Đêm đó, Rhyme và Sachs nằm trên chiếc giường SunTec của anh, ngả hẳn ra sau.
Trước đó cô đã cam đoan với anh là chiếc giường này êm ái khôn tả, một đánh giá mà anh đành phải tin, vì cảm quan duy nhất của anh là chiếc áo gối trơn láng. Mà chiếc áo gối thật ra cũng khá xa xỉ.
“Xem kìa”, cô thầm thì.
Ngay lập tức bên ngoài cửa sổ phòng ngủ trên tầng hai của Rhyme, trên rìa cửa, là một chuyển động thoáng qua, rất khó nhận ra trong ánh chiều tà.
Một chiếc lông vũ bay lên rồi dạt ra khỏi tầm mắt. Một chiếc nữa.
Giờ ăn tối.
Những con chim cắt lớn đang sống trên rìa cửa sổ này, hoặc một trong số những cửa sổ khác bên ngoài căn biệt thự phố, kể từ khi Rhyme trở thành cư dân nơi đây. Anh đặc biệt hài lòng khi chúng chọn nơi ở của anh làm tổ. Là nhà khoa học, anh dứt khoát không tin vào dấu hiệu hay điềm báo hay những chuyện siêu nhiên, nhưng anh lại chẳng thấy có gì bất hợp lý đối với khái niệm “biểu trưng”. Anh xem những con chim này là hình ảnh ẩn dụ, nghĩ về một chi tiết ít ai biết về loài chim này: Khi tấn công mục tiêu, chúng về cơ bản là bất động. Những cuộn cơ bắp nhào xuống, chân bung ra cố định, cánh khép, lao cắt gió. Chúng nhảy bổ xuống ở tốc độ hơn 320 kilômét/giờ, giết con mồi bằng lực va chạm, không phải bằng cắn xé.
Bất động, nhưng không khác gì mãnh thú.
Một chiếc lông vũ nữa trôi đi khi đôi chim bẻ sang lộ trình bay chính của chúng. Món chính của lũ cắt này mới đây là một con bồ câu béo ú và bất cẩn. Cắt thường hoạt động trong ngày và săn mồi đến chiều tà nhưng trong thành phố, chúng thường hoạt động về đêm.
“Măm măm”, Sachs nói. Rhyme cười.
Cô xích lại gần anh và anh ngửi thấy mùi hương nồng nàn từ tóc cô. Chỉ một chút dầu gội, hương hoa. Amelia Sachs chẳng phải một cô nàng thích dùng nước hoa. Cánh tay phải của anh nhấc lên rồi anh ôm đầu cô vào sát hơn.
“Anh có định tiếp tục theo dõi vụ án không?” Cô hỏi. “Cùng Poitier đấy?”
“Anh ráng xem sao. Cậu ấy có vẻ rất cương quyết là sẽ không giúp chúng ta nữa. Nhưng anh biết cậu ấy chản nản vì không được phép đào sâu hơn hơn.”
“Vụ này thật là”, cô nói.
Anh thì thầm, “Còn cảm giác bị cải dụng thành một đấu thủ ở cấp vi mô như thế nào hả Sachs? Em có định chuyển trục sang hướng đó không?1”
1 Rhyme nhại ngôn ngữ quan liêu của chính phủ. Có thể hiểu là: “Còn cảm giác bị chỉ định làm nhân viên thứ yếu như thế nào, Sachs? Em có định thay đổi theo hướng đó không?”
Cô cười lớn. “Mà cái phòng ông ta quản lý là gì mới được, đại úy Myers ấy: Đơn vị Công tác Đặc biệt hả?”
“Em là cảnh sát mà. Anh tưởng em biết chứ.” “Chưa từng nghe đến.”
Họ im bặt và rồi, trong bờ vai anh, bình thường như bờ vai bao người, anh cảm nhận được cô đang đanh người lại.
“Nói cho anh biết đi”, anh nói.
“Anh biết đấy, Rhyme, cảm nhận của em về vụ án này cũng chẳng khá hơn chút nào.”
“Em nói về những chuyện đã kể với Nance đấy hả? Em không chắc liệu Metzger và kẻ bắn tỉa của chúng ta có phải là loại hung thủ mà chúng ta muốn theo đuổi không chứ gì?”
