"Cho họ xem”, cô Reba bảo Minnie. Họ đang ngồi trong chiếc ô tô của bọn ta ‐ ta muốn nói của Boon ‐ không, ta muốn nói của ông nội: Everbe, cô Reba, Minnie, Sam và tài xế của Đại tá Linscomb; ông tài xế là cha của McWillie; Đại tá Linscomb cũng có một chiếc ô tô. Họ ‐ ông tài xế với Sam và Minnie ‐ đã lên Hardwick đón cô Reba và Everbe và Boon rồi đưa cả bọn về Parsham, từ đó cô Reba và Minnie với Sam có thể đón xe lửa về Memphis. Nhưng Boon không về với họ. Ông lại vô khám, đây là lần thứ ba, và họ đã ngừng ở nhà Đại tá Linscomb để kể cho ông nội. Cô Reba ngồi trên xe kể cho ông nội, Đại tá Linscomb và ta đang đứng chung quanh xe, vì cô không vào, cô kể về Boon và Butch.
“Lên trên đó bằng ô tô đã đủ mệt. Nhưng ít ra chúng tôi có anh cảnh sát đó, chưa kể ông cảnh sát dân cử già nhỏ bé mà quý vị có, ông ấy chẳng ra dáng gì lắm nhưng tôi thấy người ta cũng không dám dấm dớ với ông ấy. Khi chúng tôi tới Hardwick, ít ra người ta đủ khôn để khóa tụi nó trong hai xà lim riêng. Rắc rối là người ta không có cách để khóa cái miệng thằng bạn mới của Corrie…” rồi ngừng, và ta cũng không muốn phải nhìn Everbe: một cô to lớn, quá lớn để phải chịu những chuyện nhỏ như bầm mắt hay đứt môi, trừ phi có thể cô không, không thể, hài lòng nếu không bị đủ cả hai; ngồi đó, phải ngồi, không có chỗ nào để đi hay chỗ nào để tới, với gò má bầm đau ta có thể nhìn thấy từ chỗ ta đứng. “Xin lỗi cậu nhỏ, quên đi”, cô Reba nói, “Tôi đang nói tới đâu nhỉ?”.
“Cô đang kể chuyện Boon làm lần này”, ông nội nói.
“Ồ phải”, cô Reba nói, “… nhốt tụi nó trong hai xà lim riêng đối diện qua hành lang, rồi họ đưa Corrie và tôi ‐ phải; họ đối xử đàng hoàng với chúng tôi: như các mệnh phụ ‐ xuống phòng của vợ anh cai ngục cho chúng tôi ở, khi đó tên nó là gì nhỉ ‐ Butch ‐ la lối om sòm, ‘Ê, có một chuyện: tao với Đường Phèn trầy da chảy máu rách hai cái áo, nhưng ít ra tụi tao loại được ‐ xin lỗi cho tiếng Pháp của tôi ‐”, cô Reba nói, “mấy con điếm Memphis này ra khỏi phố.’ Thế là Boon lập tức đạp cái cửa sắt đó xuống nhưng họ đã nhớ khóa nó, vì thế quý vị sẽ nghĩ hắn sẽ bình tĩnh lại, theo kiểu, phải ngồi yên một chỗ ngó cánh cửa. Dù sao chúng tôi cũng nghĩ như vậy. Rồi khi Sam đem giấy tờ hay cái gì đó tới ‐ và cảm ơn ông rất nhiều,” cô nói với ông nội, “Tôi không biết ông phải tốn bao nhiêu, nhưng nếu ông gửi hóa đơn cho tôi thì khi về tới nhà tôi sẽ lo liệu. Boon biết địa chỉ và biết tôi”.
“Cảm ơn cô”, ông nội nói, “Nếu có tốn phí nào thì tôi sẽ cho cô biết. Chuyện gì xảy ra cho Boon? Cô chưa kể cho tôi”.
“Ồ phải. Họ thả cái thằng ‐ tên nó là gì nhỉ? ‐ trước. Thật là sai lầm, vì họ chưa kịp rút chìa khóa ra khỏi ổ khóa của Boon thì Boon đã ra khỏi xà lim và tấn công…”
“Butch”, ta nói.
“Butch”, cô Reba nói, “… một cú đấm khá, nốc đo ván nó rồi đè lên thằng đó trước khi người ta tỉnh ra. Vì vậy họ thậm chí không để Boon ngưng, chuyến ra ngục của hắn chỉ là băng qua hành lang rồi trở về xà lim, rồi lại bị nhốt, trước khi họ kịp rút chìa khóa ra khỏi ổ khóa. Nhưng ít ra mình phải nể hắn vì chuyện đó.” Nhưng cô ngừng.
“Vì cái gì?”, ta nói. “Cậu nói gì?”, cô nói.
“Ông ấy làm cái gì để mình nể ổng. Cô chưa kể. Ông ấy làm gì?”
“Cậu nghĩ là vẫn định đập thằng…” “Butch”, ta nói.
“… Butch bể đầu ngay trước khi họ cho mình ra khỏi
tù là không đáng gì hay sao?”, cô Reba nói. “Ông ấy phải thế”, ta nói.
“Ối trời ạ”, cô Reba nói, “Mình phải lên đường, chúng tôi phải đón chuyến xe lửa đó. Ông đừng quên gửi hóa đơn cho tôi”, cô nói với ông nội.
“Xuống xe vào nhà”, Đại tá Linscomb nói, “Bữa ăn tối đã sẵn sàng. Quý vị có thể đón chuyến xe lửa nửa đêm”.
“Cảm ơn, xin kiếu”, cô Reba nói, “Bất kể vợ ông ở lại Monteagle bao lâu, bà ấy sẽ về nhà hôm nào đó rồi ông sẽ phải giải thích”.
“Vớ vẩn”, Đại tá Linscomb nói, “Tôi là sếp trong nhà tôi”.
“Tôi hy vọng ông sẽ còn là sếp”, cô Reba nói. “Ồ phải”, cô nói với Minnie, “Cho họ xem.” Cô ‐ Minnie ‐ không mỉm cười với bọn ta: cô mỉm cười với ta. Đẹp thật: đều đặn, ăn khớp và hoàn hảo, không một vết ố, hàng men sứ cong ra ôm lấy, hầu như với cảm xúc nồng nàn, cái răng vàng đã trở về, nó nom lớn hơn bất kỳ cái nào trong ba cái răng trắng tự nhiên. Rồi cô lại khép môi, thanh thản, điềm tĩnh, một lần nữa được bảo vệ, một lần nữa an toàn, trong chừng mực xương thịt mong manh và ngẫu nhiên có thể gìn giữ hay quả quyết về An toàn. “Nào”, cô Reba nói. Cha của McWillie quay máy rồi lên xe, chiếc ô tô lên đường. Ông nội và Đại tá Linscomb quay vào nhà, ta cũng dợm bước lúc chiếc ô tô bấm một tiếng còi, không lớn, ta quay lại. Xe ngừng, Sam đứng cạnh xe vẫy ta.
“Đến đây”, ông nói, “Cô Reba muốn gặp cháu một lát.” Ông nhìn ta trong lúc ta tiến đến. “Sao cháu với Ned không bảo tôi là con ngựa đó chạy được thật?”, ông hỏi.
“Cháu nghĩ ông biết”, ta nói, “Cháu nghĩ vì lý do đó mình tới đây”.
“Đúng, đúng”, ông nói, “Ned đã bảo tôi. Cháu đã bảo tôi. Mọi người đã bảo tôi. Nhưng tại sao không ai làm cho tôi tin? Ồ phải, tôi chưa bao giờ gặp may. Nhưng nếu tôi gan lì như cô Reba thì có lẽ tôi cũng có thể mua được cả cái toa chở hàng đó. Đây”, ông nói. Ông đưa một cuộn tiền bó chặt, tiền giấy. “Cái này của Ned. Bảo ông ấy lần sau ông ấy biết một con ngựa không chịu chạy thì đừng đợi tới khi gặp tôi: cứ đánh điện tín cho tôi.” Cô Reba nghiêng người ra, nghiêm và đẹp. Everbe ngồi bên kia cô, không cử động nhưng vẫn quá lớn để không thấy. Cô Reba nói:
“Cô không nghĩ cô bị vô tù ở đây. Nhưng có lẽ cô cũng không nghĩ cô sẽ không bị vô tù. Dù sao, Sam đã đánh cược cho cô. Cô đặt năm chục cho ông Binford và năm đô cho Minnie. Sam bắt hai ăn ba. Cô ‐ cô muốn nói bọn cô ‐ muốn chia năm mươi năm mươi với cháu. Bây giờ cô không đủ tiền mặt, chuyến đi bất ngờ của cô sáng nay…”
“Cháu không cần chúng”, ta nói.
“Cô đã nghĩ cháu sẽ nói như vậy”, cô nói, “Vì vậy cô bảo Sam đặt thêm năm đô cho cháu. Cháu có bảy đô rưỡi.
Đây”, cô đưa tay ra.
“Cháu không cần chúng”, ta nói.
“Tôi đã bảo cô rồi phải không?”, Sam nói.
