NHẬT KÝ CỦA ÉDOUARD (TIẾP)
"2 tháng Mười một - Trò chuyện rất lâu với Douviers, ông từ nhà cha mẹ Laura bước ra cùng với ta và đi với ta ngang qua vườn Luxembourg đến tận Odéon. Ông chuẩn bị làm luận án Tiến sĩ về Wordsworth12, nhưng qua vài lời ông nói với ta, ta cảm thấy rõ rằng ông không nắm bắt được những tính chất đặc biệt nhất của thơ Wordsworth. Giá ông chọn Tennyson13 thì hơn. Ta cảm thấy có cái gì đấy kém cỏi ở Douviers, có cái gì đấy lơ đễnh và khờ khạo. Các sự vật và con người tự cho mình là thế nào, ông luôn luôn tin như thế; có lẽ vì ông là người thế nào thì luôn luôn tự cho mình là người thế ấy.
12 Wordsworth (1770 - 1850): Nhà thơ Anh.
13 Tennyson (1809 - 1892): Nhà thơ Anh.
- Tôi biết ông là người bạn tốt nhất của Laura, - ông đã nói với ta. - Chắc lẽ ra tôi ghen với ông chút ít thì phải. Nhưng tôi không thể. Trái lại, tất cả những gì nàng kể với tôi về ông vừa làm tôi hiểu nàng hơn, vừa khiến tôi ao ước trở thành bạn của ông.
Hôm nọ tôi hỏi nàng là ông có giận tôi quá lắm vì cưới nàng làm vợ không. Nàng đã trả lời là ngược lại ông khuyên nàng nên lấy tôi (ta tin rằng ông nói điều đó với ta cũng nhạt nhẽo). Tôi muốn cảm ơn ông - và mong ông đừng cho là nực cười, vì tôi cảm ơn rất chân thành, - ông nói thêm, cố nở một nụ cười, nhưng bằng một giọng run run và hai mắt đẫm lệ.
Ta chẳng biết nói thế nào với ông, vì ta cảm thấy lẽ ra ta phải xúc động nhiều hơn, và ta hoàn toàn không thể cùng ông chan chứa tâm tình. Chắc ông cho là ta hơi khô khan; nhưng ông làm cho ta bực dọc. Dẫu sao ta cũng đã cố hết sức nồng nhiệt siết chặt bàn tay ông chìa ra cho ta. Những cảnh biểu lộ tâm tình nhiều hơn người ta đòi hỏi như thế này bao giờ cũng nặng nề. Chắc hẳn ông muốn tranh thủ mối thiện cảm của ta. Nếu tinh ý hơn, ông sẽ cảm thấy là mình bị đánh cắp; nhưng ta đã thấy ông hài lòng về cử chỉ của chính mình mà ông tưởng chừng chợt bắt được tia hồi quang trong trái tim ta. Vì ta không nói năng gì, và có lẽ lúng túng vì sự im lặng của ta:
- Tôi trông đợi vào cuộc sống nơi đất lạ của nàng ở Cambridge, - ông lập tức nói thêm, - để nàng khỏi có những so sánh, nó sẽ bất lợi cho tôi.
Ông định nói gì nhỉ? Ta cố gắng không hiểu. Có lẽ ông hy vọng một sự phản đối: nhưng chắc nó chỉ làm cho cả hai người đâm lúng túng hơn. Ông thuộc loại người không chịu đựng được những sự im lặng và tưởng là phải lấp chỗ trống bằng cách tự mình nói trước và nói quá lời; thuộc loại người sau đó bảo bạn: “Tôi vẫn luôn luôn thẳng thắn với ông đấy”. Chà! Tất nhiên điều quan trọng hơn không phải là mình thẳng thắn mà là để cho người khác có thể thẳng thắn. Lẽ ra ông phải biết rằng chính sự thẳng thắn của ông ngăn cản sự thẳng thắn của ta.
Song nếu ta không thể trở thành bạn của ông, thì ít ra ta tin rằng ông sẽ là một người chồng tốt của Laura; vì tóm lại ở đây ta trách là trách những đức tính của ông. Thế rồi ta và ông đã trò chuyện về Cambridge, ta hứa sẽ tới thăm họ ở đấy.
Chẳng cần biết quái gì Laura đã nói chuyện với ông về ta?
Ở người phụ nữ có thiên hướng tận tụy thật là tuyệt vời. Người đàn ông mà nàng yêu, thường chỉ là một thứ mắc áo đối với nàng để treo tình yêu lên đấy. Laura tiến hành thay thế một cách dễ dàng thành thực biết bao! Ta hiểu là nàng lấy Douviers; ta là một trong số những người đầu tiên khuyên nàng như vậy. Nhưng ta có quyền hy vọng một chút âu sầu. Ba hôm nữa sẽ tổ chức đám cưới.
Vài bài báo về quyển sách của ta. Những điểm người ta dễ dàng thừa nhận ở ta nhất lại chính là những điểm ta ghê tởm hơn cả... Ta có lý hay không khi cho tái bản các thứ cổ hủ ấy? Chúng chẳng đáp ứng chút nào nữa với những gì ta ưa thích bây giờ. Nhưng chỉ bây giờ ta mới nhận ra điều đó. Hình như chẳng phải vì chính ta đã thay đổi; mà vì chỉ đến nay ta mới nhận thức được bản thân ta; trước đây, ta không biết ta là ai. Có thể ta luôn luôn cần đến một người khác làm công việc kẻ phát hiện cho ta! Quyển sách ấy đã kết lại theo Laura, và vì thế ta không muốn nhận ra ta ở đấy nữa.
Cái sáng suốt tạo bởi mối thiện cảm chắc sẽ cho phép chúng ta vượt lên trước thời đại, chúng ta lại bị cấm đoán không được biết đến hay sao? Các vấn đề gì sẽ làm băn khoăn những con người của mai sau? Ta muốn viết là viết cho họ. Cung cấp thức ăn cho những điều tò mò muốn biết còn lờ mờ chưa rõ, thỏa mãn những đòi hỏi chưa được xác định sao cho kẻ hôm nay chỉ là một đứa trẻ con, ngày mai ngạc nhiên gặp ta trên đường đi.
Sao ta thích cảm thấy ở Olivier bao nỗi tò mò, bao điều day dứt không hài lòng với quá khứ...
Đôi khi ta tưởng chừng anh chỉ quan tâm đến thơ ca mà thôi. Và qua thơ của anh, ta cảm thấy các thi sĩ của chúng ta thật hiếm có những người để cho ý thức nghệ thuật hơn là để cho trái tim hoặc khối óc dẫn dắt. Điều kỳ cục là khi Oscar Molinier đưa ta xem những vần thơ của Olivier, ta đã khuyên Olivier nên tìm cách để cho các từ ngữ dẫn dắt hơn là bắt chúng phải phục tùng. Và bây giờ ta thấy hình như chính anh gián tiếp cho ta biết điều ấy.
