha anh. Nhưng khi không thể chặn đứng sự xuống dốc của tay nghề đang bị thoái hóa dần đều kể từ sau các cuộc bạo loạn, anh đã bỏ cuộc, cố gắng xoay xở để thoát ra, hạn chế tối đa tổn thất trước sự sụp đổ của thành phố. Tất cả những gì mà nhà máy Newark Maid phải gánh chịu trong bốn ngày diễn ra bạo loạn chỉ là một vài ô cửa sổ bị vỡ, mặc dù cách cổng dẫn vào khu bốc dỡ hàng của anh rộng năm mươi thước, ở khu chợ Tây, hai toà nhà khác đã bị thiêu rụi và bỏ hoang.
1 Cuộc bạo động liên quan đến phân biệt chủng tộc kéo dài bốn ngày từ 12 đến 17 tháng Bảy năm 1967, mùa hè nóng kéo dài ở Newark và là một trong tổng số 159 cuộc bạo động xảy ra trên toàn nước Mỹ cùng năm về vấn đề phân biệt chủng tộc. Sau bốn ngày bạo động đó, 26 người đã thiệt mạng và hàng trăm người bị thương.
“Thuế má, tham nhũng và phân biệt chủng tộc. Ông cụ nhà tôi lúc nào cũng lầu bầu về những chuyện đó. Ông sẽ nói về vấn đề này với bất kì ai, đến từ bất kì đâu, những người chẳng quan tâm chút nào tới số mệnh của thành phố Newark, đối với ông ấy ai cũng như ai cả – cho dù đang ở trong căn hộ chung cư xuôi bãi biển Miami hay đang lênh đênh trên một chiếc du thuyền ở vịnh Ca-ri-bê, họ đều sẽ phải nghe ông nói về Newark cổ kính thân yêu của ông, một thành phố bị tàn phá đến diệt vong vì thuế má, tham nhũng và nạn phân biệt chủng tộc. Cha tôi là một trong những người sống ở phố Prince, những người dành trọn cả đời yêu thương thành phố đó. Những thứ đã xảy đến với Newark khiến ông tan nát cõi lòng.”
“Đây là thành phố tồi tệ nhất thế giới, Skip ạ.” Người Thụy Điển nói với tôi. “Từng là thành phố sản xuất ra mọi thứ. Giờ đây nó là thủ phủ của nạn trộm cắp ô tô. Cậu biết điều đó chứ? Không phải là kinh khủng nhất trong số những thay đổi kinh khủng, nhưng thế này cũng đã đủ tệ rồi. Lũ trộm cắp hầu như đều sống ở quanh khu nhà chúng tôi. Lũ nhóc da đen. Ở Newark, cứ mỗi 24 giờ lại có 40 chiếc xe hơi bị lấy trộm. Đó chỉ mới là những con số thống kê. Đáng kể đấy chứ? Và phiền toái là những chiếc xe đó sẽ trở thành những vũ khí giết người – một khi bị lấy cắp, chúng sẽ biến thành những quả tên lửa bay. Đích ngắm bắn của chúng có thể là bất cứ ai trên đường – người già, trẻ con, chẳng có bất cứ ngoại lệ nào. Khu vực bên ngoài nhà máy của chúng tôi là Đường-đua- bang-Indiana của chúng. Đó cũng là một lý do khiến chúng tôi rời đi. Bốn, năm đứa trẻ thò đầu ra khỏi cửa sổ xe, phóng với vận tốc tám mươi dặm một giờ – ngay trên Đại lộ Trung tâm. Khi cha tôi mua lại nhà máy, trên Đại lộ Trung tâm vẫn còn tàu điện. Xa hơn một chút về phía cuối đường là các phòng trưng bày xe hơi. Central Cadillac. LaSalle.1 Ở mỗi phố ngang đều có một nhà xưởng. Thời bây giờ, phố nào cũng có tiệm rượu – một tiệm bán rượu, một quầy bán bánh pizza, và một nhà thờ cũ có mặt tiền là cửa hàng. Tất cả những thứ khác đều đã hóa thành đống tàn tích hoặc bị đóng ván bít kín. Nhưng việc cha tôi mua lại nhà máy đã tạo ra hiệu ứng lan truyền. Và thế là Kiler sản xuất máy làm lạnh nước, Fortgang sản xuất chuông báo động, Lasky may coóc-xê, Robbins làm gối, Honig chế tạo và lắp ráp bút bi – Lạy Chúa, giọng điệu của tôi y hệt như cha tôi vậy. Nhưng ông ấy đã đúng – “Đúng là thời kì hoàng kim”, ông ấy vẫn thường nói như vậy. Ngành nghề chính bây giờ lại là ăn cắp xe hơi. Ở Newark, dù là dưới ánh đèn sáng trưng, người ta cũng cần phải cảnh giác với mọi chuyện xảy ra xung quanh. Giáp giới giữa Bergen và Lyons chính là nơi mà tôi bị tông xe. Cậu còn nhớ cửa hiệu nhà Henry chứ, “Cửa hàng Kẹo Ngọt” ngay sát bên Nhà hát Công viên ấy? Chà, ngay tại đó, nơi mà cửa hiệu nhà Henry từng tọa lạc. Tôi đã đưa cô bạn gái đầu tiền thời cấp ba của mình tới cửa hiệu nhà Henry để mua sô đa. Tại một cái quầy hàng ở đó. Arlene Daziger. Tôi đưa cô ấy đến đó để uống một lon sô đa “đen trắng”2 sau khi đã xem một bộ phim. Tuy nhiên, trên phố Bergen, “đen trắng” không còn là một loại sô đa nữa. Nó ngụ ý cho kiểu hận thù kinh khủng nhất trên thế giới. Một chiếc xe hơi lao ngược hướng đường một chiều và tông thẳng vào tôi. Bốn đứa trẻ thò đầu ra khỏi cửa sổ xe. Hai trong số chúng ra khỏi xe, cười lớn, đùa cợt và chĩa súng vào đầu tôi. Tôi giao nộp chìa khóa và một trong số chúng nhảy lên xe tôi rồi phóng đi mất. Ngay chính trước cái chỗ trước đây từng là cửa hiệu nhà Henry. Đó là một kí ức kinh khủng. Chúng dám tông vào xe cảnh sát ngay giữa thanh thiên bạch nhật. Đâm thẳng vào mũi xe để làm nổ khí. Donut3. Cậu đã bao giờ nghe về cú donut chưa? Donut xe ấy? Cậu chưa từng nghe về nó ư? Đó chính là mục đích chúng đánh cắp những chiếc xe hơi. Chạy vận tốc tối đa, dậm phanh đột ngột, kéo phanh khẩn cấp, xoáy bánh lái, và chiếc xe bắt đầu quay vòng tròn. Chiếc xe quay theo một vòng tròn ở tốc độ lớn khủng khiếp. Giết chết một người khách bộ hành chẳng có ý nghĩa gì đối với chúng. Giết một người lái xe mô tô cũng chẳng có ý nghĩa gì đối với chúng. Tự giết chết cả bản thân cũng không có ý nghĩa gì với chúng. Những vết trượt bánh để lại trên mặt đường cũng đủ để làm chúng ta khiếp sợ. Chúng đã giết một phụ nữ ngay bên ngoài chỗ chúng tôi vào chính cái tuần mà tôi bị cướp xe. Cũng chỉ để thực hiện một cú donut. Tôi đã tận mắt chứng kiến chuyện đó. Hôm đó, tôi có