“Có phải vì là cờ bạc hay không?”, cô nói. “Cháu cũng hứa như vậy nữa hả?” Ta không hứa. Có lẽ mẹ chưa nghĩ tới cờ bạc. Nhưng dù sao ta cũng không cần hứa với ai. Nhưng ta không biết cách nào để nói với cô khi chính ta không biết tại sao, chỉ một điều là ta đã không làm vì tiền, món tiền ấy ta không nghĩ tới; vì một khi bọn ta đã nhập cuộc thì ta phải đi tiếp, phải làm xong, cả Ned lẫn ta, ngay cả nếu người khác đã bỏ cuộc; như thể chỉ cần làm cho Sấm Sét chạy và chạy tới mức trước thì bọn ta sẽ biện minh được mọi việc (không trốn tránh hậu quả: chỉ biện minh). Không phải là hy vọng sửa sai lỗi lầm ban đầu ‐ ta muốn nói tới việc Boon và ta đã tính toán, chủ tâm không ai bắt buộc, làm bốn hôm trước ở Jefferson; nhưng ít ra là không tránh né, lẩn tránh ‐ ít ra là hoàn tất ‐ việc bọn ta đã bắt đầu. Nhưng ta không biết cách nói ra. Vì thế ta nói:
“Không thưa cô. Cháu không cần.”
“Cứ cầm lấy”, Sam nói, “Cầm lấy để chúng tôi còn đi. Tụi tôi phải đón xe lửa. Đưa nó cho Ned, hay có lẽ đưa cho ông cụ săn sóc cậu tối hôm qua. Họ sẽ biết dùng nó làm gì.”
Vì thế ta cầm món tiền, bây giờ ta có hai cuộn tiền, cuộn lớn và cuộn nhỏ này. Và Everbe vẫn không nhúc nhích, bất động, bàn tay cô đặt trên đùi, lớn, quá lớn để phải chịu những việc nhỏ. “Ít nhất xoa đầu cô ta”, Sam nói, “Ned không hề dạy cháu đá mấy con chó phải không?”.
“Không đâu”, cô Reba nói, “Coi chừng. Chúa ơi, bọn đàn ông. Còn đây thêm một ông mới mười một tuổi. Thêm một ông nữa thì nhằm nhò quái gì? Chẳng phải cô ấy đã chứng tỏ từ hôm Chủ nhật là cô ấy bỏ nghề sao? Nếu đã cưa cây lâu như cô ấy rồi cưa thêm một khúc nữa thì ăn nhằm quái gì khi đã hủy hợp đồng thuê nhà và thậm chí đã gỡ bảng hiệu xuống?” Vì thế ta đi vòng qua bên kia xe. Cô vẫn không cử động, quá lớn để phải chịu những việc nhỏ, quá lớn để phải nhận những thứ lắt nhắt tầm thường như mấy vết chân chim vấy bẩn trên bảng quảng cáo hay trên cái trống; chỉ ngồi đó, quá lớn để thu nhỏ lại, xấu hổ (vì Ned nói đúng), môi cô hơi sưng nhưng phần lớn là con mắt bầm; với cô, ngay cả một mắt bầm cũng chưa đủ, mà phải thấy lớn hơn, lộ rõ hơn, khó giấu hơn bất kỳ ai khác.
“Ổn thỏa cả rồi”, ta nói.
“Cô đã nghĩ cô phải làm thế”, cô nói, “Cô không biết cách nào khác”.
“Thấy chưa?”, cô Reba nói, “Dễ chưa? Cô chỉ cần nói với chúng tôi; chúng tôi sẽ tin cô. Không có thằng khốn tồi tệ nhất, nhỏ bé nhất nào, miễn là hắn chưa tới bảy chục tuổi, không thể làm một người đàn bà tin rằng không có cách nào khác”.
“Cô bị bắt buộc”, ta nói, “Mình lấy lại được con Sấm Sét kịp lúc để đua. Bây giờ không thành vấn đề nữa. Cô nên đi ngay nếu không sẽ trễ chuyến xe lửa”.
“Ừ”, cô Reba nói, “Vả lại, cô ấy còn phải nấu ăn nữa. Cháu chưa nghe chuyện đó, ngạc nhiên đấy. Cô ấy không về Memphis. Cô ấy không chỉ bỏ nghề cám dỗ: cô ấy còn bỏ luôn cám dỗ, nếu như điều người ta nói là đúng: một chỗ như Parsham không có cám dỗ nào ngoại trừ khao khát và hy vọng tự nhiên của mỗi người. Cô ấy tìm được việc ở Parsham, giặt giũ, nấu nướng và khiêng bà vợ của ông cảnh sát dân cử ra vào cái giường và tắm cho bà ta. Vì thế cô ấy khỏi phải chia nửa số tiền cô ấy làm ra và lại một nửa số cô ấy còn lại với thằng huy hiệu thiếc nào ghé ngang đầu tiên, vì cô ấy bây giờ chỉ phải dọn một ấm cà phê hay một cái chảo dính mỡ. Nào”, cô bảo Sam, “Ngay cả anh cũng không bắt chiếc xe lửa đó đợi được nếu anh đứng ở đây”.
Rồi họ đi khuất. Ta quay lại và đi về hướng nhà. Căn nhà lớn với hàng cột, lối đi lợp mái, khu vườn trang trọng, chuồng ngựa (Sấm Sét trong đó), nhà để xe ngựa và một khu ngày xưa là nhà ở của nô lệ ‐ vùng Parsham xưa cũ (và vẫn cũ), tàn tích đồn điền của một người, gia đình, đã dùng tên của họ để đặt cho thị trấn và đồng quê và cả một số người, như cụ Parsham Hood. Giờ đây mặt trời đã lặn, ngày sẽ sớm tàn theo. Khi ấy, lần đầu tiên ta nhận ra rằng mọi việc đã qua, xong ‐ cả bốn ngày xô đẩy và sục sạo, né tránh, dối trá và lo âu; tất cả đã qua ngoại trừ giá phải trả.
Ông nội với Đại tá Linscomb và ông Van Tosch đang ở đâu đó trong nhà, đang uống rượu trước bữa ăn. Có thể còn nửa tiếng nữa trước khi chuông gọi ăn tối, vì thế ta rẽ qua vườn hồng rồi ra phía sau. Và kìa, Ned đang ngồi trên bậc thang sau nhà.
“Đây”, ta vừa nói vừa đưa cuộn tiền lớn ra. “Sam nói cái này của ông.” Ông cầm lấy. “Ông không đếm à?”, tôi nói.
“Tôi đoán ông ấy đếm rồi”, Ned nói. Tôi rút cuộn nhỏ trong túi ra. Ned nhìn nó. “Ông ấy đưa cậu đấy à?” “Cô Reba đưa. Cô ấy đánh cược cho cháu.”
“Tiền cờ bạc đấy”, Ned nói, “Cậu quá trẻ để dính dáng với tiền cờ bạc. Chẳng ai đủ lớn để có tiền cờ bạc, nhưng cậu chắc chắn chưa đủ.” Và ta cũng không thể nói cho ông. Khi ấy ta hiểu rằng ta đã trông đợi ông, Ned, đã biết mà không cần phải nói. Và trong tích tắc sau ông biết. “Vì mình đâu có làm vì tiền”, ông nói.
“Ông cũng không giữ món tiền của ông à?”
“Có”, ông nói, “Đối với tôi quá muộn rồi. Nhưng chưa quá muộn đối với cậu. Tôi sẽ cho cậu một cơ hội, dù chẳng để làm gì khác ngoài việc lại tước nó khỏi cậu”.
“Sam nói cháu có thể đưa cho cụ Parsham. Nhưng cụ ấy cũng sẽ không lấy tiền cờ bạc phải không?”
“Cậu định làm thế à?”
“Vâng”, ta nói.
“Được”, ông nói. Ông lấy cả cuộn nhỏ và mở ví bỏ cả hai cuộn vào, lúc này trời gần tối mịt, nhưng chắc chắn ở đây ta có thể nghe tiếng chuông ăn tối.
“Làm sao ông lấy lại được cái răng?”, ta nói.
“Không phải tôi”, ông nói, “Lycurgus lấy lại. Vào sáng hôm đầu tiên khi tôi trở lại khách sạn đón cậu. Chẳng khó nhọc gì. Bầy chó săn đã đuổi nó lên cây một lần, Lycurgus nói lúc đầu nó nghĩ chỉ cần dùng chó xua nó lên cây bạch đàn lần nữa và không gọi chó về cho tới khi thằng còi lắm mồm gói cái răng vào mũ nó hay cái gì cũng được rồi thả xuống. Nhưng Lycurgus nói cậu ấy vẫn hơi bực cái cách thằng còi lắm mồm hách dịch nghĩ về loài ngựa, chủ yếu là Sấm Sét. Vì vậy, vì Sấm Sét sẽ phải đua chiều hôm đó và cần nghỉ ngơi, Lycurgus nói cậu ấy quyết định dùng con la.Cậu ấy nói thằng còi lắm mồm rút con dao cũ bỏ túi ra, nhưng Lycurgus tịch thu con dao.” Ông ngưng nói. Ông vẫn có vẻ mệt. Ông vẫn chưa được ngủ. Nhưng có lẽ rốt cuộc gặp thần chết lại khoẻ, cứ để nó định rõ giờ giấc rồi khi ấy bắt đầu lo.