Tất cả những gì ta đã viết trước đây sao mà hôm nay ta thấy có vẻ hợp lý một cách buồn tẻ, chán ngán và nực cười đến thế!”
“5 tháng Mười một - Cuộc hành lễ diễn ra. Trong ngôi nhà thờ nhỏ ở phố Madame đã lâu ta chưa trở lại. Gia đình Vedel-Azaïs đầy đủ cả: ông, cha và mẹ của Laura, hai chị em gái và cậu em trai của nàng, thêm một số đông ông chú, bà cô và anh em họ. Đại diện cho gia đình Douviers là ba bà cô mặc đại tang, mà đạo Thiên Chúa đã biến thành ba tu sĩ, ba bà sống với nhau, theo như ta nghe nói, và cả Douviers cũng sống cùng từ khi cha mẹ ông qua đời. Ở giảng đàn là các học sinh của trường nội trú. Các bè bạn khác của gia đình ngồi kín nốt gian phòng, còn ta thì ở tận cuối; không xa chỗ ta, ta nhìn thấy bà chị của ta và Olivier; Georges chắc là ngồi trên bục với các bạn cùng lứa tuổi. Cụ ông La Pérouse ở chỗ đàn acmonium; khuôn mặt già nua của cụ đẹp hơn, thanh cao hơn bao giờ hết, nhưng con mắt không còn cái ánh lửa tuyệt vời từng truyền cho ta nhiệt tình thời cụ dạy đàn dương cầm. Ánh mắt hai người gặp nhau và ta cảm thấy trong nụ cười cụ mỉm với ta bao nỗi buồn khiến ta quyết định sẽ tìm gặp cụ lúc ở nhà thờ đi ra. Người ngồi xê đi dịch lại tạo thành một chỗ trống gần Pauline, Olivier liền ra hiệu ngay cho ta và đẩy mẹ lui ra để ta có thể ngồi cạnh anh, rồi cầm tay ta và nắm rất lâu trong tay anh. Đấy là lần đầu tiên anh xử sự thân mật với ta như vậy. Anh đã nhắm mắt hầu như suốt thời gian bài phát biểu dài lê thê của mục sư, nên ta có thể ngắm anh rất lâu; anh giống như gã mục đồng đang ngủ của bức phù điêu ở Viện Bảo tàng Naples mà ta có bức ảnh chụp trên bàn giấy của mình. Ta tưởng chính anh đang ngủ thật nếu không có cái run run của mấy ngón tay anh; bàn tay anh phập phồng như con chim trong bàn tay ta.
Vị mục sư già tưởng là phải thuật lại lịch sử toàn gia đình, bắt đầu từ lịch sử của ông nội Azaïs là bạn học của mục sư ở Strasbourg hồi trước chiến tranh, sau lại cùng học với nhau ở khoa Thần học. Ta tưởng chừng ngài sẽ chẳng bao giờ nói hết được một câu phức tạp để cố giải thích rằng trong khi điều khiển một trường nội trú và hết lòng tận tụy với việc giáo dục các trẻ nhỏ, có thể nói ông bạn của ngài vẫn không rời bỏ chức mục sư. Rồi đến lượt thế hệ khác. Ngài cũng nói điều hay lẽ phải về gia đình Douviers mà xem ra ngài chẳng biết gì nhiều. Những tình cảm ưu ái của ngài che mờ đi các nhược điểm nói năng không được hùng hồn và trong đám cử tọa có tiếng nhiều người sụt sịt. Ta rất muốn biết Olivier nghĩ gì; ta cho rằng được nuôi dạy thành tín đồ đạo Cơ Đốc, buổi lễ Tin Lành hẳn là mới mẻ với anh và chắc đây là lần đầu tiên anh tới giáo đường này. Năng lực phi cá tính hóa đặc biệt của ta cho phép ta cảm nhận xúc động của người khác như của mình, hầu như buộc ta rung động theo với những xúc cảm của Olivier, những xúc cảm mà ta hình dung chắc là anh phải có; và tuy anh nhắm nghiền đôi mắt, hoặc có thể chính vì lẽ đó mà ta tưởng như nhìn thấy, lần đầu tiên và từ chỗ của anh, các bức tường trơ trụi kia, cái ánh sáng nhợt nhạt, thật thật hư hư trùm lên cử tọa, cái giảng đài nổi bật nhức nhối trên nền tường trắng phía trong, các đường nét thẳng băng, các cây cột cứng nhắc đỡ lấy giảng đàn, ngay cả tinh thần của lối kiến trúc góc cạnh và bạc màu mà lần đầu tiên ta nhận thấy vẻ vô duyên dễ sợ, tính chất ương ngạnh và bủn xỉn. Chắc là ta đã quen thuộc từ hồi thơ ấu, nên mới không cảm nhận được sớm hơn... Ta bỗng nhớ lại ngày ta bừng tỉnh đức tin và những mối nhiệt thành đầu tiên của ta; nhớ tới Laura và trường học Chủ nhật nơi hai đứa gặp lại nhau, cả hai đều kèm phụ đạo, đầy lòng sốt sắng, và với sự nồng nhiệt nó thiêu hủy tất cả những gì là uế tạp, hai đứa chẳng phân biệt được cái gì là của đứa kia và cái gì quy về Thượng đế. Và ta bỗng nao nao buồn bực về nỗi Olivier đã không biết đến trạng thái ban đầu không gợn mùi tục lụy nói trên, nó ném tâm hồn lên cao vời vợi xa với thực thể một cách hết sức nguy hiểm, về nỗi anh không có những kỷ niệm giống như kỷ niệm của ta; nhưng cảm thấy anh xa lạ với tất cả những cái này cũng là giúp cho bản thân ta thoát ra được. Ta sôi nổi siết chặt bàn tay anh vẫn đang bỏ mặc trong tay ta, nhưng lúc ấy bỗng rụt ngay lại. Anh mở mắt nhìn ta, rồi với một nụ cười nghịch ngợm hết sức trẻ con được vẻ trang nghiêm khác thường của vầng trán làm dịu bớt đi, anh cúi về phía ta thì thầm trong khi vị mục sư đang nhắc nhở những bổn phận của tất cả các tín đồ Thiên Chúa giáo, không tiếc lời khuyên bảo, giáo huấn, kêu gọi những cặp vợ chồng mới cưới.
- Cháu, cháu cóc cần; cháu theo đạo Cơ Đốc.
Cái gì ở anh cũng hấp dẫn ta và bí ẩn đối với ta.
Ở cửa kho đồ thờ, ta đã gặp lại cụ La Pérouse. Cụ nói với ta vẻ buồn buồn, nhưng giọng chẳng có gì trách móc:
- Ông quên tôi chút ít rồi thì phải.