việc phải ra ngoài. Vận tốc khủng khiếp. Tiếng rú của chiếc xe. Một tiếng thét thất thanh. Thật đáng sợ. Nó khiến tôi sợ đến lạnh người. Người phụ nữ đó, một người phụ nữ da đen trẻ tuổi, đã lãnh trọn cú tông xe đó khi chỉ vừa mới đánh xe ra khỏi đường Số 2. Cô ấy là mẹ của ba đứa trẻ. Hai ngày sau thì đến lượt một trong số những nhân viên của tôi. Một anh chàng da đen. Nhưng chúng đâu có quan tâm, da đen, da trắng chẳng thành vấn đề đối với chúng. Chúng có thể giết chết bất cứ ai. Người bạn thân mến đó của tôi có tên là Clark Tyler, một anh chàng giao hàng – tất cả những gì mà anh ấy đang làm chỉ là đi ra khỏi khu vực của chúng tôi để về nhà. Mười hai giờ phẫu thuật, bốn tháng nằm viện. Tàn tật vĩnh viễn. Tổn thương vùng đầu, thương tích nội tạng, gãy khung xương chậu, gãy xương vai, nứt vỡ cột sống. Một cuộc rượt đuổi tốc độ cao, đứa trẻ điên khùng trong một chiếc xe ăn cắp và cảnh sát đang đuổi theo nó; đứa trẻ húc thẳng vào bên phải anh ta, nghiền nát cửa xe bên phía ghế lái. Đó là những gì đã xảy ra với Clark. Tám mươi dặm một giờ thẳng tới đại lộ Trung tâm. Thằng ranh trộm xe mới mười hai tuổi. Để nhìn qua được bánh lái, nó phải cuộn thảm trải sàn nhà lại và ngồi lên đó. Sáu tháng ở Jamesburg, và nó lại ngồi sau bánh lái của một cái xe ăn cắp khác. Tôi chỉ chịu được đến vậy thôi. Xe của tôi đã bị cướp khi chúng chĩa súng vào đầu tôi, chúng khiến Clark tàn tật, người phụ nữ đó bị giết chết – bấy nhiêu vụ chỉ trong một tuần. Thế là quá đủ.”
1 Các nhãn hiệu xe hơi.
2 Loại sô đa kem được làm từ kem vani và si-rô sô-cô-la.
3 Donut trong kỹ thuật biểu diễn xe hơi là thao tác điều khiển xoay vòng tròn 360 độ.
Newark Maid bây giờ sản xuất độc quyền tại Puerto Rico. Trong một thời gian chóng vánh, sau khi rời khỏi Newark, anh ấy đã ký hợp đồng với chính quyền Cộng hòa Tiệp Khắc và san sẻ công việc giữa nhà máy riêng của anh ấy ở Ponce, Puerto Rico với một nhà máy găng tay của Cộng hòa Séc ở Brno. Tuy nhiên, khi một nhà máy kiện anh ấy vì đã bán sản phẩm ở Aguadilla, Puerto Rico, gần sát Mayagüez, anh ấy đã rút khỏi Cộng hòa Séc, nơi chế độ quan liêu đã và đang hoành hành, và hợp nhất hoạt động sản xuất bằng cách mua lại một cơ sở thứ hai ở Puerto Rico, một nhà máy quy mô vừa đủ khác, chuyển máy móc vào, khởi động chương trình tập huấn đào tạo và thuê thêm ba trăm người. Tuy nhiên, tới những năm 80, ngay cả Puerto Rico cũng bắt đầu trở nên đắt đỏ và khó khăn về vấn đề nhân công, tuy nhiên Newark Maid đã nhanh chân lấn sang thị trường Viễn Đông, nơi có lực lượng lao động dồi dào và rẻ tiền, tới Philippine đầu tiên, sau đó là Hàn Quốc và Đài Loan, rồi bây giờ là Trung Quốc. Thậm chí ngay cả găng tay bóng chày The Denkerts, loại găng tay mang đậm văn hóa Mỹ nhất, từng được một người bạn của cha anh ấy sản xuất ở Johnstown, New York từ rất lâu trước đó, giờ cũng được sản xuất ở Hàn Quốc. Khi gã đầu tiên rời bỏ Gloversville, New York để tới Philippine làm găng tay hồi những năm 1952, 1953 gì đó, người ta đã cười vào mặt anh ta, cứ như thể anh ta đang có ý định di cư đến mặt trăng vậy. Nhưng tới khi mất vào khoảng năm 1978, anh ta sở hữu một công ty ở đó với quy mô bốn nghìn công nhân và toàn bộ ngành công nghiệp sản xuất đều đã chuyển hết từ Gloversville tới Philippines. Ở Gloversville có cả thảy tới chín mươi công ty lớn nhỏ khi Thế Chiến thứ Hai nổ ra. Ngày nay, không có đến một cơ sở – tất cả bọn họ đều rút khỏi ngành hoặc nhập khẩu từ nước ngoài. “Những người đó còn không phân biệt được miếng đáp cắt theo mẫu ngón cái.” Người Thụy Điển nói. “Họ đều là những người làm kinh doanh, họ biết liệu họ có cần một trăm nghìn đôi loại này hay hai trăm nghìn đôi loại kia với vô vàn màu sắc và kích cỡ, nhưng họ không biết rõ và chi tiết cách chúng được làm ra.”
“Miếng đáp là cái gì vậy?” Tôi hỏi.
“Một bộ phận cấu tạo của chiếc găng tay, phần nằm giữa các ngón tay. Những mảnh bán thành phẩm may thuôn nhỏ nằm giữa các ngón tay này, chúng được cắt trên cùng một mẫu rập1 với các ngón cái – chúng được gọi là các miếng đáp. Ngày nay, cậu sẽ thấy có quá nhiều người không đủ hiểu biết, thậm chí không nắm được một nửa những gì tôi biết khi tôi mới lên năm, đang đưa ra những quyết định khá lớn. Có một gã thu mua da đanh2, một mặt hàng có giá có thể lên tới 3 đô 50 xu một foot để giác sơ đồ cắt bán thành phẩm may, anh ta mua mảnh da đanh tốt này để giác sơ đồ cắt một miếng đáp lòng bàn tay nhỏ trên một đôi găng tay trượt tuyết. Tôi đã nói chuyện với anh ta vào một ngày khác. Anh ta trả 3 đô 50 xu một foot cho một bộ phận mới lạ có kích cỡ 5 x 1 inch, trong khi anh ta có thể chỉ cần trả 1 đô 50 xu cho 1 foot thành phẩm và cứ thế sản xuất ra, tiến lên phía trước. Cậu thử nhân con số đó lên theo một đơn đặt hàng lớn xem, cậu sẽ nhìn ra được một sai lầm phải trả giá hàng nghìn đô-la nhưng anh ta thì không bao giờ biết được điều đó. Đáng ra anh ta đã có thể dằn túi sẵn cả trăm nghìn đô-la rồi.”
1 Hình mẫu, như khuôn tạo sẵn trên giấy (sơ đồ, mẫu rập, rập cắt) để đo và cắt công nghiệp hàng loạt các bán thành phẩm trong ngành may mặc. Một mẫu rập có thể bao gồm nhiều hình vẽ mẫu, thuộc nhiều kích thước của các bán thành phẩm khác nhau, cấu tạo nên một sản phẩm may mặc.