“Sao?”, ta nói, “Rồi sao?”.
“Tôi đã kể cho cậu rồi. Con la lấy lại cái răng.” “Cách nào?”, ta nói.
“Lycurgus đặt thằng còi lắm mồm lên con la không yên cương rồi trói chân nó dưới bụng và bảo nó khi nào nó quyết định gói cái răng vào mũ rồi buông xuống thì cậu ấy sẽ ngưng con la lại. Rồi Lycurgus đánh nhẹ con la một cái, và chừng nửa vòng đầu tiên trên khu đất thằng còi lắm mồm buông cái mũ, nhưng lần đó trong mũ chẳng có gì. Vì vậy Lycurgus đưa mũ lại cho nó rồi đánh cho con la một cái nữa, Lycurgus nói cậu ấy không nhớ con la đó từng nhảy hàng rào cho tới khi nó nhảy qua cái hàng rào kẽm gai một mét hai, Lycurgus nói hình như nó định đưa thằng còi lắm mồm về tận Possum. Nhưng nó chưa bao giờ đi xa, nó quay đầu trở lại và nhảy ngược về khu đất lần nữa, vì vậy lần này thằng còi lắm mồm buông cái mũ có răng trong đó. Nhưng lẽ ra nó cũng có thể giữ cái răng, vì như thế sẽ giúp tôi nhiều việc. Cô ta cũng về lại Memphis hả?”
“Vâng”, ta nói.
“Tôi cũng nghĩ vậy. Hình như cô ta cũng biết, như tôi biết, là còn lâu lắm Memphis mới gặp lại tôi hay Boon Hogganbeck. Và nếu Boon lại xộ khám, tôi cũng không nghĩ tối nay Jefferson, Missippi sẽ gặp lại bọn mình.”
Ta cũng không biết, và ta chợt biết rằng ta không muốn biết; ta không muốn phải lựa chọn, quyết định gì nữa, ta cũng không muốn biết quyết định gì sẽ dành cho ta khi ta phải đối diện với hậu quả. Rồi cha của McWillie trong bộ vét trắng bước ra từ cánh cửa sau lưng bọn ta, ông cũng là quản gia. Nhưng ta không nghe tiếng chuông.
Ta đã tắm (thay cả quần áo nữa, ông nội đã mang một túi hành lý cho ta, và cả một đôi giày khác), vì thế ông quản gia chỉ đường cho ta tới phòng ăn và ta đứng đó; ông nội với ông Van Tosch và Đại tá Linscomb vào, một con chó săn Llewellin già mập đi bên cạnh Đại tá Linscomb, và tất cả bọn ta đứng trong khi Đại tá Linscomb nói lời tạ ơn. Rồi bọn ta ngồi xuống, con chó săn già bên cạnh ghế của Đại tá Linscomb, và ăn, cha McWillie và thêm một bà giúp việc mặc đồng phục hầu bàn. Vì ta đã bỏ cuộc, ta không lựa chọn hay quyết định nữa. Ta gần như thiếp ngủ trên đĩa ăn của mình, gục trên món tráng miệng, lúc ông nội nói:
“Nào, thưa quý vị, tiên chủ hậu khách chứ?”
“Mình vào văn phòng”, Đại tá Linscomb nói. Căn phòng đẹp chưa từng thấy. Ta ước gì ông nội có một phòng như vậy. Đại tá Linscomb cũng là luật sư vì thế có tủ sách luật, nhưng cũng có báo nông nghiệp và ngựa, và một tủ kính đựng cần câu nhiều khúc ráp lại và súng, với mấy cái ghế và bộ ghế dài, tấm thảm dành riêng cho con chó săn già nằm trước lò sưởi, những bức ảnh ngựa và nài ngựa trên tường với vòng hoa hồng và ngày họ thắng giải, tượng Manassas bằng đồng trên lò sưởi (cho tới lúc đó ta không biết Đại tá Linscomb là chủ Manassas), một bàn riêng để cuốn sách lớn là sổ lý lịch ngựa của ông, một bàn khác để hộp xì gà với chai rượu, bình nước, bát đường và ly đã nằm sẵn trên đó, một cửa sổ kiểu Pháp mở ra hành lang phía trên vườn hồng vì thế trong nhà cũng có thể ngửi thấy mùi hoa, và cây kim ngân với con chim nhại đâu đó bên ngoài.
Rồi ông quản gia đưa Ned vào và đặt một cái ghế ở góc lò sưởi cho ông, và họ ‐ chúng ta ‐ ngồi xuống ‐ Đại tá Linscomb mặc bộ vét vải lanh trắng, ông Van Tosch trong bộ y phục người ta mặc ở Chicago (ông sống ở đó tới khi ông đến thăm Memphis rồi thích và mua đất để gây giống và huấn luyện ngựa đua, và thuê Bobo Beauchamp năm hay sáu năm trước), ông nội trong bộ vét đuôi tôm màu xám của quân đội phe miền Nam mà ông đã thừa hưởng (ta muốn nói thừa hưởng không phải bộ áo vét mà là màu xám của quân đội phe miền Nam, vì ông không phải là lính; hồi ở Carolina ông mới mười bốn tuổi, là con duy nhất, vì thế ông phải ở lại với mẹ trong khi bố ông là thượng sĩ của Wade Hampton1 tới khi lính gác của Fitz‐John Porter2 bắn cụ ngã ngựa lúc qua sông Chickahominy sáng hôm sau trận Gaines’s Mill3, ông nội ở với mẹ tới khi bà cố mất năm 1864, và vẫn ở lại Carolina tới khi Tướng Sherman4 cuối cùng loại hẳn ông khi nơi ấy năm 1865, rồi ông đến Mississippi tìm dòng dõi một người họ hàng xa mang tên Mc Caslin ‐ ông và người bà con thậm chí có cùng tên: Lucius Quintus Carothers ‐ và tìm thấy một người chắt gái của cụ tên Sarah Edmonds và cưới bà năm 1869).
1 Wade Hampton III (1818-1902) chỉ huy sư đoàn kỵ binh của Nam quân trong Nội chiến. Sau chiến tranh ông là thống đốc tiểu bang South Carolina và nghị sĩ quốc hội liên bang. (ND)
2 Fitz-John Porter (1822-1901) tham gia cuộc chiến tranh với Mexico và là chỉ huy Quân đoàn V của Bắc quân trong thời Nội chiến. (ND)
3 Trận đánh đẫm máu ở Virginia năm 1862 giữa tướng Robert Lee và Fitz-John Porter khiến hàng chục ngàn người chết và bị thương. (ND)
4 William Tecumseh Sherman (1820-1891) chỉ huy mặt trận phía tây của Bắc quân, nhận sự đầu hàng của Nam quân ở bang Georgia, Carolinas và Florida. Về sau ông là Chỉ huy trưởng quân đội Hoa Kỳ từ 1869 đến 1883. (ND)
“Bây giờ”, ông nội bảo Ned, “Bắt đầu từ đầu”.
“Khoan”, Đại tá Linscom nói. Ông nghiêng người rót rượu vào ly và đưa tới cho Ned. “Đây”, ông nói.
“Cảm ơn ông”, Ned nói. Nhưng ông không uống. Ông để ly trên mặt lò sưởi rồi ngồi xuống. Ông không hề nhìn ông nội và lúc này vẫn không nhìn: ông chỉ đợi.
“Nào”, ông nội nói.
“Uống đi”, Đại tá Linscomb nói, “Anh có thể cần.” Vì thế Ned cầm ly và uống một ngụm hết, rồi ngồi cầm cái ly cạn, vẫn không nhìn ông nội.
“Nào”, ông nội nói, “Bắt đầu…”.
“Khoan”, ông Van Tosch nói, “Làm cách nào anh bảo con ngựa đó chạy?”.
Ned ngồi yên hoàn toàn, cái ly cạn bất động trong tay trong khi chúng tôi vừa nhìn ông vừa đợi. Rồi ông nói, lần đầu tiên nói với ông nội: “Liệu các ông da trắng này có thứ lỗi cho tôi được thưa riêng với ông không?”.
“Chuyện gì?”, ông nội nói.
“Ông sẽ biết”, ông nói, “Nếu ông nghĩ họ cũng nên biết thì ông có thể kể cho họ”.
Ông nội đứng lên. “Các ông thứ lỗi cho chúng tôi nhé?”, ông nói. Ông dợm bước tới cửa ra tiền sảnh.
“Tại sao không ra hiên?”, Đại tá Linscomb nói, “Ngoài đó tối, dù là có âm mưu hay thú tội cũng tốt hơn.” Vì thế bọn ta đi lối đó. Ta muốn nói ta cũng đã đứng lên. Ông nội lại ngập ngừng. Ông nói với Ned:
“Còn Lucius thì sao?”