“Chính xác.”
Rhyme gật gù. “Anh đồng ý, Sachs. Anh chưa bao giờ nghi vấn bất cứ một vụ điều tra nào suốt thời gian vừa qua. Những vụ đấy trước giờ có mập mờ gì đâu. Vụ này thì đúng là mập mờ.”
“Nhưng còn một điều chúng ta phải nhớ, Sachs à. Liên quan đến chúng ta.”
“Chúng ta là người tình nguyện.”
“Ừ. Chúng ta muốn bỏ đi thì bỏ. Để Myers và Laurel tìm người khác vậy.”
Cô câm bặt, bất động, ít ra là theo những bộ phận cảm quan có thể cảm nhận được chuyển động của Rhyme.
Anh nói tiếp, “Ngay từ đầu em đã không hài lòng vụ án này.” “Phải, em không hài lòng. Và một phần trong em muốn rút, đúng vậy. Có quá nhiều thứ chúng ta không biết, nào là ai liên can, bọn họ nghĩ gì, động cơ của bọn họ là gì.”
“Nữ hoàng động cơ của tôi ơi.”
“Và khi nói ‘người liên can’, em muốn nói đến cả Nance Laurel và Bill Myers, chứ không chỉ Metzger và tên Bruns quái quỷ nào đấy.” Sau chốc lát: “Em có linh cảm xấu về vụ án này, Rhyme à. Em biết, anh không tin mấy chuyện linh cảm. Nhưng trong phần lớn sự nghiệp của mình, anh chỉ biết hiện trường vụ án. Còn em thì rành chuyện ngoài đường. Linh cảm là có thật đấy.”
Cả hai cùng lặng đi trong chốc lát cùng nhìn con chim cắt trống nâng mình rồi cất cánh bằng một dao động nhẹ. Chúng chẳng phải loài vật lớn nhưng, khi nhìn thật gần, động tác rỉa lông của chúng trông đường bệ vương giả, cũng như cái nhìn chằm chặp ngắn ngủi mà mãnh liệt của con chim. Tầm nhìn của chúng rất đáng kinh ngạc, chúng thấy con mồi từ cách xa nhiều cây số.
Biểu trưng…
“Anh muốn tiếp tục vụ này, đúng không?” Cô hỏi.
Anh nói, “Anh hiểu ý của em, Sachs à. Nhưng đối với anh đó là một nút thắt cần phải tháo mở. Anh không buông xuôi được. Nhưng em thì không cần phải vậy.”
Ngay lập tức cô thì thầm, “Không, em điều tra cùng anh, Rhyme. Anh và em. Chúng ta.”
“Tốt, anh chỉ…”
Và lời anh đột ngột bị ngắt ngang khi miệng Sachs lấp đầy miệng anh và cô hôn anh ngấu nghiến, gần như mãnh liệt, mấy tấm chăn trượt ra sau. Cô trườn lên trên người anh, giữ chặt đầu anh. Anh cảm nhận được các ngón tay của cô đằng sau đầu anh, tai anh, má anh, các ngón tay lúc cứng cáp, rồi mềm mỏng. Lại mạnh mẽ trở lại. Vuốt cổ anh, vuốt thái dương anh. Môi Rhyme đi từ môi cô sang tóc cô, đến một điểm đằng sau tai cô, rồi xuống cằm cô và ngự lại trên miệng cô. Nán lại đấy.
Rhyme đã dùng cánh tay mới hoạt động được của mình trên bảng điều khiển của một kính hiển vi đối chiếu hiệu Bausch + Lomb2, trên điện thoại, máy vi tính và một thiết bị đo tốc độ biến thiên mật độ. Anh chưa từng dùng nó cho mục đích này: kéo Sachs lại gần, gần hơn, giữ chặt phần trên cùng chiếc áo ngủ lụa của cô rồi khéo léo kéo nó lên khỏi đầu cô.
2 Loại kính hiển vi cho phép quan sát và đối chiếu hai mẫu vật đồng thời.
Anh cho là nhẽ ra mình có thể sử dụng thành thạo các nút này, nếu thử mày mò, nhưng sự cấp bách đã sai khiến anh làm ngược lại.