2 Da hươu nai thuộc.
Người Thụy Điển thấy mình như đang bám trụ P.R (Puerto Rico), anh giải thích, theo đúng cái cách mà anh ấy đã bám trụ được ở Newark, phần lớn là bởi vì anh ấy đã đào tạo rất nhiều người giỏi làm công việc sản xuất găng tay phức tạp một cách thận trọng và tỉ mỉ, những người có thể mang lại cho anh ấy những sản phẩm có chất lượng đạt chuẩn yêu cầu của Newark Maid vào thời của cha anh; tuy nhiên, anh cũng phải thừa nhận rằng anh ở lại là vì gia đình anh rất thích ngôi nhà nghỉ mát mà anh đã xây dựng cách đây mười lăm năm trên bờ biển Ca-ri-bê, cách nhà máy Ponce không xa lắm. Cái cuộc sống mà những đứa trẻ từng tận hưởng ở đó, đơn giản là chúng yêu nó… và rồi anh ấy lại quay về với câu chuyện về Kent, Chris, Steve, lướt ván, chèo thuyền, lặn có bình khí nén, đua thuyền catamaran1, và mặc dù từ tất cả những gì mà anh ấy vừa và đang kể với tôi, rõ ràng là anh chàng này có thể trở nên hấp dẫn nếu anh ấy muốn, nhưng anh ấy dường như không có vẻ có chút ý kiến nào về việc điều gì thú vị trong thế giới của anh, và điều gì thì không. Hoặc, vì những lý do mà tôi không thể hiểu được, anh ấy không muốn thế giới của mình trở nên thú vị. Tôi rất muốn gợi ra điều gì đó để khiến anh ấy quay trở lại với câu chuyện về nhà sản xuất Kiler, Fortgang, Lasky, Robbins, và Honig, hay quay trở lại câu chuyện về những miếng đáp và các chi tiết về quy trình hay phương thức làm sao để sản xuất ra một chiếc găng tay chất lượng tốt, hay thậm chí là quay trở lại với câu chuyện về cái gã đã mắc sai lầm khi trả giá ba đô rưỡi cho một foot da hươu để giác và cắt một bộ phận mới cho sản phẩm, nhưng một khi anh ấy đã ngừng nói về chuyện đó và tiếp tục nói sang chuyện khác thì không có cách nào khả dĩ mà tôi có thể nghĩ ra để lái trọng tâm câu chuyện của anh ấy ra khỏi những thành tích của những cậu trai trên đất liền cũng như trên biển cả.
1 Thuyền có hai thân thả nổi, hoặc bè, phao gắn vào nhau và đẩy bằng mái chèo, buồm.
Trong khi chúng tôi chờ món tráng miệng, Người Thụy Điển đã tiết lộ với tôi rằng anh thưởng thức phần zabaglione1 nhiều béo phủ trên món mỳ ziti chỉ bởi vì, sau khi phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt cách đây vài tháng, anh ấy vẫn bị thiếu 5kg cân nặng.
2 Một món tráng miệng của Ý gồm đường, lòng đỏ trứng, đánh lên cùng rượu Marsala, ăn nóng kèm bánh quy.
“Phẫu thuật thuận lợi chứ?”
“Cũng ổn.” Anh ấy trả lời.
“Một vài người bạn của em đã không gượng dậy nổi sau phẫu thuật như họ vẫn đã hi vọng là như thế. Phẫu thuật kiểu đó có thể là một thảm hoạ thực sự đối với một người, ngay cả khi họ thoát khỏi bệnh ung thư.”
“Đúng, có chuyện như thế, tôi biết mà.”
Tôi tiếp tục, “Một người bị chứng liệt dương. Một người khác vừa liệt dương vừa không kiềm chế tiểu tiện được. Bạn đồng trang lứa với em. Thật khắc nghiệt đối với họ. Tuyệt vọng. Tổn thương đó có thể khiến người ta phải mặc tã nốt phần đời còn lại.”
“Người khác” mà tôi nhắc đến ở đây chính là tôi. Tôi đã trải qua một ca phẫu thuật ở Boston; ngoại trừ thổ lộ hết với một người bạn ở Boston – người đã giúp tôi vượt qua thử thách cho đến khi tôi hồi phục hoàn toàn. Khi quay trở lại ngôi nhà nơi tôi sống một mình, cách Boston hai giờ rưỡi lái xe về phía Tây, ở Berkshires, tôi đã nghĩ tốt nhất tôi nên giữ kín sự thật là tôi đã bị ung thư và căn bệnh đang khiến tôi suy kiệt dần.
“Chà,” Người Thụy Điển nói, “Tôi đã vượt qua dễ dàng, tôi cho là vậy.”
“Em chỉ có thể nói rằng anh đã làm được.” Tôi đáp lời vừa đủ lịch sự, không thể thôi suy nghĩ rằng chai rượu cỡ đại đầy phô trương này thực sự là tất cả những gì mà anh ấy từng mong muốn. Coi trọng mọi thứ mà một người được cho là phải coi trọng; không phản đối bất cứ điều gì; không bao giờ phải bận tâm về vấn đề thiếu niềm tin vào bản thân; không bị ám ảnh bơi bất cứ thứ gì; không cảm thấy khổ sở vì thiếu năng lực; không bị đầu độc bởi hận thù hay bị kích động bởi cơn giận… đối với Người Thụy Điển, cuộc sống cũng chẳng kém phức tạp hơn một cuộn len bông xù mềm mại là bao.
Dòng suy nghĩ này cuốn tôi quay trở lại với bức thư của anh, bức thư đề nghị xin những lời tư vấn chuyên nghiệp cho bài tri ân viết về cha mình mà anh đang cố gắng hoàn thành. Tôi sẽ không tự mình đưa ra được những lời tri ân và tất nhiên, câu đố còn bỏ ngỏ không chỉ là tại sao anh ấy không làm chuyện đó, mà còn là tại sao anh ấy lại viết cho tôi về chuyện đó ngay từ đầu nếu anh ấy không làm. Tôi chỉ có thể kết luận – giả dụ những gì tôi biết về cuộc sống này không tương phản thái quá mà cũng không vì tính mâu thuẫn mà trở nên quá rối rắm – rằng bức thư và nội dung của nó chắc chắn có liên quan tới cuộc phẫu thuật kia, với một điều gì đó khác thường sau đó đã nảy sinh trong anh sau khi nó diễn ra, một cảm xúc mới đáng ngạc nhiên nào đó vừa trỗi dậy từ sâu thẳm thâm tâm anh và được phơi bày ra ánh sáng. Đúng, tôi nghĩ bức thư đó bắt nguồn từ những khám phá muộn màng của Người Thụy Điển về việc thế nào có nghĩa là bệnh tật, là yếu đuối, là “trông không tuyệt lắm“ – thế nào có nghĩa là xấu hổ, là tủi nhục, là tệ hại; thế nào có nghĩa là tuyệt giống, và cảm giác phải ngẩng mặt nhìn trời mà hỏi “Tại sao?” tệ đến mức nào. Bị phản bội bất thình lình bởi chính cái cơ thể tuyệt vời từng mang đến cho anh lòng tự tin cũng như ưu thế vượt trội so với những người xung quanh, anh đã mất thăng bằng và cố bám víu lấy tôi, trong số tất cả mọi người, như một cách để níu kéo người cha đã mất của mình và cầu xin sự bảo vệ từ ông. Trong một giây phút nào đó, dường như anh đã không còn kiểm soát nổi chính bản thân mình, và người đàn ông này, người mà như những gì tôi thấy, đang sử dụng bản thân như một bức bình phong để che giấu đi chính bản thân mình, đã hóa thành một kẻ bốc đồng, bạc nhược, khẩn thiết cầu xin được ban ơn. Cái chết đã bắt đầu ám ảnh giấc mơ của anh (như lần thứ hai trong vòng mười năm trở lại đây nó đã làm như vậy với tôi), và ngay cả Người Thụy Điển huyền thoại cũng chẳng thể nào tránh khỏi những mối lo âu mà tất cả cánh đàn ông tầm tuổi này đều vướng phải.