“Cậu ấy cũng đã dùng nó”, Ned nói, “Mọi người có quyền biết quyền lợi của mình.” Bọn ta đi ra hiên, trong bóng tối, mùi hoa hồng và cây kim ngân, ngoài con chim nhại trên cây gần đấy, bọn ta nghe tiếng hai con chim đớp muỗi và tiếng một con chó đang sủa, như ban đêm ở Mississippi và vì thế Tennessee cũng không khác lắm. “Đó là cá mùn”, Ned nói nhỏ.
“Đừng nói láo với tôi”, ông nội nói, “Ngựa không ăn cá mòi”.
“Con này ăn”, Ned nói, “Ông ở đó ông thấy. Tôi và Lucius đã thử nó trước. Nhưng tôi thậm chí không cần thử nó trước. Khi tôi vừa thấy nó hôm Chủ nhật vừa rồi là tôi biết nó suy nghĩ giống như con la của tôi”.
“À”, ông nội nói, “Ra là anh với Maury đã làm như vậy với con la đó”.
“Không thưa ông”, Ned nói, “Ông Maury cũng chưa hề biết. Không ai biết ngoài tôi và con la đó. Con ngựa này cũng y như vậy. Khi nó chạy vòng cuối chiều nay, nó biết tôi để dành cá mùn cho nó”.
Bọn ta vào lại trong nhà. Họ nhìn bọn ta. “Vâng”, ông nội nói, “Nhưng đây là bí mật gia đình. Tôi sẽ không giữ lại nếu cần phải nói. Nhưng xin quý vị cho tôi làm trọng tài, trong điều kiện đó, được chứ? Dĩ nhiên, Van Tosch muốn biết nó nhất”.
“Trong trường hợp đó, tôi hoặc là phải mua Ned, hoặc là bán cho ông con Coppermine”, ông Van Tosch nói, “Nhưng những việc này có nên đợi tới khi anh chàng Hogganbeck của ông cũng có mặt ở đây chăng?”.
“Ông không biết anh chàng Hogganbeck của tôi”, ông nội nói, “Hắn lái ô tô của tôi tới Memphis. Ngày mai tôi đem hắn ra khỏi tù, hắn sẽ lái về Jefferson. Từ bây giờ tới lúc đó, hắn hiện diện hay vắng mặt cũng chẳng khác gì nhau.” Nhưng lần này ông không phải bảo Ned bắt đầu.
“Bobo dính líu với một ông da trắng”, Ned nói. Lần này ông Van Tosch là người nói Ồ. Và bọn ta bắt đầu vỡ lẽ: nhờ cả Ned lẫn ông Van Tosch. Vì ông Van Tosch là người lạ, người ngoại quốc, chưa sống đủ lâu trong vùng bọn ta để biết một thanh niên da đen nhà quê chưa bao giờ xa nhà định lên thành phố lớn để làm việc kiếm nhiều tiền và vui chơi sẽ dính líu với loại da trắng đê tiện nào. Chắc là cờ bạc, hay khởi đầu bằng cờ bạc; đó là điểm gặp nhau chung dễ nhất của họ. Nhưng lần này còn hơn cờ bạc, ngay cả Ned hình như cũng không biết chính xác là gì ‐ trừ phi Ned có thể biết chính xác, nhưng đó là thế giới của người da trắng. Dù sao, theo Ned, bây giờ quá tệ ‐ số tiền liên can là một trăm hai mươi tám đô la ‐ tệ tới nỗi gã da trắng làm Bobo tin rằng nếu luật pháp dính vào thì ít nhất Bobo sẽ mất việc chỗ ông Van Tosch; thật ra, gã làm Bobo tin là khi không còn một ông da trắng đỡ đầu nữa thì Bobo sẽ gặp rắc rối hơn. Cuối cùng, khủng hoảng, hoàn cảnh tuyệt vọng, và mối đe dọa lớn tới nỗi Bobo đến gặp ông Van Tosch xin một trăm hai mươi tám đô la và nhận được câu trả lời hắn chắc đã trông đợi từ một người vừa là da trắng và ngoại quốc, vừa đã sống ổn định, quá lứa tuổi còn nhớ tới những đam mê và hoàn cảnh khó khăn của một thanh niên, câu trả lời là Không. Đó là chuyện mùa thu năm ngoái…
“Tôi nhớ”, ông Van Tosch nói, “Tôi bảo hắn đừng bao giờ tới chỗ tôi nữa. Tôi nghĩ hắn đã đi rồi.” Hiểu ta nói gì không. Ông ấy ‐ ông Van Tosch ‐ là người tốt. Nhưng ông ấy là người ngoại quốc. Khi đó, Bobo mất niềm hy vọng cuối cùng, niềm hy vọng hắn chưa bao giờ thật sự tin, hắn “xoay xở” như cách hắn nói (Ned cũng không biết xoay cách nào, hay có lẽ ông biết, hay có lẽ cách Bobo “xoay xở” là cách ông sẽ không kể ngay cả với người trong chủng tộc của chính ông và cũng là họ hàng của ông) mười lăm đô la đưa cho gã, để mua hy vọng như ta có thể hy vọng và chính Bobo chắc cũng hy vọng. Nhưng hắn có cách nào khác được, bám chỗ nào khác đây? Nhưng đe dọa và áp lực càng tăng thêm sau khi hắn chứng tỏ có thể xoay ra tiền nếu bị thúc ép mạnh. “Nhưng tại sao hắn không đến tôi?”, ông Van Tosch nói.
“Hắn đã đến”, Ned nói, “Ông bảo hắn là Không.” Họ ngồi yên lặng. “Ông là một ông da trắng”, Ned nhẹ nhàng nói, “Bobo là một đứa da đen”.
“Vậy tại sao nó không đến tôi”, ông nội nói, “Về lại nơi nó lẽ ra không nên rời bỏ thay vì ăn cắp con ngựa?”.
“Ông sẽ làm gì?”, Ned nói, “Nếu hắn từ Memphis về thở hổn hển rồi bảo ông, Đừng hỏi gì tôi: cứ đưa tôi một trăm mấy chục đô la rồi tôi sẽ trở về Memphis, và ngay thứ Bảy sau tôi bắt đầu trả nợ ông?”
“Nó có thể kể cho tôi lý do”, ông nội nói, “Tôi cũng mang họ McCaslin”.
“Ông cũng là một người da trắng”, Ned nói.
“Kể tiếp đi”, ông nội nói. Vì thế Bobo biết rằng mười lăm đô la hắn nghĩ sẽ cứu hắn thật ra lại làm hại hắn. Bây giờ, theo Ned, thằng khốn của Bobo không cho hắn yên. Hay có lẽ gã da trắng bắt đầu sợ Bobo ‐ nhỏ giọt mỗi lần vài đô la sẽ mất quá lâu; hay có lẽ vì Bobo hoảng hốt và tuyệt vọng, cộng thêm gã da trắng hẳn nhiên nghĩ tới bản tính vớ vẩn trong chủng tộc của Bobo, hắn sẽ gây lỗi lầm hay thậm chí phạm tội làm hỏng hết mọi việc. Ôi dào, đây là lúc gã da trắng bắt đầu dụ dỗ Bobo thử một cú ngoạn mục để giũ sạch nợ nần, chủ nợ, lo lắng tuốt luột. Ý đầu tiên của gã là Bobo vơ vét phòng cất dụng cụ chuồng ngựa của ông Van Tosch, chất yên cương và dụng cụ lên xe ngựa hay xe chở hàng hay xe gì cũng được, rồi dông; dĩ nhiên Bobo sẽ bị nghi ngờ lập tức nhưng gã da trắng lúc ấy đã biến mất an toàn; và nếu Bobo dông đủ nhanh, ngay cả hắn cũng nên nhận ra, thì hắn sẽ có cả nước Mỹ để trốn và tìm một việc khác. Nhưng (Ned nói) chính gã da trắng loại bỏ vụ này, vì gã chẳng những sẽ có một cỗ xe ngựa hay xe chở hàng đầy yên cương không buộc trên lưng con ngựa nào lúc trời sáng, mà còn phải cần nhiều ngày mới tống khứ được từng cái, ngay cả nếu gã có ngày giờ để bán.
Vì thế lúc đó họ nghĩ tới con ngựa: để gom chiếc xe ngựa hay xe chở hàng đầy những sợi dây da không dính với nhau thành một khối có thể bán một lần, và khỏi kề cà ‐ nếu gã da trắng bán nhanh và đừng cò kè vài đô la quèn. Gã da trắng, chứ không phải Bobo, tin rằng Bobo sẽ ăn cắp một con ngựa cho gã. Bobo biết nếu hắn không ăn cắp ngựa thì sáng thứ Hai sắp tới hắn có thể cùng đường ‐ mất việc, tự do, tất cả (khủng hoảng lên tới cao điểm hôm thứ Bảy vừa rồi, cùng ngày Boon và ta ‐ và Ned ‐ rời Jefferson trên chiếc ô tô). Và lý do khủng hoảng lên tới mức tuyệt vọng vào đúng lúc này là vì có một con ngựa của ông Van Tosch dễ ăn cắp như thể nó đứng chình ình ra đó chỉ để cho hắn lấy. Dĩ nhiên đó là con Sấm Sét (tôi muốn nói con Coppermine), nó đã được đưa đến chuồng bán ngựa cách đó chưa tới nửa dặm, ở đó họ biết Bobo là người giữ ngựa của ông Van Tosch (chính Bobo đã giao con ngựa tới chuồng bán ngựa) hắn có thể tới lấy con ngựa bất cứ lúc nào, chẳng gặp rắc rối gì ngoài việc móc sợi thòng lọng vào cổ nó rồi dắt đi. Việc đó có thể làm được. Rắc rối là gã da trắng biết nó ‐ một con ngựa nòi được dạy để đua, nhưng không chịu chạy dẫn tới hậu quả là mang tiếng tới nỗi ông Van Tosch và ông Clapp dạy ngựa biết, đưa nó ra chuồng ngựa bán để đợi người đầu tiên tới hỏi mua là bán ngay; hậu quả xa hơn là Bobo có thể tới lấy nó và rất có thể khỏi báo cáo với ông Van Tosch trừ phi ông tình cờ hỏi tới; và hậu quả xa hơn nữa là Bobo có còn tới sáng hôm sau (thứ Hai) để làm gì hay không.