Viện lý do bận những công việc gì chẳng biết nữa để xin lỗi đã quá lâu không đến thăm cụ; hứa ngày kia sẽ tới thăm. Ta đã tìm cách kéo cụ đến nhà Azaïs, ta được mời tới đó uống trà sau khi hành lễ xong; nhưng cụ bảo là cảm thấy tâm trạng quá nặng nề và sợ gặp quá nhiều người cụ cần phải trò chuyện nhưng lại không thể chuyện trò được.
Pauline đã dẫn Georges đi; để ta ở lại với Olivier:
- Tôi giao cháu cho cậu đấy, - bà vừa cười vừa nói với ta; điều đó có vẻ làm cho Olivier hơi mếch lòng, anh quay mặt đi. Anh kéo ta ra ngoài phố:
- Cháu không biết là ông quen thân gia đình Azaïs đến thế?
Ta làm cho anh hết sức ngạc nhiên khi bảo rằng ta đã ở trọ tại nhà họ trong hai năm.
- Sao ông lại thích nơi ấy hơn là bất cứ cách thu xếp cuộc sống độc lập nào khác?
- Cậu thấy ở đó cũng có ít nhiều thuận tiện, - ta mơ hồ trả lời, không thể nói cho anh biết là vào thời gian ấy Laura xâm chiếm đầu óc ta, và ta sẵn sàng chấp nhận những chế độ ăn ở tồi tệ nhất để có được niềm vui là cùng được chịu đựng bên nàng.
- Mà ông không ngột ngạt trong không khí của cái hộp ấy ư? Rồi thấy ta chẳng trả lời gì cả:
- Vả chăng, cháu cũng chẳng rõ tại sao chính cháu cũng chịu đựng được nó, và đầu đuôi thế nào mà cháu lại ở đấy... Nhưng chỉ là bán nội trú thôi... Thế cũng đã quá lắm rồi.
Ta phải giải thích cho anh về tình bằng hữu giữa ông của anh với ông giám đốc của “cái hộp”, và về sau vì nhớ đến cụ mà mẹ anh lại quyết định lựa chọn.
- Vả chăng, - anh nói thêm, - cháu thiếu các tiêu chuẩn để so sánh; và chắc hẳn tất cả các lò hầm hập ấy đều như nhau; thậm chí cháu sẵn lòng tin lời người ta nói với cháu là phần lớn những nơi khác còn tệ hơn. Dẫu sao, cháu vẫn sẽ hài lòng được đi khỏi nơi ấy. Nếu không vì phải gỡ lại thời gian bị ốm, chắc là cháu đã chẳng đời nào vào đó. Và từ lâu cháu chỉ quay lại ký túc xá vì tình bạn với Armand mà thôi.
Lúc đó ta mới biết cậu em trai của Laura là bạn học của anh. Ta bảo với Olivier rằng hầu như ta chẳng biết gì về cậu ta cả.
- Thế mà nó là đứa thông minh nhất và đáng quan tâm nhất của gia đình đấy.
- Nghĩa là đứa mà cháu quan tâm đến hơn cả.
- Không, không; cháu bảo đảm với ông nó lạ lùng lắm cơ. Nếu ông muốn, chúng ta sẽ tới phòng trò chuyện với nó một chút. Cháu hy vọng là nó sẽ dám nói năng trước mặt ông.
Hai người đã đến trước ký túc xá.
Gia đình Vedel-Azaïs đã thay thế bữa cỗ cưới truyền thống bằng một tiệc trà ít tốn kém. Phòng tiếp tân và phòng làm việc của mục sư Vedel mở rộng cửa để đón đông đảo khách mời. Chỉ dăm ba người thân thiết mới vào trong phòng khách riêng nhỏ bé của bà mục sư; nhưng để tránh khách kéo vào đông quá, người ta đã bít cửa thông giữa phòng tiếp tân và phòng khách riêng kia, khiến Armand trả lời những ai hỏi đi lối nào để vào gặp mẹ anh:
- Qua lối ống khói.
Khách khứa đông nghịt. Nóng chết cả người. Trừ vài “thành viên trong giáo giới”, bạn đồng nghiệp của Douviers, khách khứa hầu hết đều theo đạo Tin Lành. Mùi Thanh giáo rất đặc biệt. Mùi xông lên cũng nặng và có lẽ còn nồng nặc hơn trong các cuộc hội họp của tín đồ đạo Cơ Đốc hoặc của dân Do Thái, khi họ xen vào; nhưng người ta hay gặp những tín đồ Cơ Đốc giáo tự khoe mình, những dân Do Thái tự chê mình, còn các tín đồ đạo Tin Lành ta thấy hình như rất hiếm có khả năng khen chê như thế. Nếu dân Do Thái có mũi quá dài thì các tín đồ đạo Tin Lành có mũi bịt lại; đó là một sự thực. Và bản thân ta không hề nhận thấy tính chất đặc biệt của bầu không khí đó suốt thời gian ta còn ngụp lặn bên trong. Ta thấy có cái gì cao xa, vời vợi và ngớ ngẩn khó tả nên lời.
Ở cuối phòng, một cái bàn dùng để bày đồ ăn thức uống; Rachel, chị cả của Laura và Sarah, cô em gái út, được vài thiếu nữ đến tuổi lấy chồng và là chỗ bạn bè giúp đỡ, rót trà mời khách...
Vừa nhìn thấy ta, Laura kéo ta vào phòng làm việc của cha nàng, nơi có cả một hội nghị tôn giáo đang họp. Đứng nấp bên một khuôn cửa sổ, hai đứa có thể trò chuyện chẳng sợ bị ai nghe thấy. Trên bậu cửa, xưa kia hai đứa đã khắc tên vào.
- Ông lại đây mà coi này. Tên vẫn còn nguyên, - nàng bảo ta. - Em tin là chẳng có ai để ý. Hồi ấy, ông bao nhiêu tuổi nhỉ?
Phía dưới những dòng tên, hai đứa đã ghi ngày tháng. Ta tính:
- Hai mươi tám tuổi.
- Còn em mười sáu. Cách đây đã mười năm rồi.
Chọn lúc này để khơi lại những kỷ niệm ấy chẳng hợp chút nào; ta cố gắng lái cuộc trò chuyện sang hướng khác, còn nàng thì lại cứ bồn chồn kéo ta trở lại cho bằng được; rồi như sợ mềm lòng, nàng đột ngột hỏi ta có còn nhớ Strouvilhou không?
Strouvilhou là một học sinh tự do làm phiền nhiễu cha mẹ Laura rất nhiều vào thời ấy. Hắn coi như có theo các giáo trình, nhưng khi người ta hỏi hắn: các giáo trình nào hoặc hắn chuẩn bị các kỳ thi nào, hắn trả lời hờ hững:
- Tôi chưa dứt khoát.