Tôi không biết liệu anh có sẵn lòng nhớ lại cảm xúc mong manh khi nằm giường bệnh thêm một lần nữa hay không, những tổn thương đó đã đưa những vấn đề không thể tránh khỏi trong đời vào thực tại của anh và đặt nó ngang hàng với lớp vỏ bọc hào nhoáng của gia đình anh, để rồi gợi lại trong anh cái bóng đã len lỏi vào giữa tầng tầng lớp lớp những mãn nguyện của đời anh như một lớp băng chết chóc. Tuy nhiên, anh ấy đã xuất hiện tại bữa tối đã được hẹn trước của chúng tôi. Chẳng phải thế có nghĩa là cái điều mà anh ấy không thể chịu đựng được vẫn chưa biến mất, những thế lực bảo vệ đã không xuất hiện, và tình trạng khẩn cấp vẫn chưa chấm dứt sao? Hoặc có lẽ, đối với anh, khoe khoang và kể lể về tất cả những gì tốt đẹp trong cuộc sống của mình chính là cách để giải quyết vấn đề? Tôi càng nghĩ về linh hồn có vẻ mộc mạc đang ngồi ăn món zabaglione trước mặt tôi với vẻ đầy chân thành này thì dòng suy nghĩ lại càng cuốn tôi đi xa khỏi anh. Tôi hiếm khi cảm nhận được con người bên trong của người đàn ông đó. Tôi không thể hiểu nổi anh ấy. Tôi hoàn toàn không thể hình dung được chút nào về anh ấy, và tự tôi đã sa vào trạng thái căng thẳng bởi suy nghĩ quá nhiều về chứng rối loạn mang tên Người Thụy Điển: tôi không thể kết luận về bất cứ điều gì ở anh ngoại trừ những thứ có tính bề nổi. Việc cố gắng đào sâu tìm hiểu về con người này thực sự vô nghĩa, tôi tự nhủ. Đây là một cái lọ không thể bị cậy mở. Đây là một con người không thể được giải mã bằng cách tư duy. Đó là điều bí ẩn về những bí ẩn của anh. Giống như thể đang cố gắng để đúc kết ra được điều gì đó từ bức tượng điêu khắc chàng David của Michelangelo.
Tôi đã để lại cho anh ấy số điện thoại của tôi trong bức thư. Tại sao anh lại không gọi để hủy cuộc hẹn nếu tâm trí anh không còn bị viễn cảnh về cái chết bóp méo? Một khi tất cả đã trở lại như đã từng trước đây, một khi anh ấy đã lấy lại được vầng hào quang của một người chưa bao giờ thất bại trong việc đạt được bất cứ thứ gì mình muốn, anh ấy còn cần đến tôi để làm gì nữa chứ? Không, bức thư của anh ấy, theo tôi nhận định, không thể là toàn bộ câu chuyện – nếu như vậy, anh ấy sẽ không đến đây. Một điều gì đó, một điều vẫn chưa được nói ra đã thôi thúc mọi thứ thay đổi. Điều từng xảy đến đột ngột với anh ấy trong bệnh viện vẫn còn đó. Một sự hiện hữu không kiểm chứng được không còn đủ để đáp ứng nhu cầu của anh nữa. Anh ấy muốn ghi lại một điều gì đó. Đó là lý do tại sao anh ấy tìm đến tôi: để ghi lại những điều có thể bị lãng quên. Bị bỏ qua và bị lãng quên. Điều đó có thể là gì đây?
Hoặc có thể anh ấy chỉ là một người đàn ông hạnh phúc. Vẫn có những người hạnh phúc thực sự tồn tại trên cõi đời này mà. Tại sao lại không cơ chứ? Tất cả những suy đoán rời rạc về động cơ của Người Thụy Điển chỉ bộc lộ sự thiếu kiên nhẫn một cách chuyên nghiệp của tôi, nỗ lực của tôi nhằm gán Swede Levov với một cái gì đó giống như ý nghĩa có dụng ý mà danh hào Tolstoy đã gán cho Ivan Ilych1, nhân vật đã bị tác giả hạ thấp rất nhiều trong một câu chuyện nghiệt ngã, khi mà, một cách nhẫn tâm, ông ta đã bị đặt làm ví dụ cho định nghĩa về khái niệm “tầm thường”. Ivan Ilych là một quan chức cấp cao trong tòa án và sở hữu một “cuộc sống chính chuyên đúng theo quan niệm của xã hội”, người mà trước khi qua đời, trong sâu thẳm của nỗi đau đớn và kinh hoàng không ngớt, đã nghĩ rằng: “Có lẽ ta đã không sống như lẽ ra ta nên sống.” Dưới ngòi bút của Tolstoy, nói một cách tóm lược, cuộc đời của Ivan Ilych, vị quan tòa chủ tọa với tư dinh sang trọng ở St.Petersburg với mức lương lên tới ba ngàn rúp một năm cùng tất cả những người bạn có địa vị xã hội cao, là những kẻ đơn giản nhất, bình thường nhất và do đó tệ hại nhất. Có lẽ là vậy. Có lẽ, ở Nga vào năm 1886. Nhưng ở Old Rimrock, New Jersey vào năm 1995, khi những người nhà Ivan Ilych tụ tập ăn trưa tại nhà câu lạc bộ sau một vòng chơi gôn buổi sáng của họ và bắt đầu hân hoan reo mừng “chẳng có gì tuyệt hơn thế này”, có lẽ đến Leo Tolstoy cũng chưa bao giờ tiến gần tới chân lí như vậy.
1 Nhân vật chính trong Cái chết của Ivan Ilyich (Nga: Смерть Ивана Ильича , Smert› Ivana Ilyichá ), xuất bản lần đầu vào năm 1886, là một tiểu thuyết của Leo Tolstoy. Cái chết của Ivan Ilyich kể câu chuyện về một thẩm phán tòa án tối cao ở Nga thế kỉ 19 và những đau khổ, cũng như cái chết của anh ta vì bệnh nan y.
Cuộc đời của Swede Levov, theo tất cả những gì tôi biết, đã là đơn giản nhất, bình thường nhất và do đó chỉ có thể là tuyệt vời, đúng theo phong cách Mỹ.
“Jerry đồng tính phải không?” Tôi đột ngột hỏi.
“Em trai tôi ư?” Người Thụy Điển cười phá lên. “Cậu đang đùa đấy à.”