Tình hình như thế khi Ned tạm biệt bọn ta trước cửa nhà cô Reba chiều Chủ nhật và rẽ ở góc đường Beale vào quán rượu lậu đầu tiên ông gặp rồi thấy Bobo đang cố xóa mờ số phận bạc bẽo của mình qua đáy chai rượu. Ông nội nói:
“Hóa ra là thế. Bây giờ tôi bắt đầu hiểu. Một tối thứ Bảy da đen. Bobo đã say, và lưỡi anh dài suốt từ Jefferson tới quán rượu đầu tiên anh gặp…”, và ngưng rồi nói, gần như chộp ngay lấy: “Khoan. Không phải. Hôm đó đâu phải thứ Bảy. Anh tới Memphis chiều tối Chủ nhật”, Ned ngồi đó, rất im lặng, ly rượu cạn trong tay ông. Ông nói:
“Với người của chúng tôi thì tối thứ Bảy kéo qua Chủ nhật.”
“Và qua luôn sáng thứ Hai”, Đại tá Linscomb nói, “Sáng thứ Hai anh thức dậy, khật khừ, còn say, nhếch nhác trong một nhà tù nhếch nhác, nằm đó tới khi một gã da trắng nào đó đến trả tiền phạt cho anh rồi đưa anh thẳng về ruộng bông gòn hay bất kỳ chỗ nào, bảo anh làm việc mà không cho anh kịp ăn sáng. Rồi anh đổ mồ hôi ngoài đó, và có lẽ khi mặt trời lặn anh cảm thấy anh sẽ không chết; rồi hôm sau, và hôm sau nữa, và hôm sau nữa, cho tới thứ Bảy anh sẽ đặt cày cuốc xuống rồi dông nhanh tới cái xà lim hôi hám đó đến sáng thứ Hai. Tại sao các anh làm vậy? Tôi không biết”.
“Ông không thể biết”, Ned nói, “Ông khác màu. Nếu ông có thể làm một gã da đen chỉ một tối thứ Bảy thôi, thì ông sẽ không bao giờ muốn là người da trắng nữa cho tới chết”.
“Thôi được”, ông nội nói, “Kể tiếp đi.” Vì thế Bobo kể cho Ned khó khăn của hắn: con ngựa cách đó chưa tới nửa dặm, gần như chờ bị ăn cắp, gã da trắng biết con ngựa và đã cho Bobo tối hậu thư tính từng giờ ‐ “Được rồi,” ông nội nói, “Bây giờ tới chiếc ô tô của tôi”.
“Mình đã tới chuyện đó”, Ned nói. Họ ‐ ông và Bobo ‐ tới chuồng ngựa để xem con ngựa. “Ngay khi tôi thấy nó, tôi nghĩ tới con la tôi đã có.” Và Bobo, như ta, thật ra còn quá nhỏ để nhớ tới con la; nhưng cũng như ta, anh ta đã lớn lên nghe huyền thoại về nó. “Vì thế chúng tôi quyết định đi gặp gã da trắng để bảo gã có chuyện xảy ra khiến Bobo không thể lấy con ngựa ra khỏi chuồng cho gã như Bobo đã nghĩ, nhưng thay vào đó chúng tôi có thể lấy cho gã chiếc ô tô. À, khoan đã”, ông nói nhanh với ông nội, “Chúng tôi biết rõ như ông là chiếc ô tô đó sẽ an toàn ít ra tới khi chúng tôi xong việc. Có lẽ trong ba mươi hay bốn mươi năm nữa ông có thể đứng trên góc đường ở Jefferson và đếm một tá ô tô trước khi mặt trời lặn, nhưng bây giờ thì chưa. Có lẽ khi ấy ta có thể ăn cắp một chiếc ô tô và tìm được kẻ mua nó mà khỏi lo bị hỏi lung tung là làm sao và ai và tại sao. Nhưng bây giờ thì chưa. Vì thế đối với một gã có vóc dáng như tôi hình dung (tôi chưa hề thấy gã) đi lang bang cố bán cho nhanh và kín đáo một chiếc ô tô thì cũng khó như bán cho nhanh và kín đáo một con voi. Ông tìm ra chỗ chiếc xe và lấy lại nó không khó, một khi ông và ông Van Tosch khởi sự tìm, phải không?”.
“Cứ kể tiếp”, ông nội nói. Ned kể tiếp.
“Khi đó gã da trắng sẽ hỏi chiếc ô tô nào? Bobo sẽ để tôi lo liệu; rồi khi đó gã da trắng có lẽ sẽ hỏi tôi làm gì với nó, khi đó Bobo sẽ bảo gã rằng tôi muốn con ngựa đó vì tôi biết cách làm cho nó chạy; rằng tụi tôi đã dàn xếp một cuộc đua hôm thứ Ba, và nếu gã da trắng muốn thì gã cũng có thể theo và thắng cá ngựa gấp ba hay bốn lần số một trăm mười ba đô la, khi ấy gã thậm chí khỏi phải lo về chiếc ô tô nếu gã không muốn lo. Gã thuộc loại da trắng đủ kinh nghiệm để biết cái gì dễ bán và cái gì sẽ gây rắc rối nếu bị bắt. Vì vậy bọn định làm như thế tới khi các ông đến làm hỏng việc: cứ để gã da trắng đó xem lần đua đầu mà không cá độ thắng hay thua, gã rất có thể làm như thế, và xem con Sấm Sét thua như mọi lần, gã da trắng lúc này chắc cũng đã biết rõ chuyện đó; khi ấy bọn ta sẽ nói Khỏi lo, cứ đợi tới lần đua sau, rồi cá độ con ngựa lấy chiếc ô tô trong lần đua đó mà khỏi cần nhắc lại cho gã là nếu Sấm Sét thua lần này thì gã sẽ làm chủ nó luôn.” Họ ‐ ông nội với Đại tá Linscomb và ông Van Tosch ‐ nhìn Ned. Ta sẽ không cố tả vẻ mặt họ. Ta tả không được. “Rồi các ông đến làm hỏng việc”, Ned nói.
“À ra thế”, ông Van Tosch nói, “Tất cả chỉ là để cứu Bobo. Giả thử anh không làm cho con Coppermine chạy được và thua nó luôn. Khi đó thì Bobo ra sao?”.
“Tôi đã làm nó chạy”, Ned nói, “Ông thấy đấy.”
“Nhưng chỉ giả thử, chỉ để bàn thảo”, ông Van Tosch nói.
“Thì đó là chuyện riêng của Bobo”, Ned nói, “Tôi đâu phải là đứa bảo nó bỏ nghề trồng bông gòn ở Missippi rồi chơi bời cờ bạc ở Memphis để sống”.
“Nhưng tôi nghĩ ông Priest nói hắn là em họ của anh”, ông Van Tosch nói.
“Ai cũng có đứa bà con không biết nghĩ như Bobo”, Ned nói.
“Ừ”, ông Van Tosch nói.
“Mọi người uống một ngụm rượu đã”, Đại tá Linscomb nói nhanh. Ông đứng lên pha rượu rồi chuyền cho họ. “Cả anh nữa”, ông bảo Ned. Ned mang ly của ông tới và Đại tá Linscomb rót. Lần này khi Ned để cái ly chưa nhấp môi trên mặt lò sưởi, không ai nói gì.
“Ừm”, ông Van Tosch nói. Rồi ông nói: “Vâng, Priest, ông đã lấy lại chiếc ô tô của ông. Còn tôi đã lấy lại con ngựa của tôi. Có lẽ tôi đã làm tên côn đồ khốn kiếp đó sợ tránh xa đám nhân viên chuồng ngựa của tôi.” Họ ngồi đó. “Tôi nên làm gì với Bobo?” Họ ngồi đó. “Tôi hỏi anh”, ông Van Tosch nói với Ned.
“Giữ hắn”, Ned nói, “Mấy đứa ‐ thanh niên trai trẻ ấy mà ‐ trong đám dân tôi không dễ thuyết phục…”
“Tại sao chỉ dân da đen?”, ông Van Tosch nói.
“Có lẽ anh ta muốn nói tới dòng họ McCaslin”, Đại tá Linscomb nói.