Trong thời gian đầu, người ta vờ xem những lời lẽ hỗn láo của hắn là chuyện đùa cợt, như để làm cho cùn bớt đi, và chính hắn khi hỗn láo cũng phá lên cười hô hố; nhưng cái cười ấy chẳng mấy chốc trở thành cay độc hơn, trong khi những lời lẽ của hắn ngày càng hung hăng hơn, và ta chẳng hiểu tại sao mục sư lại chịu đựng và đã chịu đựng ra sao một gã học trò nội trú như thế, nếu không phải vì lý do tài chính, và bởi lẽ cụ duy trì một thứ tình cảm trìu mến pha lẫn thương hại đối với Strouvilhou, và có thể là niềm hy vọng mơ hồ sẽ thuyết phục được hắn, ta muốn nói: cải hóa được hắn. Và ta cũng chẳng hiểu gì hơn tại sao Strouvilhou tiếp tục ở tại trường nội trú, khi mà hắn rất có thể đi nơi khác; vì hắn có vẻ không bị níu lại bởi lý do tình cảm như ta; nhưng rất có thể bởi hắn rõ ràng thích thú trong cuộc đối chọi với vị mục sư tội nghiệp chống đỡ tồi và luôn luôn để cho hắn giành phần thắng.
- Hẳn là ông nhớ hôm hắn hỏi ba em là khi giảng đạo ba có mặc áo vét tông bên trong áo chùng hay không?
- Nhớ chứ! Hắn hỏi điều đó rất từ tốn đến nỗi người cha tội nghiệp của em chẳng thấy có gì là ranh ma quỷ quyệt. - Lúc đó đang ở bàn ăn; tôi hình dung lại tất cả rõ đến nỗi...
- Và ba em đã ngây thơ trả lời hắn rằng áo chùng không được dày dặn lắm và ba sợ bị cảm lạnh nếu chẳng có áo vét tông.
- Và lúc bấy giờ Strouvilhou có vẻ mới ngao ngán làm sao! Mà phải gặng hỏi mãi cuối cùng hắn mới khai ra rằng “điều này rõ ràng chẳng có gì quan trọng lắm”, nhưng khi cha em vung mạnh tay, các tay áo vét tông lại thò ra ngoài áo chùng, gây tác động tai hại đối với một số tín đồ.
- Sau sự việc này, người cha tội nghiệp ấy cứ áp sát hai tay vào người trong suốt cả bài thuyết giáo nên chẳng còn tác động hùng hồn gì nữa.
- Và đến Chủ nhật sau, ông về nhà bị sổ mũi nặng vì đã cởi bỏ áo vét tông ra. Ôi! Và cuộc bàn cãi về cây vả không đơm hoa kết trái trong sách Phúc âm và những cây không mang quả... “Tôi, tôi không phải là một cây mang quả. Bóng râm, tôi mang bóng râm, thưa ngài mục sư; tôi phủ bóng râm lên người ngài.”
- Câu đó cũng nói ở bàn ăn.
- Tất nhiên; người ta chỉ thấy mặt hắn trong các bữa ăn mà thôi.
- Và được nói ra bằng một giọng hết sức cà khịa. Chính lúc đó ông em đã tống hắn ra cửa. Ông nhớ là ông em thường vẫn cứ chúi mũi vào đĩa ăn, thế mà bỗng đứng bật ngay dậy như thế nào và dang thẳng cánh tay: “Cút đi!”
- Cụ có vẻ ghê gớm, dễ sợ; cụ tức tối. Tôi cho rằng Strouvilhou hoảng sợ thật sự chứ chẳng bỡn.
- Hắn đã quẳng chiếc khăn ăn lên bàn và chuồn mất. Hắn đã bỏ đi mà chẳng thanh toán tiền nong gì cả; và từ đó hắn không bao giờ trở lại nữa.
- Chẳng biết bây giờ hắn ra sao?
- Tội nghiệp ông em, - Laura nói tiếp, giọng hơi buồn, - hôm ấy sao em thấy ông oai vệ thế. Ông em quý ông lắm, ông biết đấy. Ông lên phòng làm việc gặp ông em một lát thì phải. Em tin là ông sẽ làm ông em rất vui.
Ta lập tức ghi ngay tất cả những lời trên, vì cảm thấy nếu để chậm sẽ hết sức khó khăn tìm lại được trúng âm điệu của cuộc chuyện trò. Nhưng từ lúc ấy ta bắt đầu lắng nghe Laura một cách lơ đãng hơn. Ta vừa thoáng nhìn thấy Olivier, tuy ở khá xa, đúng thế, mà ta không thấy đâu từ lúc Laura kéo ta vào phòng làm việc của cha nàng. Anh có đôi mắt long lanh và nét mặt linh lợi một cách lạ thường. Về sau ta biết Sarah đã đùa nghịch ép anh uống liên tiếp sáu cốc sâm banh. Armand cùng đi với anh, và cả hai len lỏi từ nhóm này sang nhóm khác, đuổi theo Sarah và một cô gái người Anh trạc tuổi Sarah, học sinh nội trú tại nhà Azaïs từ hơn một năm nay. Cuối cùng, Sarah và cô bạn bỏ ra ngoài phòng, và ta nhìn qua cửa ngỏ, thấy hai chàng trai lao theo ở cầu thang. Đến lượt ta không cưỡng lại được mệnh lệnh của Laura, cũng sắp đi ra, nhưng nàng hất tay bảo:
- Này, ông Édouard, em còn muốn nói với ông nữa... - và giọng nàng bỗng trở nên nghiêm nghị, - có lẽ còn lâu chúng ta mới gặp lại nhau. Em muốn ông nhắc lại với em... Em muốn biết liệu còn có thể trông cậy vào ông... như chỗ bạn bè không?
Chưa bao giờ ta muốn ôm hôn nàng hơn lúc bấy giờ; nhưng ta chỉ hạn chế hôn bàn tay nàng âu yếm, sôi nổi, và thì thầm:
- Dù sự thể xảy ra thế nào đi nữa - và để giấu không cho nàng nhìn thấy những giọt nước mắt ta cảm thấy đang ứa ra, ta vội vàng bỏ đi tìm Olivier.
Anh ngồi cạnh Armand trên một bậc cầu thang, rình lúc ta đi ra. Chắc chắn là anh hơi chếnh choáng. Anh đứng lên, kéo cánh tay ta.
- Ông lại đây, - anh bảo. - Ta vào phòng Sarah hút một điếu thuốc. Cô nàng đợi chúng ta đấy.
- Để lát nữa. Trước hết cậu phải đến gặp cụ Azaïs đã. Nhưng cậu sẽ chẳng bao giờ tìm ra được phòng.
- Ủa, ông biết rõ quá đi chứ; căn phòng cũ của Laura đấy mà, - Armand thốt lên. Vì đó là một trong những căn phòng tốt nhất của ngôi nhà nên người ta đã bố trí cho cô học sinh nội trú ở, nhưng bởi lẽ không có đủ tiền trả, nên cô ở chung với Sarah. Người ta đã chiếu lệ kê hai cái giường; song khá là vô ích...
- Ông đừng nghe nó, - Olivier nói, vừa cười vừa xô đẩy bạn, - nó say đấy.