Tôi có đùa thật, và câu hỏi tinh quái đó được đặt ra vốn chỉ để hâm nóng bầu không khí tẻ nhạt này lên một chút. Nhưng tôi đã chợt nhớ đến cái dòng mà Người Thụy Điển đã viết cho tôi về việc cha của anh đã phải “khổ sở đến mức nào vì những cú sốc đã giáng lên đầu những người thân yêu của ông”. Nó khiến tôi tự hỏi liệu anh ấy đang ám chỉ tới điều gì, và tôi nhớ lại sự sỉ nhục mà Jerry đã phải chuốc lấy trong năm đầu phổ thông của chúng tôi, khi mà cậu ấy cố gắng tiếp cận một cô bé cực kì bình thường trong lớp, một cô gái mà bạn sẽ nghĩ rằng chẳng cần phải cố gắng quá nhiều để chiếm được một nụ hôn.
Để tặng cô ấy một món quà Valentine, Jerry đã may một chiếc áo khoác cho cô ấy từ da chuột hamster, một trăm bảy mươi lăm tấm da chuột hamster đã được cậu ấy xử lý bằng cách phơi dưới ánh nắng và sau đó khâu lại với nhau bằng một chiếc kim khâu cong lén lấy từ nhà máy của cha cậu, nơi cậu ấy nảy ra ý tưởng này. Khoa sinh học của trường chúng tôi đã được tặng khoảng ba trăm chú chuột hamster để phục vụ cho môn giải phẫu, và Jerry đã cặm cụi lừa bịp những học sinh của môn ấy để có thể thu thập được toàn bộ chúng; sự kì quặc và tài năng thiên bẩm của cậu ấy đã khiến cho câu chuyện về “một thí nghiệm khoa học” mà cậu ấy đang thực hiện tại nhà trở nên đáng tin cậy. Sau khi tìm cách để biết được chiều cao của cô gái này, cậu ấy đã thiết kế ra một mẫu rập cắt may; và sau khi khử hết mùi hôi của da – hoặc cậu ấy nghĩ rằng như vậy – bằng cách phơi khô chúng dưới ánh nắng mặt trời trên nóc nhà để xe, cậu ấy đã tỉ mỉ khâu các tấm da lại với nhau, hoàn thiện chiếc áo bằng vải lụa lấy ra từ chiếc dù trắng, một chiếc dù không hoàn hảo mà anh trai của cậu đã gửi về nhà như một vật kỉ niệm từ căn cứ ở Mũi Cherry Point, Bắc Carolina, nơi đội tuyển đảo Parris đã giành chiến thắng trong trận đấu cuối cùng của mùa giải, giành chức vô địch bóng chày Thủy quân lục chiến. Người duy nhất được nghe Jerry kể về chiếc áo khoác là tôi, cạ chơi bóng bàn của cậu ấy. Cậu ấy đã định gửi chiếc áo cho cô bạn gái trong một chiếc hộp áo khoác hãng Bamberger của mẹ mình, bọc trong giấy lụa hoa oải hương và buộc bằng ruy băng nhung. Nhưng khi được hoàn thành, chiếc áo lại quá cứng – nguyên nhân là bởi cái cách phơi khô da ngu ngốc mà cậu ấy đã làm, như cha cậu đã giải thích sau này – cứng đến mức cậu ấy không thể gập nó lại để cho vào trong hộp.
Ngồi đối diện với Người Thụy Điển trong nhà hàng Vincent’s, tôi đột nhiên nhớ lại thời điểm tôi nhìn thấy cái thứ đó trong tầng hầm: một món đồ to lớn có hai cái tay áo nằm chỏng chơ trên sàn nhà. Ngày nay, cái thứ đó có lẽ đủ khả năng để giành được tất cả các giải thưởng của Bảo tàng Whitney, tôi nghĩ vậy, nhưng ở Newark vào năm 1949, nào có ai biết nghệ thuật là cái khỉ gì, còn Jerry và tôi đã phải vắt óc cố gắng tìm ra cách để nhét được cái áo khoác vào trong hộp. Cậu ấy đã chọn cái hộp đó vì có thể khi mở nó ra, có thể cô ấy sẽ nghĩ rằng bên trong nó đang chứa một chiếc áo khoác đắt tiền của hãng Bam. Còn tôi thì lại nghĩ nhiều hơn về cảm nhận của cô ấy khi nhận ra đó không phải là món đồ được chứa trong hộp; và tôi cũng nghĩ rằng việc gì phải lao tâm khổ tứ đến thế chỉ để giành được sự chú ý của một đứa con gái béo ú, có làn da thô và không ai thèm tán. Nhưng tôi vẫn hỗ trợ Jerry bởi vì tính tình dữ dội mà bạn chỉ có thể hoặc là chuồn êm, hoặc là nhượng bộ của cậu; và bởi vì cậu ấy là em trai của Swede Levov và tôi đang ở trong nhà của Swede Levov, và đâu đâu trong đây cũng nhìn thấy những chiếc cúp chiến thắng của Swede Levov. Cuối cùng, Jerrry đã tháo toàn bộ chiếc áo rời ra từng mảnh và khâu lại cốt để đường chỉ nằm thẳng ngang ngực áo tạo thành một khớp nối như một dạng bản lề để khiến chiếc áo khoác có thể được gập lại và đặt vào trong hộp. Tôi đã giúp cậu ấy – chẳng khác gì may một bộ áo giáp. Cuối cùng, Jerry đặt một hình trái tim mà cậu ấy đã cắt ra từ tấm giấy bồi rồi vẽ tên của cậu ấy bằng chữ Gô-tích1 lên phần thân trên của chiếc áo, rồi đóng gói bưu kiện lại và gửi đi qua đường bưu điện. Mất tận ba tháng để cậu ấy chuyển đổi một ý tưởng không chắc sẽ làm được thành một hiện thực khùng điên. Một sự “khùng điên” đúng theo mọi tiêu chuẩn của nhân loại.