“Đúng vậy”, Ned nói, “Dòng họ McCaslin và dân da đen đều cư xử như mọi đám tạp nhạp khác, họ làm mọi việc tệ hại hơn. Ngay lúc này tôi đang nói về bọn trẻ, thậm chí đây lại là một đứa McCaslin da đen. Có thể là tụi nó cứng đầu. Dù sao, chính tụi nó phải biết là trò gian xảo chẳng đem lại lợi lộc gì. Có lẽ lần này Bobo học được. Như thế không dễ cho ông hơn là phải dạy một đứa mới hay sao?”.
“Ừ”, ông Van Tosch nói. Họ ngồi đó. “Đúng”, ông Van Tosch lại nói. “Vậy thì hoặc là tôi phải mua Ned, hoặc là bán Coppermine cho ông.” Họ ngồi đó, “Anh làm cho nó chạy lần nữa được không, Ned?”.
“Tôi đã làm cho nó chạy lần đó”, Ned nói.
“Tôi nói chạy lần nữa”, ông Van Tosch nói. Họ ngồi đó. “Priest”, ông Van Tosch nói, “Ông có tin anh ta làm được một lần nữa không?”.
“Tôi tin”, ông nội nói.
“Ông tin bao nhiêu?” Họ ngồi đó.
“Ông đang nói với tôi như nói với chủ ngân hàng hay là gì?”, ông nội nói.
“Cứ coi như là một đồng hương vùng Tây Bắc Mississippi hoàn toàn bình thường và tự nhiên đang đi nghỉ một cách hoàn toàn bình thường và tự nhiên đúng như bản hiến chương nhân quyền đã định và Chúa đã cho giữa chốn sang trọng của miền Tây Nam Tennessee”, Đại tá Linscomb nói.
“Được”, ông Van Tosch nói, “Tôi đánh cá với ông con Coppermine lấy bí mật của Ned bằng một lần đua một dặm. Nếu Ned có thể làm Coppermine thắng con ngựa đen của Linscomb lần nữa thì tôi lấy bí mật, ông lấy con Coppermine. Nếu Coppermine thua thì tôi không cần bí mật của ông, còn ông đưa năm trăm đô la lấy con Coppermine hay không thì tùy ý…”.
“Nghĩa là nếu nó thua thì tôi có thể đưa năm trăm đô la lấy con Coppermine, hay nếu tôi trả ông năm trăm đô la thì tôi không phải lấy nó”, ông nội nói.
“Đúng”, ông Van Tosch nói, “Và để cho ông có cơ hội đặt nước đôi, tôi sẽ đánh cược với ông hai đô la ăn một là Ned không thể làm nó chạy lần nữa.” Họ ngồi đó.
“Vậy là dù có làm gì đi nữa, đằng nào tôi cũng phải hoặc thắng lấy con ngựa đó hoặc là mua nó”, ông nội nói.
“Hay có lẽ ông không có thời trai trẻ”, ông Van Tosch nói, “Nhưng cứ thử nhớ là có. Ông đang ở giữa bạn bè; thử đừng làm ông chủ ngân hàng một lát. Thử đi.” Họ ngồi đó.
“Hai trăm rưỡi”, ông nội nói. “Năm trăm”, ông Van Tosch nói. “Ba trăm rưỡi”, ông nội nói. “Năm trăm”, ông Van Tosch nói.
“Bốn trăm hai mươi lăm”, ông nội nói.
“Năm trăm”, ông Van Tosch nói. “Bốn trăm rưỡi”, ông nội nói.
“Bốn trăm chín mươi lăm”, ông Van Tosch nói.
“Xong”, ông nội nói. “Xong”, ông Van Tosch nói.
Vì thế McWillie ngồi trên con Acheron và ta trên con Sấm Sét (ta muốn nói Coppermine) nhấp nhổm và sành điệu lần thứ tư phía sau sợi dây đay mỏng manh căng thẳng đó. McWillie bây giờ không nói gì với ta, anh sợ hãi và tức giận, lúng túng và kiên quyết, anh biết hôm qua đã xảy ra điều gì đáng lẽ không nên xảy ra, lẽ ra không nên xảy ra cho bất cứ ai, dĩ nhiên là không nên xảy ra cho một cậu mười chín tuổi chỉ cố thắng một cuộc đua ngựa đơn giản theo anh nghĩ: được ăn cả ngã về không, dĩ nhiên, nhưng ít ra phải là một thỏa hiệp giữa đôi bên mà không ai dùng tới bùa phép. Bọn ta không rút thăm vị trí lần này. Họ đề nghị bọn ta ‐ McWillie và ta ‐ chọn chỗ, nhưng Ned nói ngay: “Lần này khỏi cần. McWillie cần cảm thấy thoải mái hơn sau hôm qua, vì vậy bây giờ để nó ưu tiên chọn chỗ nào nó cảm thấy thoải mái hơn.” Vì thế, vì tức giận hay vì tinh thần thượng võ, ta không biết, McWillie từ chối, khiến bọn ta gặp bế tắc không thể giải quyết tới khi trọng tài giải quyết nhanh bằng cách nói:
“Ê, tụi bay, nếu tụi bay định đua thì ra chỗ của tụi bay phía sau sợi dây vải đay.” Ned cũng không đọc câu thần chú mở đầu của ông hay làm nghi thức xoa mõm Sấm Sét. Ta không nói là ông quên; Ned chẳng quên điều gì. Vì thế hiển nhiên ta không nhìn, quan sát kỹ; dù sao, bây giờ đã quá muộn. Lần này ông cũng không chỉ dẫn ta vào phút cuối, nhưng ông có gì để nói? Và tối hôm qua ông Van Tosch và Đại tá Linscomb với ông nội đã đồng ý đây là một cuộc đua riêng, gần như có thể nói là một trận đấu rửa hận, vì thế nên làm mọi cố gắng và hết sức cẩn thận để giữ cho nó riêng tư. Ở Parsham làm chuyện đó dễ như giấu riêng thời tiết ngày mai và giới hạn vào bãi cỏ của Đại tá Linscomb, vì ‐ một cộng đồng gồm có một khách sạn mùa đông và hai cửa tiệm, một bãi quây gia súc và một nhà ga nơi giao lộ xe lửa, mấy nhà thờ và trường học, và mấy căn nhà nông trại rải rác trong một vùng quê hẻo lánh ‐ bất cứ tin tức gì, nói chi tới một cuộc đua ngựa, chưa kể một cuộc đua lặp lại giữa hai con ngựa này, sẽ lan khắp Parsham ngay tức khắc như khí hậu. Vì thế hôm nay họ cũng có mặt ở đây, kể cả ông trọng tài điện tín viên ca đêm lẽ ra nên ngủ: không đông như hôm qua, nhưng đông hơn ông nội và ông Van Tosch tỏ ra muốn có ‐ những cái mũ lem luốc, thuốc lá, những bộ sơ mi không cà vạt và y phục lao động ‐ khi có người hô Xuất phát, sợi dây bật đi và bọn ta chạy.
Bọn ta chạy, McWillie như thường lệ phi hai sải trước khi Sấm Sét hình như biết là bọn ta đã bắt đầu, rồi rút nhanh và ngoan ngoãn tới khi nó gần như có thể kề má dựa vào đầu gối McWillie (nếu nó muốn), tới khúc quanh gần, dải đường đua đằng xa, ta và McWillie bám sát nhau, lúc gần lúc xa như giấc mơ thong thả, chắc khá quen thuộc đối với những người lái máy bay theo đội hình khít khao; tới khúc quanh xa rồi vào đoạn cuối của vòng đầu, theo trí nhớ ta quất Sấm Sét phi tới khoảng một sải trước khi nó nhớ tìm Ned; ta liếc nhanh các khuôn mặt dọc lan can tìm Ned, và Sấm Sét phóng hết đoạn đó không nhìn đường chạy mà lướt tìm Ned giữa những khuôn mặt vút qua, cũng không thấy; lại đến khúc quanh gần, lại đến dải đường đua đằng xa, rồi vào khúc quanh xa, tới đoạn đường đua cuối; ta đã kéo Sấm Sét ra phía lan can bên ngoài (Acheron có thể thắng nhưng ít ra nó không che tầm mắt bọn ta) để nó thấy. Nhưng nếu nó thấy Ned lần này thì nó không cho ta biết. Ta cũng không bảo nó, Nhìn kìa! Nhìn đằng kia kìa! Ông ấy kìa! vì Ned không có ở đó: chỉ có đường đua trống vắng sau sợi dây căng mong manh như ánh trăng mờ khuất, lúc này McWillie ra roi dữ dội và Sấm Sét đáp ứng như mê hoặc, tụt lại phía sau đúng chiều dài một cái cổ; nếu Acheron có thể chạy sáu chục dặm một giờ thì bọn ta cũng có thể ‐ sau một cái cổ; nếu Acheron quyết định dừng lại ba mét trước sợi dây thì bọn ta cũng dừng ‐ sau một cái cổ. Nhưng nó không dừng. Bọn ta tiếp tục, vẫn sánh đôi nhưng hơi chậm lại, như thể gắn chặt vào nhau; sợi dây bật trên đầu, McWillie và ta giờ đây lại mở miệng nói ‐ thật ra chỉ có anh ấy nói, hét ngược về phía ta như hoan hỉ ăn thịt đồng loại: “Yah‐yah‐yah, yah‐yah‐yah”, rồi đi chậm lại nhưng không ngừng, chạy thẳng (ta đoán) về chuồng; anh và Acheron hẳn nhiên xứng đáng. Ta quay đầu Sấm Sét và đi nước kiệu về. Ned chạy lon ton tới bọn ta, ông nội phía sau dù không chạy lon ton; những người nịnh hót và bợ đỡ bọn ta hôm qua đã bỏ bọn ta; Caesar bây giờ không còn là Caesar.