- Tớ khuyên cậu nói đi, - Armand đáp lại. - Thế ông đến chứ? Bọn cháu đợi ông.
Ta hứa là sẽ đến với chúng.
Từ ngày húi cua, cụ Azaïs chẳng còn giống Whitman14 chút nào nữa. Cụ đã để lại cho gia đình ông con rể lầu một và lầu hai của tòa nhà. Từ cửa sổ phòng làm việc của cụ trên cao (gỗ gụ, vải sọc gân và vải giả da), cụ nhìn bao quát mảnh sân và theo dõi các học sinh ra ra vào vào.
14 Whitman (1819 - 1892): Nhà thơ Mỹ.
- Ông xem người ta làm hư tôi biết mấy, - cụ vừa nói vừa chỉ cho ta thấy bó hoa cúc to tướng mà một bà mẹ học sinh, bà bạn cũ của gia đình vừa để lại trên bàn. Không khí trong phòng khắc khổ đến nỗi tưởng chừng ở đây hoa sẽ héo ngay. - Tôi đã bỏ mặc khách khứa đấy một lúc. Tôi làm ra vẻ già nua và mệt vì tiếng chuyện trò râm ran. Nhưng những đóa hoa này sẽ làm bạn với tôi. Chúng có cách nói năng của chúng và biết kể về niềm vinh quang của đức Chúa Trời hay hơn con người (hoặc cái gì đấy thuộc cùng một giuộc).
Con người đáng kính không hình dung được là cụ có thể làm cho học trò chán ngấy ra sao bằng các lời lẽ như thế; các lời lẽ ở cụ thành thực đến nỗi chúng làm cho sự mỉa mai phải nản lòng. Các tâm hồn giản dị như tâm hồn cụ Azaïs chắc chắn là những tâm hồn khó hiểu với ta nhất. Khi bản thân người ta ít giản dị hơn một chút, thì người ta buộc lòng phải đóng kịch trước những tâm hồn kia; kém trung thực đấy; nhưng biết làm thế nào? Người ta không thể tranh luận làm cho ra nhẽ được. Người ta buộc lòng phải đồng ý. Azaïs buộc mọi người chung quanh ai không tin theo cụ đều phải đạo đức giả. Thời gian mới bắt đầu năng lui tới gia đình, ta phẫn nộ thấy các cháu cụ nói dối cụ. Nhưng rồi ta đã phải vào khuôn phép.
Mục sư Prosper Vedel quá bận; bà Vedel hơi lẩn thẩn, đắm chìm trong mộng tưởng thơ ca - tôn giáo, mất hết ý thức về thực tại; chính là ông cụ đã đảm nhiệm việc giáo dục và cả dạy bảo cho bọn trẻ. Thời gian ta ở đấy, mỗi tháng một lần, ta được dự buổi giảng giải hết sức sôi nổi kết thúc bằng những lời dạt dào thống thiết:
- Từ nay trở đi, người ta sẽ nói hết với nhau. Chúng ta bước vào một kỷ nguyên mới thẳng thắn và thực thà. - (Cụ ưng dùng nhiều từ ngữ để nói lên cùng một ý - thói quen cũ còn rơi rớt lại từ thời cụ làm mục sư). - Người ta sẽ không giữ những ẩn ý, những ý nghĩ xấu xa ở trong đầu. Người ta sắp có thể nhìn thẳng vào mặt nhau, và mắt nhìn trong mắt. Phải thế không? Thỏa thuận rồi nhá.
Sau đó, mọi người dấn sâu thêm một chút, cụ vào sự khờ khạo, còn bọn trẻ vào sự dối trá.
Những lời nói đó đặc biệt hướng về một người em trai của Laura, kém nàng một tuổi, nhựa sống bứt rứt và ngứa ngáy yêu đương. (Anh đã đi sang buôn bán ở các thuộc địa và ta không gặp anh nữa). Vào một buổi tối, ông cụ lại nói câu ấy lần nữa, ta đến gặp lại cụ trong phòng làm việc; ta cố làm cho cụ hiểu rằng sự thành thật mà cụ đòi hỏi ở đứa cháu là không thể có được vì ngay tính cố chấp của cụ. Azaïs hầu như nổi nóng liền:
- Nó chỉ việc đừng làm những gì mà khi thú nhận nó phải hổ thẹn, - cụ thét lên, giọng không chấp nhận cho cãi lại.
Thế nhưng đó là một con người tuyệt vời; thậm chí còn hơn thế: một điển hình đạo đức và như người ta nói: một trái tim vàng; song các nhận định của cụ thì trẻ con lắm. Cụ hết lòng quý mến ta là do thấy ta không có nhân tình nhân ngãi. Cụ chẳng giấu giếm là đã mong ta kết hôn với Laura; cụ không tin Douviers là anh chồng hợp với nàng và nhiều lần nhắc lại với ta: “Tôi lấy làm lạ về sự lựa chọn của nó”; rồi nói thêm: “kể ra tôi cũng tin đó là đứa tử tế... Còn bác thấy thế nào?...” Và ta đã trả lời:
- Đúng thế đấy ạ.
Khi một tâm hồn càng dấn sâu vào sùng đạo, nó càng mất đi ý thức, thị hiếu, nhu cầu, tình yêu đối với thực tế. Ta cũng đã nhận xét thấy điều đó ở Vedel tuy chỉ có rất ít dịp trò chuyện. Đức tin chói lòa làm họ lóa mắt trước thế giới bao quanh và trước cả bản thân mình. Đối với ta chỉ tâm tâm niệm niệm sao cho thấy được rõ ràng, ta ngẩn người ra trước lớp dối trá dày đặc mà một kẻ sùng đạo có thể hài lòng.
Ta muốn nói chuyện với cụ Azaïs về Olivier, nhưng cụ chủ yếu quan tâm đến chú bé Georges.
- Bác đừng để lộ cho nó thấy là bác biết những điều tôi sắp kể với bác đây, - cụ bắt đầu, vả chăng hoàn toàn là nói tốt cho nó...