1 Tiếng Anh cổ.
Cô gái ấy đã hét thất thanh lên khi mở cái hộp. “Cô ấy đã rất tức giận”, đám bạn gái của cô ấy nói lại như vậy. Cha của Jerry cũng đã rất tức giận. “Đây là những gì con đã làm với chiếc dù mà anh trai của con đã gửi cho con ư? Con cắt nát nó? Con cắt nát một cái dù ư?” Jerry đã quá xấu hổ để có thể thú nhận với ông rằng cậu ấy làm thế chỉ để khiến cô gái kia ngã vào vòng tay cậu, và hôn cậu như cái cách mà Lana Turner hôn Clark Gable. Tôi tình cờ có mặt ở đó khi ông mắng cậu về chuyện xử lí da bằng ánh nắng mặt trời ban trưa. “Một tấm da phải được bảo quản đúng cách. Đúng cách nhé! Và đúng cách là không phơi dưới ánh nắng mặt trời – con phải hong khô da trong bóng râm. Con không muốn tấm da cháy nắng chứ, chết tiệt thật! Cha có thể dạy con một lần và chỉ một lần này thôi, hãy nhớ lấy nó cả đời, Jerome à, về cách thức bảo quản một tấm da không?” Và cứ thế, ông ấy bắt đầu dạy cách bảo quản da, trong cơn giận sôi bừng bừng lúc đầu, cố gắng kìm nén nỗi thất vọng về đứa con trai không có đủ thiên phú để hoạt động trong ngành da thuộc. Ông đã giải thích cho cả hai chúng tôi về những gì họ đã dạy cho các thương gia phải làm để bảo quản da cừu ở Ethiopia trước khi vận chuyển chúng tới Newark Maid để cung cấp cho các thợ da thuộc. “Con có thể ướp tấm da, nhưng muối rất đắt đỏ. Đặc biệt ở châu Phi, vô cùng, vô cùng đắt. Ở đó, người ta phải ăn trộm muối. Dân ở đó không có muối. Nếu ở đó, con sẽ phải bỏ thuốc độc vào trong muối để đề phòng chúng bị lấy cắp. Có một cách khác nữa là treo những tấm da lên, có thể bằng nhiều cách như trên một tấm ván hoặc một cái giàn phơi; khi đó, con phải buộc tấm da vào đó, khía một vài vết nhỏ, buộc lại và hong khô tấm da trong bóng râm. Trong bóng râm đấy nhé, các chàng trai. Đó là toàn bộ các công đoạn trong quá trình phơi da. Rồi rắc một ít đá lửa trên đó, để đề phòng da bị giảm chất lượng và tránh sâu bọ…” Tôi cảm thấy quá nhẹ nhõm, cơn thịnh nộ đã tan đi nhanh đến đáng ngạc nhiên và chuyển sang sự giảng giải có tính chất hướng dẫn mô phạm, tẻ ngắt, một điều còn khiến Jerry bất mãn nhiều hơn cả việc phải hứng chịu cơn giận của cha mình. Đó cũng có thể chính là ngày mà Jerry thề rằng sẽ không bao giờ rờ đến công việc của cha mình.
Để xử lý những tấm da nặng mùi, Jerry đã thấm đẫm chiếc áo khoác bằng nước hoa của mẹ mình; nhưng vào cái lúc mà chiếc áo được bưu tá giao đến nơi, nó đã bắt đầu bốc mùi như trước, và khi mở cái hộp, cô bạn gái kia đã cảm thấy cực kì bị xúc phạm và tởm lợm đến nỗi cô ấy không bao giờ nói chuyện với Jerry thêm lần nào nữa. Theo như lời những cô gái khác, cô ấy nghĩ rằng cậu ấy đã đi săn những con thú nhỏ bé đó rồi gửi chúng cho cô ấy để chế nhạo làn da sần sùi của cô. Jerry giận điên người khi biết tin đó và ngay giữa trận đấu bóng bàn tiếp theo, cậu ấy đã nguyền rủa cô ấy và gọi tất cả các cô gái khác là lũ thộn chó chết. Nếu như trước đây, cậu ấy không đủ can đảm để hẹn bất cứ cô gái nào đi chơi, thì sau lần đó, cậu ấy cũng không bao giờ thử nữa và là một trong số ba nam sinh duy nhất không có mặt tại buổi dạ vũ năm cuối cấp. Hai cậu chàng còn lại bị chúng tôi gọi là lũ “ẻo lả”. Và đó chính là lí do mà bây giờ tôi đang hỏi Người Thụy Điển một câu hỏi về Jerry mà chính tôi cũng chưa từng mơ đến vào năm 1949, cái thời điểm mà tôi vẫn chưa có ý niệm rõ ràng về khái niệm đồng tính luyến ái và không thể tưởng tượng nổi rằng lại có bất cứ ai trong số người quen của mình đồng tính. Vào thời điểm đó, tôi nghĩ Jerry chỉ đơn giản là Jerry, một thiên tài với bản tính chất phác đến ám ảnh và sự ngây thơ vô độ về con gái. Hồi đó, chỉ cần nhiêu đó thông tin thôi là đã đủ. Có lẽ đến giờ vẫn vậy. Nhưng tôi thực sự muốn được biết xem nếu có thật thì chuyện gì lại có thế khuấy động tâm hồn ngây thơ trong sáng của anh chàng Swede vương giả này – và để tránh bản thân khỏi tỏ ra thô lỗ khi ngủ gật trong cuộc gặp gỡ với anh ấy – nên tôi mới hỏi, “ Jerry có đồng tính không?”
“Khi còn là một đứa trẻ, ở Jerry luôn có một điều gì đó rất bí ẩn.” Tôi nói. “Không bao giờ có bất kì cô bạn gái nào, không bao giờ có người bạn thân nào, luôn có điều gì đó, chưa tính đến bộ óc thiên tài, khiến cậu ấy tách biệt ra khỏi đám đông…”
Người Thụy Điển gật đầu, nhìn tôi với một ánh mắt như thể anh đã thấu hiểu được ở tôi những hàm nghĩa sâu kín mà chưa từng có ai chạm tới trước đây, và vì cái nhìn chòng chọc như muốn thăm dò chân tơ kẽ tóc này mà tôi có lẽ sẽ thề không biết gì cả; tất cả những điều này không mang lại điều gì và cũng chẳng cho đi điều gì, tôi không biết suy nghĩ của anh ấy có thể đưa anh ấy đi đến đâu, hay thậm chí liệu anh ấy có “suy nghĩ” tí nào không. Vào cái lúc mà tôi ngừng nói, chỉ trong giây lát, tôi đã cảm nhận được rằng thay vì tiếp nhận và xử lý thông tin thì anh lại chẳng để những lời tôi nói vào đầu chút nào, không khác gì nước đổ lá khoai. Có điều gì đó toát lên từ đôi mắt vô hại của anh – một lời hứa rằng anh ấy không bao giờ làm bất cứ điều gì không đúng đắn – bắt đầu khiến tôi cảm thấy khó chịu; đó chắc hẳn là nguyên cớ cho việc tôi đã đề cập đến bức thư của anh ấy thay vì giữ im lặng cho đến khi hóa đơn được mang ra, khi đó tôi sẽ có thể thoát khỏi anh ấy thêm năm mươi năm nữa, và có lẽ tới năm 2045 tôi mới lại thực sự mong ngóng được gặp lại anh ấy lần nữa.