“Nào”, Ned vừa nói vừa nắm lấy hàm thiếc, nhanh nhưng bình tĩnh: chỉ nôn nóng, gần như lơ đễnh. “Đưa…”
“Sao vậy?”, ông nội nói, “Chuyện quỷ gì vậy?”.
“Không”, Ned nói, “Lần này tôi không cho nó cá mùn, nó biết. Chẳng phải tôi đã nói cho ông biết con ngựa này có đầu óc à?” Rồi bảo ta: “Bobo đang đợi đằng kia. Đưa trả con ngựa tồi này cho hắn để hắn đem nó về Memphis. Tối nay mình về nhà”. “Nhưng khoan”, ta nói, “Khoan”.
“Quên con ngựa này đi,” Ned nói, “Mình không muốn có nó. Sếp đã lấy lại chiếc ô tô, ông ấy chỉ mất bốn trăm chín mươi sáu đô la và cũng đáng giá bốn trăm chín mươi sáu đô la để khỏi làm chủ con ngựa này. Vì mình sẽ làm quỷ gì với nó nếu người ta không làm mấy con cá nhỏ hôi rình nữa? Để ông Van Tosch lấy lại nó, có lẽ một ngày nào đó Coppermine sẽ bảo ông ấy và Bobo chuyện gì đã xảy ra hôm qua”.
Nhưng tối ấy bọn ta chưa về nhà. Bọn ta vẫn ở nhà Đại tá Linscomb, lại vào văn phòng, lại sau bữa ăn tối. Boon nom nhừ tử, tả tơi, và khá dịu bớt, nhưng ông đủ điềm tĩnh và bình yên. Và sạch nữa: ông đã cạo râu và mặc một cái áo sạch. Ta muốn nói một cái áo mới chắc ông đã mua ở Hardwick, ngồi trên cái ghế cứng Ned đã ngồi tối hôm qua.
“Không”, ông nói, “Tôi không đánh hắn vì chuyện đó. Tôi thậm chí hết tức giận rồi. Chuyện đó là của cô ta. Vả lại, người ta đâu có thể cắt cái rụp được: người ta phải… phải…”.
“Bớt dần?”, ông nội nói.
“Không thưa ông”, Boon nói, “Không bớt dần. Ông bỏ hẳn, nhưng ông vẫn phải dọn dẹp rác rưởi, bất kể ông xong xuôi gọn gàng thế nào. Không phải chuyện đó. Tôi định bẻ cổ hắn vì đã gọi vợ tôi là con điếm”.
“Anh muốn nói là anh sẽ cưới cô ta?”, ông nội nói. Nhưng không phải ông nội, mà ta là người Boon chộp lấy, gần như nhảy bổ lên.
“Chết tiệt thật”, ông nói, “Nếu cậu có thể tay không đánh nhau với con dao để bênh cô ta thì vì lý do quỷ gì tôi không cưới cô ta được? Bộ tôi không giỏi bằng cậu hả? Dù cho tôi không phải mười một tuổi?”.
Và tất cả chỉ có thế. Khoảng sáu giờ chiều hôm sau bọn ta lên ngọn đồi cuối cùng, đồng hồ tòa án hiện ra trên hàng cây bao quanh quảng trường. Ned nói, “Hi hi hi.” Ông ngồi phía trước với Boon. Ông nói: “Làm như tôi đã đi xa hai năm”.
“Khi Delphine tính toán với anh tối nay thì có lẽ anh sẽ ước gì anh đã đi xa”, ông nội nói.
“Hay có lẽ ước gì đừng bao giờ trở lại”, Ned nói, “Nhưng một người đàn bà, cứ phải lo quét dọn, nấu nướng, giặt giũ và quét bụi suốt ngày, tôi chắc là bà ấy thỉnh thoảng cần một chút hào hứng”.
Rồi bọn ta về tới nơi. Chiếc ô tô ngừng lại. Ta không cử động. Ông nội bước ra, vì thế ta cũng ra. Boon nói, “Ông Ballott có chìa khóa”.
“Không, ông ấy không có”, ông nội nói. Cụ lấy chìa khóa trong túi ra đưa Boon. “Đi nào”, cụ nói. Chúng ta băng qua đường về nhà. Và có biết ta nghĩ gì không? Ta nghĩ Nó thậm chí không thay đổi. Vì đáng lẽ nó nên thay đổi. Nó lẽ ra nên biến đổi, dù chỉ chút ít. Ta muốn nói không phải chính nó nên thay đổi, mà ta, về đây mang theo những gì đã xảy ra trong bốn ngày qua lẽ ra phải làm ta thay đổi, lẽ ra đã biến đổi nó. Ta muốn nói, nếu bốn ngày ấy ‐ dối trá, lừa gạt, mưu mẹo, quả quyết và bất quyết, cùng những gì ta đã làm và thấy và nghe và học, mà bố mẹ sẽ không để ta làm và thấy và nghe và học ‐ những gì ta đã phải học dù chưa sẵn sàng, không có chỗ cất chứa hay thậm chí không có chỗ để đặt chúng xuống; nếu tất cả những thứ đó chẳng làm thay đổi điều gì, vẫn như cũ như thể không hề thay đổi ‐ không nhỏ hơn hay lớn hơn, già dặn hơn hay minh mẫn hơn hay đáng thương hơn ‐ thì thật phí phạm, vứt đi, vô ích; hoặc là đã sai hay lầm lẫn từ đầu và lẽ ra không bao giờ nên có, hoặc là ta đã sai hay lầm lẫn hay yếu đuối hay thậm chí không xứng đáng với nó.
“Nào”, ông nội nói ‐ không dịu hiền, không không dịu hiền, không gì cả; ta nghĩ Phải chi dì Callie bế hay không bế Alexander bước ra và bắt đầu kêu réo mình. Nhưng không có gì cả: chỉ là căn nhà ta đã biết trước khi ta có thể biết căn nhà nào khác, vào lúc sau sáu giờ một chiều tháng Năm, khi người ta đã nghĩ tới bữa ăn tối; và mẹ có ít nhất vài sợi tóc bạc, hôn ta, rồi nhìn ta; rồi bố, người ta luôn luôn hơi… sợ không hẳn đúng nhưng ta không nghĩ được từ nào khác ‐ sợ vì nếu ta không sợ thì ta nghĩ ta sẽ xấu hổ cho cả hai chúng ta. Khi ấy ông nội nói, “Maury”.
“Lần này thì không, thưa Sếp”, bố nói. Rồi bảo ta:
“Mình làm cho xong”.
“Vâng, thưa bố”, ta nói, rồi đi theo ông xuống hành lang tới phòng tắm và ngừng ở cửa chờ ông gỡ sợi dây da mài dao cạo khỏi móc, rồi ta lùi lại để ông có thể bước ra và bọn ta đi tiếp. Mẹ ở trên đầu thang xuống tầng hầm, ta có thể thấy mấy giọt nước mắt, nhưng không hơn, bà chỉ phải nói Thôi hay Làm ơn hay Maury hay có lẽ nếu bà chỉ nói Lucius. Nhưng không nói gì cả, ta theo bố đi xuống, rồi lại ngừng trong khi ông mở cửa tầng hầm và bọn ta đi vào, dưới đó bọn ta cất đóm nhóm lửa cho mùa đông và hộp tráng thiếc đựng đá lạnh cho mùa hè, mẹ với dì Callie có những kệ thức ăn đóng hộp, thạch và mứt, và thậm chí một cái ghế đung đưa cũ cho mẹ hay dì Callie đứng lên cất mấy cái lọ, và cho dì Callie thỉnh thoảng ngủ sau bữa ăn, dù dì luôn luôn nói dì không buồn ngủ. Thế là rốt cuộc bọn ta ở đây, ta đã mất bốn ngày tránh né và sục sạo và nhốn nháo trước khi tới đây; cả bố lẫn ta đều biết là sai. Ta muốn nói nếu rốt cuộc sau những dối trá, lừa gạt, không vâng lời và đồng lõa ta đã làm mà bố chỉ có thể roi vọt ta, đối với ta khi ấy bố chưa đủ hay. Và nếu tất cả những gì ta đã làm chỉ đổi lấy sợi dây da mài dao cạo đó, thì khi ấy cả hai chúng ta đều bị hạ thấp. Thấy chưa? Như vậy là bế tắc, tới khi ông nội gõ cửa. Cánh cửa không khóa, nhưng cụ cố đã dạy ông nội, và ông nội đã dạy bố, và bố đã dạy ta rằng không cánh cửa nào cần khóa: cánh cửa đóng tự nó là đủ cho tới khi ta được mời vào. Nhưng ông nội không đợi mời, lần này.