- Bác cứ hình dung đứa cháu trẻ tuổi của bác cùng với mấy đứa bạn đã lập ra một thứ tổ chức nho nhỏ, một hội thi đua với nhau; chúng chỉ nhận cho vào hội những đứa nào chúng cho là xứng đáng và có các bằng chứng về đạo đức; một thứ Bắc đẩu bội tinh thiếu nhi. Bác thấy chuyện này không thú vị? Mỗi đứa đeo ở khuyết áo một dải lụa nho nhỏ - tất nhiên là không lộ rõ, nhưng dẫu sao tôi vẫn nhận ra. Tôi đã gọi thằng bé vào văn phòng, và khi tôi bảo nó giải thích cái huy hiệu ấy, mới đầu nó lúng túng. Thằng nhỏ dễ thương chờ tôi quở mắng. Rồi đỏ dừ cả mặt và hết sức bối rối, nó đã kể cho tôi nghe chuyện thành lập cái câu lạc bộ nho nhỏ kia. Đó là những chuyện chẳng nên cười, bác thấy không; không khéo ta sẽ làm tổn thương đến các tình cảm hết sức tế nhị... Tôi hỏi tại sao nó và các bạn chẳng làm chuyện này một cách hoàn toàn công khai, giữa thanh thiên bạch nhật? Tôi bảo nó là như thế chúng sẽ có thể có được khả năng tuyên truyền, lôi cuốn tuyệt vời bao nhiêu, chúng sẽ có vai trò đẹp đẽ bao nhiêu... Song ở vào cái tuổi ấy, người ta thích trò bí mật... Để làm cho nó tin cậy, tôi cũng lại kể cho nó nghe rằng vào thời của tôi, nghĩa là khi tôi ở lứa tuổi của nó, tôi cũng đã gia nhập một cái hội tương tự như vậy, mà các hội viên mang cái tên hay ho là những trang “hiệp sĩ của nghĩa vụ”; mỗi người trong chúng tôi nhận của hội trưởng một quyển sổ tay để tự mình ghi các khuyết điểm, thiếu sót một cách tuyệt đối thành khẩn. Nó liền mỉm cười và tôi nhận thấy rõ rệt là câu chuyện về những quyển sổ tay đã gợi ý cho nó; tôi không cố bảo đâu, nhưng nếu nó đưa hệ thống sổ tay ấy vào việc thi đua của bọn nó thì tôi cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên. Bác thấy không, bọn trẻ đó, phải biết cách nắm lấy chúng; và trước hết bằng cách cho chúng thấy rằng người ta hiểu chúng. Tôi đã hứa với nó là không nói hở ra cho cha mẹ nó biết; đồng thời lại động viên nó kể cho mẹ nghe chắc sẽ làm cho mẹ sung sướng lắm. Song hình như chúng nó đã hứa danh dự với nhau là chẳng hé răng. Tôi mà nài thêm nữa thì hóa ra vụng về. Nhưng trước lúc chia tay, hai ông cháu đã cùng nhau cầu nguyện Thượng đế ban phúc lành cho hội của chúng.
Tội nghiệp ông già Azaïs quý mến! Ta tin rằng thằng bé đã lừa phỉnh cụ và chẳng có một tiếng nào là thật trong tất cả những lời nó nói ra. Song, làm sao Georges có thể trả lời khác được? Chúng tôi sẽ cố làm cho ra manh mối chuyện này.
Mới đầu ta không nhận ra căn phòng của Laura. Phòng đã được thay thảm và giấy phủ tường mới. Không khí hoàn toàn khác hẳn. Ngay đến Sarah dường như cũng chẳng còn nhận ra được. Tuy nhiên ta tin là nhận ra. Cô bé luôn luôn tỏ ra rất tin ở ta. Bao giờ ta cũng là người mà cô bé cho rằng có thể kể cho nghe hết mọi điều. Nhưng nhiều tháng ròng ta không trở lại gia đình Vedel. Chiếc áo dài của cô để hở cổ và hai cánh tay. Cô có vẻ cao lớn lên, bạo dạn ra. Cô ngồi trên một trong hai chiếc giường, bên cạnh Olivier và tựa vào anh, còn anh thì nằm dài không khách sáo và hình như đang ngủ. Chắc chắn là anh say; và chắc chắn ta đau lòng thấy anh như vậy; nhưng ta có cảm giác anh đẹp trai hơn bao giờ hết. Say thì cả bốn đứa ít nhiều đều say. Cô bé người Anh phá lên cười khi nghe những lời vô nghĩa nhất của Armand, tiếng cười the thé làm ta chói cả tai. Armand thì nói năng lung tung, được kích động, khích lệ bởi tiếng cười kia, và ganh đua với tiếng cười về sự ngốc nghếch, dung tục; giả vờ châm điếu thuốc lá bằng đôi má đỏ tía của cô em gái, hoặc đôi má của Olivier cũng đang rừng rực, hoặc giả vờ sờ vào đấy bỏng tay khi anh trơ tráo vít hai cái trán lại gần nhau và cho cộc vào nhau. Olivier và Sarah thuận chơi cái trò ấy, còn ta thì thấy khó chịu vô cùng. Nhưng ta đi quá xa rồi...
Olivier vẫn còn đang vờ ngủ thì Armand bất thình lình hỏi ta nghĩ thế nào về Douviers. Ta ngồi trong một chiếc ghế bành thấp, vừa vui vui, vừa phấn khích, vừa ngượng nghịu về cái say sưa và cung cách sỗ sàng của chúng; rút cục là cảm động vì được chúng mời đến đây trong khi chỗ của ta đâu phải là ngồi chuyện trò với chúng.
- Các cô gái có mặt ở đây... - Armand nói tiếp khi ta không biết trả lời ra sao mà chỉ đành mỉm cười ra chiều tán thưởng cho khỏi lạc lõng. Lúc đó cô bé người Anh muốn ngăn không cho anh ta nói và đuổi theo để lấy tay bịt miệng; anh vùng ra và kêu lên: - Các cô gái này phẫn nộ khi nghĩ rằng Laura phải ngủ với ông ấy.
Cô bé người Anh buông anh ta ra và vờ tức giận:
- Ồ! Đừng tin lời anh chàng! Anh chàng nói láo đấy.
- Cháu đã cố giải thích cho mấy cô hiểu là với hai chục ngàn quan hồi môn, người ta có hy vọng kiếm được đám nào khá hơn, - Armand thêm bình tĩnh nói tiếp, - và chị là tín đồ Thiên Chúa giáo thật sự, nên chủ yếu phải tính đến những phẩm chất của tâm hồn, như mục sư của cha chúng cháu nói. “Đúng thế, các con ơi. Và rồi việc tái sinh dân số sẽ ra sao nếu phải bắt sống độc thân tất cả những ai không đẹp trai như Adonis...” hay có thể nói, không đẹp trai như Olivier; nếu muốn lấy thí dụ về thời nay.
- Ngốc ơi là ngốc! - Sarah lẩm bẩm. - Ông đừng nghe anh ấy; anh chẳng biết là mình nói gì nữa đâu.
- Tao nói sự thật.
Ta chưa bao giờ nghe Armand nói năng như thế; ta đã tin và vẫn còn tin anh là người bản chất tinh tế và nhạy cảm; sự lỗ mãng của anh theo ta có vẻ là hoàn toàn giả tạo, một phần do say rượu và cái chính là để mua vui cho cô bé người Anh. Cô ta xinh đẹp thì chẳng ai chối cãi vào đâu được; nhưng chắc phải là đứa ngu đần thì mới thích thú những lời ăn tiếng nói bất lịch sự như vậy; Olivier thì có thể thấy được điều thú vị gì ở đây?... Ta định bụng hễ khi nào lại chỉ còn hai người với nhau, ta sẽ không giấu anh nỗi chán ghét của ta.