Con người chúng ta phải chiến đấu chống lại sự thiển cận, hời hợt của mình để khi tương tác với những người khác, ta có thể ngừng đặt ra những kì vọng không thực tế, bỏ qua vô vàn những thành kiến, hi vọng, cũng như kiêu ngạo, giống một chiếc xe tăng đã rũ bỏ mọi trang bị vũ trang hạng nặng, không nòng pháo, súng máy hay vỏ thiết giáp dày tới nửa foot1; ta đến gần họ với hai bàn tay trắng, không đe dọa, bước đi trên đôi chân trần thay vì xé nát mặt cỏ với hàng bánh xích, đón nhận họ với một tâm trí cởi mở như những kẻ ngang hàng, con người với con người, như chúng ta vẫn thường nói, nhưng ta lại chưa bao giờ hiểu đúng về họ. Có lẽ ta cũng có bộ não của một chiếc xe tăng. Ta hiểu sai về họ trước khi gặp họ, khi ta mong chờ được gặp họ; ta hiểu sai họ trong khi ta đang gặp gỡ với họ; và rồi ta trở về nhà và nói với ai đó khác về cuộc gặp gỡ và khiến tất cả bọn họ đều hiểu sai thêm nữa. Bởi vì điều tương tự cũng diễn ra với họ như đã diễn ra với ta, toàn bộ quá trình đó thực sự là một ảo ảnh chói lòa của nhận thức trống rỗng, một trò hề ngộ nhận đáng ngạc nhiên. Tuy nhiên, chúng ta là ai mà dám tự cho mình cái quyền nhúng mũi vào việc này, một vấn đề vô cùng quan trọng của một người khác, điều mà tính hệ trọng vốn có đã bị xóa mờ đi và thay thế bằng một ý nghĩa lố bịch nào đó, trong khi tất cả chúng ta đều quá thiếu thốn phương tiện để hình dung được diễn biến nội tâm của một người và những ý đồ tiềm ẩn của họ? Hay đáng lẽ ra họ phải dứt áo ra đi, khóa trái cửa, ngồi ẩn thân giống như một nhà văn cô độc trong một căn phòng nhỏ cách âm rồi xây đắp nên hình tượng con người bằng ngôn từ và cho rằng chúng còn chân thực hơn những con người bằng xương bằng thịt, những người mà chúng ta, với lăng kính thờ ơ cố hữu, chưa bao giờ nhìn nhận một cách đúng đắn? Nhưng thực lòng mà nói thì hiểu đúng về người khác đâu có phải bản chất của cuộc đời. Đời là hiểu sai, sai, sai và càng sai hơn thế, để rồi, sau khi cân nhắc lại một cách cẩn thận, lại hiểu sai lần nữa. Có như thế chúng ta mới biết mình đang sống: chúng ta mắc sai lầm. Có lẽ tốt nhất là quên đi việc hiểu đúng hay sai về con người và cứ tiếp tục sống. Nhưng nếu bạn có thể làm được điều đó – thì, xin chúc mừng.
1 Xe tăng hạng nặng vỏ thép dày từ 80mm đến 100mm, nửa foot khoảng 150mm.
“Khi anh viết thư cho em về cha anh và những cú sốc mà ông ấy đã phải chịu đựng, em chợt nghĩ rằng có thể Jerry chính là cú sốc đó. Nếu phát hiện ra con trai mình là người đồng tính thì chắc ông già em cũng chẳng khá hơn vậy là bao.”
Người Thụy Điển nở một nụ cười khiêm nhường, ngụ ý khẳng định rằng anh không và sẽ không bao giờ muốn phản đối tôi, một ẩn ý rằng, dù có được tôn sùng đến đâu, anh cũng chẳng hơn gì tôi cả, thậm chí là anh chẳng có chút gì đặc biệt nếu được đem ra so sánh với tôi. “Chà, thật may mắn cho cha tôi, ông đã không phải chịu đựng cú sốc đó. Jerry là cậu-con-trai-làm-bác-sĩ. Ông ấy tự hào về Jerry hơn bất kỳ điều gì khác.”
“Jerry là bác sĩ ư?”
“Ở Miami. Bác sĩ phẫu thuật tim. Một triệu đô mỗi năm.”
“Đã kết hôn? Jerry đã kết hôn?”
Lại nụ cười đó. Điểm yếu của nụ cười đó – điểm yếu của người đàn ông cường tráng nắm giữ mọi kỉ lục đã phải vật lộn với chẳng biết bao nhiêu phũ phàng của thực tế để tiếp tục sống của chúng tôi – chính là yếu tố gây kinh ngạc hàm chứa trong nó. Nụ cười đó giống như một biểu tượng của sự chối bỏ; chối bỏ cả sự dằn vặt nội tâm trong chính bản thân anh lẫn sự cố chấp tột độ mà một người đàn ông buộc phải có để có thể tồn tại qua bảy thập kỉ cuộc đời. Như thể có ai đó trên mười tuổi sẽ tin rằng chỉ với một nụ cười, con người ta có thể chinh phục tất cả mọi chướng ngại trong đời, rằng chỉ cần một nụ cười là đủ để giúp họ vượt qua mọi phong ba bão táp mà tương lai mịt mờ vô định sẽ trút xuống đầu họ vậy. Dù nụ cười đó có hiền hậu và ấm áp đến đâu. Một lần nữa, tôi bắt đầu nghĩ rằng có lẽ tinh thần của anh không được tỉnh táo cho lắm, và nụ cười này có lẽ là một dấu hiệu của tình trạng loạn trí. Không có chút giả tạo nào trong đó – và đó mới là điều tệ hại nhất. Một nụ cười không thể thành thật hơn. Người đàn ông này đang không hề giả bộ. Nó chính là nhân vật chính trong bức tranh biếm họa này, kết quả tất yếu của cả một đời nhấn chìm bản thân ngày càng sâu trong… nhưng trong cái gì mới được cơ chứ? Trong hình tượng ngôi sao của cả một vùng lân cận đã ám ảnh anh chăng? Liệu có phải chính nó là thứ đã vĩnh viễn bó chặt Người Thụy Điển trong tâm thái của một đứa trẻ? Như thể anh đã xóa bỏ khỏi thế giới mọi điều không phù hợp với mình – không chỉ là gian dối, mánh khóe, tính bạo lực, sự nhạo báng, giễu cợt và tính tàn nhẫn, mà còn là tất cả những gì thô lậu, dù chỉ đôi chút, hay mọi mối đe dọa về những biến cố bất ngờ – những dấu hiệu đáng kinh hãi của sự bất lực. Anh đã không ngừng cố gắng, dù chỉ một giây, để khiến mối quan hệ giữa tôi và anh trở nên đơn giản như những gì mà anh tưởng là anh đang có với chính bản thân mình.
Trừ khi trừ khi anh ấy chỉ là một người đàn ông trưởng thành và xảo quyệt như mọi người trưởng thành khác. Trừ khi những gì mà cuộc phẫu thuật ung thư đã khơi dậy – và những điều mà chỉ trong giây lát đã thành công thâm nhập vào sự thoải mái đã kéo dài suốt cuộc đời anh, bắt đầu phát huy sức ảnh hưởng của mình – khả năng phục hồi trăm phần trăm sẽ bị dập tắt hoàn toàn. Trừ khi anh thực ra không phải là một nhân vật không có đặc điểm tính cách nào để bộc lộ, mà thay vào đó lại là một người không muốn thổ lộ bất cứ điều gì – chỉ đơn giản là một người đàn ông đủ nhạy cảm để hiểu một điều rằng nếu ta quý trọng sự riêng tư và hạnh phúc của những người mình yêu quý, thì anh ta sẽ chọn cách giấu kín sự tự tin của mình và chỉ bộc lộ nó ra trước mặt một tiểu thuyết gia. Thay vì kể cho tay tiểu thuyết gia kia câu chuyện của đời mình, anh ta lại tặng cho ông ta sự phủ nhận trơ trẽn ẩn sau một nụ cười tuyệt đẹp, khiến ông ta phải choáng váng, ngơ ngẩn trước cái nụ cười hào nhoáng mà rỗng tuếch đó, sau đó nhanh chóng ăn sạch món zabaglione và quay trở lại cái thị trấn Old Rimrock chết tiệt, New Jersey, nơi cuộc sống của anh ta là chuyện riêng của anh ta chứ chẳng liên quan gì tới ông ấy.
“Jerry đã kết hôn bốn lần.” Người Thụy Điển vừa nói vừa mỉm cười. “Kỷ lục gia đình.”
