Xa xưa, khi Đức Phật Thích Ca trú tại tịnh xá Kỳ Hoàn(1), thành Xá Vệ(2), một ngày nọ có bốn vị Tỳ kheo ngồi dưới gốc cây cùng nhau thảo luận một vấn đề:
“Trong tất thảy mọi điều của thế gian, việc gì khổ nhất?”
Giáp Tỳ kheo nói:
- Khổ nhất thiên hạ chính là dâm dục.
Ất Tỳ kheo tiếp lời:
- Thế gian khổ nhất là sân hận.
Bính Tỳ kheo không đồng tình, nói:
- Dâm dục, sân hận cũng không thể so với nỗi thống khổ của đói khát.
Đinh Tỳ kheo lắc đầu nói:
- Những gì các vị nói đều không thể so với cái khổ của sợ hãi được.
Bốn vị Tỳ kheo ai cũng có lý của mình, tranh luận không dứt.
Đức Phật có Tha tâm thông(3), Túc mệnh thông(4), Người quan sát cuộc tranh luận của bốn vị Tỳ kheo, đến thời cơ thích hợp liền đến trước mặt bốn người mà hỏi:
- Chư vị Tỳ kheo đang thảo luận việc gì vậy?
Bốn vị Tỳ kheo sau khi đảnh lễ với Đức Phật liền thưa vấn đề mà họ đang tranh luận. Đức Phật từ tốn:
- Các ông đều không hiểu chân nghĩa căn bản của khổ. Thiên hạ đầy khổ cũng đều vì có sắc thân, có giả thân (假身) mà có đói khát, nóng lạnh, sân hận, kinh hãi, sắc dục, oán họa…
Bởi vậy, giả thân là gốc của khổ, là thủ phạm của tai họa. Còn như cái khổ bên trong thì càng hao tâm khiếp sợ, khổ não càng nhiều, chịu khổ cùng tận, tất thảy đều bởi giả thân mà ra. Còn như không có giả thân thì khổ từ đâu đến? Nếu muốn thoát khổ, phải cầu diệt hẳn, bất sinh bất diệt, vạn duyên tịch tĩnh, thu nạp vọng tâm, không khởi vọng niệm, chánh niệm không ngừng, thanh bạch giữ đạo, ắt có thể đạt đến cảnh giới tịch tĩnh của Niết Bàn. Đây mới chính là niềm vui chân chính vĩ đại nhất.
Sau đó, Đức Phật liền kể cho bốn vị Tỳ kheo nghe một câu chuyện:
Ngày xửa ngày xưa, có một Tỳ kheo “Ngũ thông” (Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mệnh thông, Thần túc thông)(5) tên là Tinh Tấn Lực (精進力) dốc tâm dốc lực cầu đạo giữa rừng sâu núi thẳm. Thuở ấy có bốn loài vật gồm bồ câu, quạ, rắn và nai, ban ngày ra ngoài kiếm ăn, đêm về nương tựa bên vị Tỳ kheo, từng ngày trôi qua bình thản, an yên.
Một đêm nọ, bốn con vật hỏi nhau: “Thế gian khổ nhất là gì?”
Quạ nói:
- Khổ nhất là đói khát. Khi đói khát, tứ chi không còn sức lực, mặt mũi tối sầm, trong lòng rối loạn, tức thì không quản tất thảy đao tên hiểm nguy, lao thân vào cạm bẫy. Bởi vậy, chúng ta đều vì cầu cạnh miếng ăn mà hại đến thân. Cho nên mới nói đói khát khổ nhất là vì vậy.
Bồ câu nói:
- Khổ nhất là dâm dục. Khi lửa dục thiêu đốt cơ thể thì chúng ta không màng gì nữa, dù biết rõ hại thân mất mạng cũng cắm đầu lao vào.
Rắn nói:
- Không gì khổ bằng sân hận. Tâm hận khởi lên thì bất kể thân sơ đều có thể giết người cũng như có thể tự sát.
Nai nói:
- Cũng đâu khổ bằng sợ hãi! Ta sinh sống, đi lại trong rừng núi, lòng thường kinh hãi thợ săn với đám sài lang, hổ báo đến bắt giết. Cứ có gió thổi cỏ lay là hồn xiêu phách lạc.
Lúc ấy, dù là mẹ cha thì cũng chẳng màng quan tâm, chỉ chăm chăm một mình tháo chạy để giữ mạng mình. Vậy nên mới nói khổ nhất là sợ hãi.
Nghe xong, Tỳ kheo Tinh Tấn Lực liền nói:
- Những gì các ngươi nói đều chỉ là cành, là ngọn của vấn đề chứ các ngươi chưa hiểu cái gốc của khổ. Khổ nhất thiên hạ không gì bằng có giả thân. Thân là nguồn cơn của khổ. Có giả thân tất có vô lượng sợ hãi, ưu sầu. Vì vậy, ta xả tục học đạo, cắt đứt phiền não, không tham ái sắc thân, nguyện trừ cái gốc của khổ, đạt đến niềm vui chân chính cõi Niết Bàn. Chân lạc Niết Bàn chính là tiệt diệt vô hình, không sinh không diệt, mãi không khổ hoạn. Đấy mới là đại an lạc thực sự.
Bốn con vật nghe xong, tâm bừng khải ngộ.
Đức Phật nói với bốn vị Tỳ kheo:
- Khi đó, Tỳ kheo Tinh Tấn Lực chính là tiền thân của ta, bốn con vật kia chính là tiền thân của bốn người các ông. Kiếp trước đã nghe qua ý nghĩa thực sự cái gốc của khổ, vậy cớ làm sao hôm nay vẫn còn chấp mê chưa ngộ?
Bốn vị Tỳ kheo nghe xong xấu hổ thầm trách bản thân. Bởi từng có qua nhân duyên này trong quá khứ, hôm nay vẫn u mê, được Đức Phật khai thị, liền đó ở trước Đức Phật mà chứng quả A La Hán.
Ghi chú:
(1) (2) Xem Ghi chú (1), (2) truyện số [12] “Chiếc đèn thiện tâm”
(3) (4) (5) “Lục thông” (六通), sáu phép thần thông của chư Phật và các vị A La Hán, bao gồm: (a) Thần túc thông: Biểu hiện tùy theo ý muốn, thân bay lên trời, lướt trên mặt biển, đi xuyên qua núi, một thân hóa nhiều thân, nhiều thân nhập một thân, chạm tới trăng sao, tùy theo ý muốn, không có chướng ngại; (b) Thiên nhãn thông: Có khả năng nhìn thấy được sự lưu chuyển của chúng sinh trong các cõi giới luân hồi; (c) Thiên nhĩ thông: Nghe và hiểu mọi âm thanh trên thế gian, mọi ngôn ngữ của chúng sinh trong các cõi giới luân hồi; (d) Tha tâm thông: Biết hết mọi ý nghĩ trong lòng của chúng sinh trong lục đạo; (e) Túc mệnh thông: Đức Phật và các vị A La Hán biết được vô lượng kiếp trước của bản thân mình; (f) Lậu tận thông: Hiểu rõ Tứ Diệu Đế là chân lý của pháp giới vũ trụ, cuối cùng giác ngộ, giải thoát viên mãn.