“Không”, bố nói, “Bố đã làm điều này với con hai mươi năm trước”.
“Có lẽ bây giờ tôi biết suy nghĩ hơn”, ông nội nói, “Bảo Alison đi lên lầu lại và đừng sụt sùi nữa”. Khi ấy bố đi, cánh cửa lại đóng. Ông nội ngồi trên cái ghế đung đưa: không mập, nhưng bụng phệ vừa đủ để làm phồng cái áo gi lê trắng và làm cho sợi dây chuyền vàng đeo đồng hồ nằm đúng chỗ.
“Cháu đã nói dối”, ta nói. “Đến đây”, ông nói.
“Cháu không thể”, ta nói, “Cháu đã nói dối”. “Ông biết”, ông nói.
“Vậy thì ông làm gì đi. Làm gì đi, làm gì cũng được.” “Ông không thể”, ông nói.
“Không có gì để làm sao? Không có tí gì sao?”
“Ông không nói thế”, ông nội nói, “Ông nói ông không thể. Nhưng cháu có thể”.
“Sao?”, ta nói, “Làm sao cháu có thể quên? Bảo cháu cách để quên”.
“Cháu không thể quên”, ông nói, “Không có cái gì bị quên bao giờ. Không có cái gì mất đi bao giờ. Mọi thứ đều rất có giá trị”.
“Vậy thì cháu có thể làm gì?”
“Sống với nó”, ông nội nói.
“Sống với nó? Ý ông là mãi mãi à? Tới hết đời cháu à? Không bao giờ bỏ được nó à? Không bao giờ à? Cháu không thể. Ông nội không thấy cháu không làm được hay sao?”
“Cháu có thể”, ông nói, “Cháu sẽ có thể. Một người lịch lãm luôn luôn có thể. Một người lịch lãm có thể trải qua được mọi thứ. Anh ta đối diện với mọi thứ. Một người lịch lãm nhận trách nhiệm về hành động của mình và chịu hậu quả của nó, ngay cả khi anh ta không chủ mưu mà chỉ đồng lõa, không nói Không, dù anh ta biết anh ta nên nói. Đến đây.” Khi ấy ta khóc nức nở, thảm thiết, đứng (không: quỳ; lúc ấy ta đã cao như thế) giữa hai đầu gối ông, một tay ông trên eo ta, tay kia sau đầu ta giữ mặt tôi sát vào cổ áo cứng và sơ mi của ông, ta ngửi thấy mùi ông ‐ mùi hồ, thuốc cạo râu, thuốc lá nhai, và mùi dầu xăng bà nội hay Delphine dùng để tẩy đốm bẩn trên áo vét ông, và luôn luôn thoang thoảng mùi rượu mà ta tin rằng từ ly rượu pha đầu tiên ông uống mỗi sáng trước khi ra khỏi giường. Khi ta ngủ với ông, điều đầu tiên mỗi sáng là Ned (ông không mặc vét trắng; đôi khi ông không mặc vét hoặc ngay cả cái áo sơ mi, và cả sau khi ông nội cho đưa mấy con ngựa qua bên chuồng ngựa cho thuê, Ned vẫn có mùi như chúng) bưng khay đựng bình rượu, chai nước, bát đường với thìa và cốc vại, ông nội sẽ ngồi dậy trên giường pha rượu rồi uống, rồi bỏ chút đường vào chỗ còn thừa khuấy lên và thêm một chút nước rồi đưa cho ta, tới một hôm bà nội chợt vào và cấm tiệt. “Nào”, cuối cùng ông nói, “Như vậy là đủ cạn thùng nước. Bây giờ đi rửa mặt. Một người lịch lãm cũng khóc, nhưng anh ta luôn luôn rửa mặt”.
Và như vậy là hết chuyện. Chiều thứ Hai, sau giờ học (bố không cho mẹ viết thư xin phép cho ta vì thế ta phải bị điểm vắng mặt. Nhưng cô Rhodes sẽ cho ta học bù) Ned lại ngồi trên bậc thang sau nhà, lần này là thang nhà bà nội, nhưng cũng trong bóng mát. Ta nói:
“Giá mà mình nghĩ tới việc đánh cá món tiền Sam đưa vào con Sấm Sét trong lần đua cuối thì mình đã giải quyết xong xuôi ổn thỏa với nó.”
“Tôi đã giải quyết xong xuôi ổn thỏa với nó”, Ned nói, “Tôi cá ba ăn năm lần này. Cụ Possum Hood bây giờ có hai chục đô la cho nhà thờ của cụ ấy”.
“Nhưng mình thua”, ta nói.
“Cậu và Sấm Sét thua”, Ned nói, “Tôi đặt món tiền đó trên con Akrum”.
“Ồ”, ta nói. Rồi ta nói, “Bao nhiêu vậy?” Ông không cử động. Ta muốn nói là ông không làm gì. Ta muốn nói nom ông không có gì khác, vẫn như thứ Sáu trước chứ không phải thứ Sáu này, cả bốn ngày tránh né, lừa bịp, phải đoán đúng và đoán nhanh, và chỉ được đoán một lần, đã không để lại dấu ấn gì nơi ông, dù ta đã có lần thấy ông vừa không được ngủ vừa không có y phục để mặc. (Thấy chưa, làm sao ta cứ gọi nó là bốn ngày? Đó là từ chiều thứ Bảy khi Boon và ta nghĩ mình rời Jefferson, tới chiều thứ Sáu khi Boon với Ned và ta thấy lại Jefferson. Nhưng đối với ta thì đó là bốn ngày từ tối thứ Bảy ở nhà cô Ballenbaugh, khi đó Boon sẽ quay về nhà hôm sau nếu ta nói như thế, tới thứ Tư khi ta ngồi trên con Sấm Sét nhìn xuống thấy ông nội rồi vượt qua ông, trong suốt thời gian đó một mình Ned mang gánh nặng, ngăn cơn lụt, đắp bờ đê đổ nát bằng bất cứ vật dụng gì ông có thể với tới ‐ kể cả ta ‐ đến khi nó vỡ trong tay ông. Ta muốn nói, giả dụ bọn ta chẳng có việc gì phải đứng sau cái bờ đê đó: một kẻ lịch lãm luôn giữ lấy lời nói láo của mình dù có nói hay không). Và ta mới mười một tuổi, ta không biết làm sao mình biết, nhưng ta biết: rằng ta đừng bao giờ hỏi ai rằng hắn thắng hay thua cờ bạc bao nhiêu. Vì thế ta nói: “Cháu muốn nói là liệu có đủ để trả lại cho Sếp bốn trăm chín mươi sáu đô la không?” Và ông vẫn ngồi yên đó, không thay đổi, vậy thì tại sao mẹ mới có thêm sợi tóc bạc? Vì ta cũng sẽ phải không thay đổi chăng? Vì bây giờ ta biết ông nội nói gì: vỏ bên ngoài của mình chỉ là cái để mình sống trong nó, ngủ trong nó, và có rất ít liên hệ với kẻ là mình và thậm chí còn ít dính dáng hơn tới việc mình làm. Khi ấy ông nói:
“Cậu đã học rất nhiều về bàn dân thiên hạ trong chuyến đi đó, tôi ngạc nhiên khi cậu không học được gì nhiều về tiền. Cậu muốn Sếp sỉ vả tôi, hay cậu muốn tôi sỉ nhục Sếp, hay cậu muốn cả hai?”
“Ông nói thế là sao?”, ta nói.
“Nếu tôi đề nghị trả nợ cờ bạc cho ổng thì có phải là tôi nói vào mặt ổng là ổng không biết đánh cá ngựa hay không? Còn nếu tôi bảo ổng là tiền từ đâu ra để tôi trả thì có phải là tôi xác nhận như vậy hay không?”
“Cháu vẫn không thấy ông bị sỉ vả chỗ nào”, ta nói. “Ổng có thể nhận tiền”, Ned nói.
Rồi cuối cùng đến một ngày. Everbe cho người gọi ta và ta thả bộ qua thị trấn tới căn nhà nhỏ như nhà búp bê ở một phố hẹp mà Boon mua bằng cách trả ông nội năm chục xu mỗi thứ Bảy. Cô có một vú em và đáng lẽ cô nên nằm trên giường. Nhưng cô ngồi dậy, đợi ta, trong bộ áo choàng rộng, thậm chí cô bước qua cái nôi rồi đứng quàng tay lên vai ta trong khi bọn ta nhìn nó.
“Nào?”, cô nói, “Cậu nghĩ sao?”.
Ta chẳng nghĩ gì. Nó chỉ là một em bé, đã xấu xí như Boon dù nó phải đợi hai chục năm nữa mới to xác bằng. Ta nói như thế. “Cô gọi nó là gì?”
“Không phải nó”, cô nói, “Em ấy. Cậu không đoán được hay sao?”.
“Đoán gì?”, ta hỏi.
“Tên em là Lucius Priest Hogganbeck”, cô nói.