“Còn anh thì sao?” Tôi đã đoán ra được, từ độ tuổi của ba cậu con trai, rằng người phụ nữ tóc vàng trạc bốn mươi cầm gậy đánh gôn kia nhiều khả năng là người vợ thứ hai, thậm chí có thể là người vợ thứ ba, của anh. Tuy nhiên, li hôn không mấy liên quan với hình ảnh của anh trong mắt tôi, một con người luôn tìm mọi cách để chối bỏ mọi yếu tố phi lý trong cuộc sống. Nếu anh ấy từng li hôn, hẳn nó đã được khởi xướng bởi cô Hoa khôi bang New Jersey. Hoặc vì cô ấy chết. Hoặc việc lấy một người lúc nào cũng phải giữ các thành tựu hoàn hảo, một người dâng hiến cả trái tim và tâm hồn cho ảo tưởng về sự ổn định, đã ép cô ấy đến kết cục phải tự kết liễu đời mình. Có khi đó là cú sốc đã xảy ra chăng… Éo le thay, nỗ lực tìm ra các mảnh ghép còn khuyết thiếu trong bức tranh hoàn chỉnh và thống nhất về Người Thụy Điển của tôi lại không ngừng chỉ ra những biểu hiện của sự rối loạn tâm thần, những mà khuôn mặt đã vương nét già nua nhưng vẫn đẹp tuyệt trần của anh ấy không hề biểu lộ. Sự trống rỗng của anh ấy giống như một lớp tuyết, tôi không thể hiểu nổi nó đang bao phủ lên một điều gì đó, hay phía dưới nó chẳng còn gì cả.
“Tôi ư? Hai người vợ, thế là đủ lắm rồi. Tôi chỉ là tay mơ thôi khi đứng cạnh em trai tôi. Người vợ mới của cậu ấy mới độ ba mươi. Chỉ bằng nửa tuổi cậu ấy. Jerry là kiểu bác sĩ kết hôn với y tá của mình. Cả bốn đều là y tá. Họ tôn sùng từng tấc dưới gót giày của bác sĩ Levov. Bốn người vợ, sáu đứa con. Điều đó khiến cha tôi hơi bực. Nhưng Jerry là một anh chàng cao lớn, một gã cộc cằn, một bác sĩ phẫu thuật danh giá, cao ngạo và vô cùng quyền lực – người đã buộc cả một bệnh viện phải để tóc ngắn – và ngay cả cha tôi cũng phải tuân theo. Buộc phải như vậy. Hoặc họ sẽ đánh mất cậu ấy. Cậu em trai của tôi không phí thời giờ vào những chuyện vớ vẩn. Mỗi lần nó li hôn, cha tôi đều rất tức giận. Chắc đã phải đến cả trăm lần có lẻ ông muốn bắn bỏ Jerry cho hả giận, nhưng ngay sau khi Jerry tái hôn, ông lại quý người vợ mới của nó hơn so với người vợ trước đó. “Con bé là một con búp bê, con bé là cục cưng, con bé là con gái của tôi…” Cha tôi sẵn sàng giết chết bất cứ ai dám nói bất cứ điều gì về bất kì người vợ nào của Jerry. Đối với những đứa con của Jerry, ông cũng cưng chiều hết mực. Năm gái, một trai. Cha tôi yêu đứa bé trai, nhưng trên thực tế, những đứa cháu gái mới là báu vật trong mắt ông. Không có gì mà ông không thể làm cho những đứa cháu của mình. Cho bất kì đứa trẻ nào trong đại gia đình chúng tôi. Khi ông ấy được con cháu vây xung quanh, tất cả chúng tôi, tất cả những đứa cháu, ông già của tôi sẽ như được về chốn thiên đường. Chín mươi sáu tuổi, chưa từng bị bệnh một ngày nào trong đời. Duy nhất sáu tháng sau cơn đột quỵ trước khi ông chết là quãng thời gian tệ nhất. Nhưng ông ấy đã trải qua khá ổn. Ông đã sống tốt. Một chiến binh thực sự. Một sức mạnh siêu nhiên. Một người đàn ông bất khả chiến bại.” Anh nói về cha mình với tông giọng nhẹ nhàng; từ giọng nói của anh toát lên vẻ tôn kính nhiệt thành, thổ lộ một cách đường hoàng rằng không có gì trên đời có ảnh hưởng tới anh hơn những kì vọng của người cha.
“Chính là sự chịu đựng mà anh nhắc tới phải không?”
“Đáng ra phải tệ hơn thế nhiều.” Người Thụy Điển nói. “Chỉ sáu tháng, và thậm chí ở nửa giai đoạn sau, ông còn không đủ tỉnh táo để nhận thức được chuyện gì đang diễn ra nữa. Một đêm nọ, ông cứ thế mà qua đời, nhẹ bẫng… và chúng tôi đã mất ông mãi mãi.”
Tôi dùng từ chịu đựng với ý muốn ám chỉ đến sự dằn vặt mà anh ấy đã đề cập đến trong bức thư gửi cho tôi, bị khơi dậy trong ông bởi những cú sốc đã “giáng lên đầu những người thân yêu của ông”. Nhưng ngay cả khi tôi có ý định mang bức thư đó ra và đọc thẳng trước mặt anh, Người Thụy Điển chắc chắn sẽ dễ dàng lảng tránh những điều mình đã viết, giống như cái cách mà từng tránh thoát và loại bỏ những đấu thủ giành bóng với mình trong trận đấu ngày thứ Bảy của năm mươi năm trước, diễn ra tại Sân vận động thành phố, đối đầu với đội South Side, đối thủ yếu nhất của chúng tôi, và lập kỉ lục toàn bang khi bốn lần ghi điểm sau các lượt chuyền liên tiếp. Dĩ nhiên, tôi nghĩ, dĩ nhiên rồi, cái thôi thúc khám phá ra bản chất của anh, thái độ hoài nghi khôn nguôi về việc có nhiều điều ẩn giấu sâu dưới những điều tôi đang nhìn thấy, tất cả những biểu hiện đó ở tôi làm dấy lên trong anh ấy nỗi sợ hãi rằng tôi có thể đi trước một bước và nói với anh ấy rằng anh vốn dĩ chẳng phải cái hình tượng mà anh vẫn muốn thể hiện trước mắt chúng tôi… Nhưng sau đó tôi tự hỏi tại sao tôi lại áp đặt tất cả những suy nghĩ này lên anh? Tại sao tôi lại khao khát được tìm hiểu con người anh đến vậy? Liệu có phải vì từng có một lần từ tận ngày xửa ngày xưa, anh đã từng nói với tôi, với chỉ riêng tôi, rằng: “Bóng rổ sẽ không bao giờ có chuyện như thế này đâu, Skip”? Tại sao lại bám chặt lấy anh ấy? Mày bị làm sao vậy? Ngoại trừ điều mà mày nhìn thấy thì làm gì còn gì khác nữa. Người đàn ông này đâu còn gì khác ngoài cái vỏ bọc. Luôn luôn là như vậy. Anh ta đang không hề giả bộ. Mày đang khao khát những chiều sâu không tồn tại. Người đàn ông này là hiện thân của một tập rỗng.
Tôi đã sai. Chưa bao giờ tôi nhầm lẫn đến như thế về bất cứ ai trong đời tôi.