- Nhưng mà ông, - Armand bất thình lình quay về phía ta và nói tiếp, - ông chẳng quan tâm đến tiền bạc và có đủ tiền bạc để mua những tình cảm cao quý, ông có đồng ý cho chúng cháu biết tại sao ông lại chẳng cưới Laura không? Trong khi ông yêu chị, hình như thế thì phải, và ai cũng biết là chị mê mệt ông.
Olivier từ nãy vẫn giả vờ ngủ, lúc này mở mắt ra; ánh mắt ta và anh gặp nhau và ta không hề đỏ mặt chính vì mấy đứa kia chẳng ai quan sát được ta cả.
- Armand, anh quá quắt lắm, - Sarah nói, như để cho ta khỏi lúng túng, vì ta chẳng biết trả lời sao. Rồi, đang ngồi trên giường, cô nằm dài ngay ra bên cạnh Olivier khiến đầu hai đứa chạm vào nhau. Armand lập tức nhảy phốc tới, vớ lấy chiếc bình phong lớn đang gấp lại dựa vào tường mé dưới chân giường, và như một thằng hề, anh mở rộng ra để che cặp trai gái, rồi vẫn pha trò, cúi về phía ta, nhưng nói tướng:
- Có lẽ ông không biết rằng em gái cháu là một con điếm.
Thật là quá lắm. Ta đứng lên; đẩy cái bình phong ra, Olivier và Sarah lập tức ngồi bật dậy. Tóc cô ả xõa tung. Olivier đứng lên, đi vào phòng tắm và vã nước lên mặt.
- Ông ra đây. Cháu muốn cho ông xem cái này, - Sarah vừa nói vừa nắm lấy cánh tay ta.
Cô mở cửa phòng và kéo ta ra đầu cầu thang.
- Cháu nghĩ rằng cái này có thể làm cho một nhà tiểu thuyết quan tâm. Đây là một quyển sổ tay tình cờ cháu thấy; quyển nhật ký riêng tư của ba cháu; cháu chẳng hiểu tại sao ba cháu bỏ vất vưởng như vậy. Bất cứ ai cũng có thể đọc được. Cháu đã lấy đi để Armand khỏi nhìn thấy. Ông đừng nói với anh cháu đấy. Chẳng dài lắm đâu. Chỉ mươi phút là ông đọc xong rồi trả lại cháu trước khi ra về.
- Nhưng Sarah ơi, - ta vừa nói vừa nhìn chằm chằm vào cô, - thế này thì vô ý vô tứ kinh khủng lắm.
Cô ta nhún vai.
- Ồ! Nếu ông tin như vậy, ông sẽ thất vọng ngay cho mà coi. Chuyện này chỉ lý thú trong một chốc một lát mà thôi... và đây nữa. Đây, cháu sẽ đưa ông xem.
Cô rút ở trong ngực ra một quyển sổ nhật ký rất nhỏ, cách đây đã bốn năm, lật giở các tờ một lúc, rồi mở rộng đưa cho ta, tay chỉ vào một đoạn.
- Đọc mau lên đi ông!
Thoạt đầu ta nhìn thấy đoạn trích dẫn sau đây trong sách Phúc âm, ở dưới một ngày tháng và giữa hai ngoặc kép:
“Ai trung thực trong những chuyện nhỏ thì cũng sẽ trung thực ở những chuyện lớn”, tiếp đến: “Cớ sao lại cứ hoãn đến ngày hôm sau điều mình muốn quyết định là thôi không hút thuốc nữa. Dù cho đó chỉ là để khỏi làm phiền lòng Mélanie (bà là vợ mục sư). Lạy Chúa tôi, xin hãy cho con sức mạnh lật bỏ cái ách nô lệ nhục nhã này.” (Ta tin là dẫn văn chính xác). - Sau đó là ghi lại những đấu tranh, van nài, cầu khẩn, nỗ lực, chắc là chẳng ăn thua gì, vì các lời đó lặp đi lặp lại ngày nọ qua ngày kia. Giở thêm một trang nữa, và bỗng chuyển sang vấn đề khác.
- Khá cảm động đấy chứ, phải không nào? - Sarah hỏi với thoáng một chút bĩu môi châm biếm sau khi ta đã đọc xong.
- Còn lý thú hơn là cô tưởng nhiều, - ta chẳng kìm lại không nói được, đồng thời tự trách mình đi nói với cô ta. - Cô hình dung mà xem cách đây chưa đến mười ngày, tôi hỏi cha cô là đã bao giờ thử cai thuốc chưa. Tôi thấy rằng chính tôi cũng đi đến tình trạng hút quá nhiều và... Tóm lại, cô có biết cha cô trả lời tôi thế nào không? Thoạt tiên ông bảo tôi là theo ông người ta khuếch đại quá đáng những tác hại của thuốc lá, riêng ông chưa bao giờ cảm thấy các tác hại ấy đến bản thân mình; và thấy tôi cứ gặng hỏi mãi: “Có,” - cuối cùng ông nói với tôi, - “tôi đã đôi ba lần quyết định ngừng hút một thời gian.” - Và ông thành công chứ? - “Đã đành,” - ông trả lời tôi như chuyện đương nhiên, - “bởi vì tôi đã quyết định mà”. Kỳ lạ thật đấy! Rút cục có thể là ông không nhớ, - ta nói thêm, chẳng muốn để lộ cho Sarah thấy là ta nghi ngờ có chuyện giả dối ở đây.
- Hoặc cũng có thể, - Sarah lại nói, - điều đó chứng tỏ rằng “hút thuốc” được dùng ở đây theo nghĩa khác.
Có thật là Sarah đã nói như vậy không? Ta bàng hoàng cả người. Ta nhìn cô, hầu như không dám hiểu cô nữa... Vừa lúc đó, Olivier từ trong phòng bước ra. Anh đã chải đầu tóc, đã sửa lại áo quần ngay ngắn và có vẻ bình tĩnh hơn.
- Chúng ta đi thôi chứ? - Anh nói, chẳng cần ý tứ trước mặt Sarah. - Khuya rồi.
Ta và anh đi xuống, và khi vừa ra đến ngoài phố:
- Cháu sợ là ông hiểu lầm, - anh ta nói với ta. - Có thể ông tưởng rằng cháu yêu Sarah. Không đâu... Ồ! Cháu cũng chẳng ghét nó... Nhưng cháu không yêu nó.
Ta đã nắm lấy cánh tay anh và siết chặt, chẳng nói năng gì.
- Ông cũng không nên đánh giá Armand qua những điều hắn đã có thể nói với ông hôm nay, - anh nói tiếp. - Hắn đóng một vai kịch... mà chẳng ngờ đấy. Về cơ bản, hắn khác thế lắm. Cháu không thể giải thích cho ông được. Hắn có nhu cầu vùi dập tất cả những gì hắn tha thiết nhất. Hắn bắt đầu như thế từ cách đây không lâu. Cháu tin là hắn rất khổ sở và chính là để che giấu cái mà hắn đùa cợt. Hắn kiêu hãnh lắm. Cha mẹ hắn chẳng hiểu gì hắn cả. Các cụ muốn hắn sau này thành mục sư.
Đề từ cho một chương của Bọn làm bạc giả:
“Gia đình... cái nhà tù15xã hội ấy”
PAUL BOURGET (tại nhiều chỗ)
15 Cellule: vừa có nghĩa là tế bào, vừa có nghĩa là xà lim, nhà tù.
Nhan đề của chương: CHẾ ĐỘ NHÀ TÙ
Chắc chắn chẳng có nhà ngục (tinh thần) nào mà một đầu óc cường tráng không thoát ra được; và chẳng có cái gì thúc giục nổi loạn là thật sự nguy hiểm cả - mặc dù sự nổi loạn có thể làm sai lệch tính cách đi (nó làm cho tính cách co lại; lật ngược hoặc chồm lên, nó xúi bẩy mưu ma chước quỷ); và đứa trẻ không chịu khuất phục ảnh hưởng của gia đình sẽ dùng nghị lực tuổi thanh xuân để thoát ra. Mà ngay cả sự giáo dục gây phiền hà, trái ý đứa trẻ cũng làm cho nó mạnh thêm. Các nạn nhân thảm thương nhất là các nạn nhân của xu nịnh. Muốn ghét bỏ những cái phỉnh nịnh chúng ta, có tính cách mạnh mẽ nào là không cần đến? Ta đã thấy bao nhiêu các bậc cha mẹ (nhất là bà mẹ) hài lòng nhận thấy và khích lệ ở con cái những ghê tởm ngớ ngẩn nhất, những thành kiến bất công nhất của họ, những cái không hiểu, những nỗi lo sợ của họ...
Ở bàn ăn: “Bỏ cái đó lại; con thấy rõ là miếng mỡ đấy mà. Vứt cái da đi. Nó nấu chưa chín đâu...” Bên ngoài, buổi tối: “Ôi! Một con dơi... Đội mũ vào mau lên, nó vào làm tổ trong tóc con bây giờ”. Vân vân... Với họ, bọ dừa biết cắn, châu chấu biết đốt, giun đất làm nổi mụn nhọt.
Những chuyện phi lý tương tự trong tất cả các lĩnh vực trí tuệ, tinh thần, v.v...
Trong chuyến xe lửa ngoại vi đưa ta từ Auteuil về hôm kia, ta nghe thấy một bà mẹ trẻ thì thầm vào tai đứa con gái nhỏ mười tuổi chị đang vuốt ve:
- Con và mẹ; mẹ và con; kẻ khác, ta bất cần.
(Ồ! Ta biết đó là hạng bình dân; nhưng bình dân thì cũng có quyền được chúng ta tức giận chứ. Anh chồng trong một góc toa tàu, đọc báo, lặng lẽ, cam chịu, cũng có thể là không bị cắm sừng).
Người ta có hình dung ra thứ thuốc độc nào ác hiểm hơn không?
Tương lai thuộc về những đứa con hoang. - Ý nghĩa biết bao cái từ ngữ: “một đứa tự nhiên”. Chỉ có đứa con hoang mới có quyền được tự nhiên!
Tính ích kỷ gia đình... hầu như chỉ hơi gớm ghiếc hơn tính ích kỷ cá nhân một chút.”
“6 tháng Mười một - Ta chẳng bao giờ bịa đặt ra được cái gì cả. Nhưng ta đứng trước thực tế như họa sĩ bảo với người mẫu:
hãy làm điệu bộ, hãy có vẻ mặt hợp ý tôi. Những hình mẫu xã hội cung cấp cho ta, nếu ta biết rõ động lực, ta có thể khiến chúng hành động theo ý ta; hay ít ra ta có thể đề nghị những vấn đề nào đấy mà chúng đang do dự, chúng sẽ giải quyết theo cách riêng và ta sẽ hiểu biết được qua phản ứng của chúng. Chính là với tư cách tiểu thuyết gia mà ta có nhu cầu day dứt muốn can thiệp, muốn thao tác trên số phận chúng. Nếu có nhiều trí tưởng tượng hơn, ta sẽ sắp xếp các tình tiết; ta khích động chúng, quan sát các diễn viên, rồi chúng bảo sao ta sẽ làm theo.”
“7 tháng Mười một - Tất cả những gì ta viết hôm qua chẳng có chi là thật. Còn lại điều này: ta quan tâm đến thực tế như một chất dẻo; và để ý đến những cái có thể xảy ra vô vàn lần hơn là những cái đã xảy ra. Ta nghiêng mình đến chóng mặt xuống những khả năng của mỗi người và thương tiếc tất cả những gì bị cái nắp vung phong tục làm cho héo hon đi.”
Bernard phải ngừng đọc một lúc. Mắt anh nhòa đi. Anh hết hơi, dường như anh đã quên thở suốt trong thời gian đọc, vì anh chú ý đến cao độ. Anh mở cửa sổ và hít căng lồng ngực trước khi lao vào đọc tiếp.
Tình bạn của anh với Olivier rõ ràng thuộc loại sâu sắc nhất; anh không có bạn bè nào thân thiết hơn và trên thế gian này chẳng yêu quý ai bằng, vì anh không thể yêu quý cha mẹ anh; thậm chí trái tim anh tạm thời bám riết lấy tình bạn này một cách hầu như quá đáng. Song Olivier và anh không hiểu về tình bạn hoàn toàn như nhau. Bernard càng đọc càng ngạc nhiên hơn, càng cảm phục hơn, nhưng có phần nào đau đớn, khi thấy thằng bạn mà anh tưởng biết rõ chân tơ kẽ tóc lại tỏ ra có thể lắm hình nhiều vẻ đến thế. Olivier chẳng hề nói gì với anh về tất cả những điều cuốn nhật ký kia kể lại. Anh hầu như chẳng để ý là Armand và Sarah tồn tại trên đời. Sao mà Olivier tỏ ra khác với chúng hơn là với anh đến thế!... Trong căn phòng của Sarah kia, trên cái giường kia, liệu có thể nhận ra bạn anh chăng?
Xen lẫn với sự tò mò vô hạn thúc anh đọc ngấu nghiến là một cảm giác khó chịu mơ hồ: ngán ngẩm hay bực mình. Anh đã cảm thấy một chút bực mình đó lúc nãy khi nhìn thấy Olivier trong cánh tay Édouard; bực mình vì phải ở ngoài cuộc. Cái bực mình ấy có thể dẫn đi rất xa và xui khiến làm lắm trò dại dột; như tất cả mọi nỗi bực mình.
Thôi. Tất cả những điều vừa nói trên đây chỉ là để thổi một chút không khí vào giữa các trang của cuốn nhật ký. Bây giờ Bernard đã thở no rồi, chúng ta quay trở về cuốn đó. Anh lại lao vào đọc miệt mài.