Soạt, soạt…
Trong nhà bếp của mình, Jacob Swann nhâm nhi một ly Vermentino, loại rượu nhẹ dễ uống của Ý đến từ vùng Liguria. Hắn lại mài tiếp con dao của mình, một con dao hiệu Kai Shun, nhưng không phải con dao xắt. Đây là sản phẩm dòng Deba kích thước 21,6 phân dùng thái và róc thịt miếng nguyên vẹn.
Soạt, soạt, soạt…
Hắn vuốt từ cạnh này sang cạnh kia trên thanh đá mài Arkansas, phong cách mài dao riêng biệt của hắn. Không bao giờ vuốt theo đường tròn.
Lúc này khoảng 8 giờ tối. Nhạc jazz phát trên mâm đĩa than của hắn. Larry Coryell, nghệ sĩ ghi ta. Xét về chuẩn mực thì chẳng ai bằng ông, với những bản nhạc do chính ông soạn và cả những bản cổ điển. “Vũ Khúc Pavane Cho Một Công Nương Đã Chết”1 là một màn trình diễn vô song.
1 Bản nhạc gốc Pavane pour une infante défunte do nhà soạn nhạc người Pháp Maurice Ravel viết cho dương cầm độc tấu.
Người đeo tạp dề, Swann ngồi tại chỗ bàn thớt. Vừa nãy, hắn nhận một tin nhắn từ tổng bộ khen ngợi hắn hôm nay làm rất tốt, xác nhận là hắn đã quyết định đúng khi hoãn lại việc tấn công Sachs.
Shreve Metzger đã cung cấp thêm nhiều thông tin nhưng hiện tại không còn việc gì nữa. Tối nay hắn có thể nghỉ ngơi. Và hắn đang tranh thủ.
Đèn đuốc mờ ảo, màn rèm đều đóng.
Có một cảm giác lãng mạn nào đó trong bầu không khí. Swann nhìn người phụ nữ đang ngồi gần đó. Tóc nàng xõa xuống, nàng đang mặc một cái áo thun của hắn, màu đen, và quần đùi sọc vuông, cũng của hắn. Hình như hắn ngửi được hương hoa, đượm chút mùi gia vị. Hương và vị gắn bó mật thiết với nhau. Swann chưa hề nấu món gì to tát khi bị cảm hay bị viêm xoang cả. Phí sức làm gì? Ăn uống vào thời điểm như vậy chẳng khác gì xem thức ăn chỉ để lấp đầy bụng.
Một cái tội.
Người phụ nữ, tên là Carol Fiori - cái tên kỳ quặc đối với một người Anh - nhìn lại. Nàng đang khóc khẽ.
Thi thoảng nàng phát ra tiếng ặc ặc ặc như trước đó. Carol chính là cô gái chạy bộ đã bắt chuyện với hắn ở lối hẻm và phá hỏng cơ hội làm tàn phế Amelia Sachs của hắn. Một cú đấm vào họng và bụng là nàng xong đời. Hắn lái xe chuồn nhanh về nhà. Hắn sẽ xử ả thám tử sau.
Ngay khi trở về Brooklyn, hắn lôi Carol vào nhà. Mặc dù ban đầu nàng nói mình đang du lịch cùng “bạn bè” nhưng trên thực tế, nàng đang đơn độc du lịch khắp Hoa Kỳ trong một tháng, tính viết một bài báo về chuyến phiêu lưu của mình.
Đơn độc…
Hắn đang phân vân không biết làm gì với chiến lợi phẩm của mình.
Giờ thì hắn đã biết. Làm, không làm?
Làm.
Nàng đã thôi nhìn chằm chặp hắn van nài hay thì thầm khẩn nài. Lúc này, nàng xoay cặp mắt ngân ngấn nước về phía con dao Deba trong lúc hắn mài soạt, soạt. Thi thoảng nàng lại lắc đầu. Swann đã trói cổ tay và chân nàng vào một cái ghế rất đẹp và êm theo phong cách Sứ mạng2, giống như đã trói Lydia Foster.
2 Phong cách Sứ mạng: Phong cách phục cổ kiến trúc cho giống thời đại trước.
“Xin anh”, nàng tạo khẩu hình, mắt nhìn lưỡi dao. Vậy là màn van nài của nàng vẫn chưa dứt hẳn.
Đến lượt hắn nghiên cứu con dao, lấy ngón cái thử lưỡi dao một cách kỹ lưỡng. Lực cản vừa đủ, sắc bén tuyệt đối. Hắn hớp thêm rượu vang rồi bắt đầu lôi nguyên liệu ra khỏi tủ lạnh.
Hồi Jacob Swann còn bé xíu, hồi chưa vào đại học, chưa vào quân đội, chưa bắt đầu sự nghiệp của hắn sau khi xuất ngũ, hắn đã biết đánh giá cao giá trị của bữa ăn. Những khoảnh khắc duy nhất mà hắn quây quần cùng bố mẹ là những lúc chuẩn bị bữa cơm chiều và ngồi xuống dùng bữa.
Ông bố Andrew Swann to kềnh của hắn không nghiêm khắc, cũng chẳng ngược đãi hắn. Ông chỉ đơn giản là xa cách và luôn đắm chìm vào những kế hoạch, những bổn phận và những thứ làm ông sao nhãng, những thứ phần nhiều phát sinh từ công việc của ông trong thế giới cờ bạc của thành phố Atlantic. Cậu bé Jacob chưa bao giờ biết chính xác bố mình làm gì - nếu xét đến sự nghiệp hiện tại của chính hắn, thì ông Andrew hồi ấy có thể làm trong ngành chấp pháp. Cái nghiệp cha truyền con nối ấy. Nhưng điều duy nhất mà mẹ con Jacob biết rõ về người bố này là ông rất háu ăn, và hai người chỉ có thể khiến ông để ý và chú tâm thông qua thức ăn.
Mẹ Marianne không phải là đầu bếp thiên bẩm, bà ghét chuyện bếp núc là đằng khác. Chỉ sau khi bà và Andrew bắt đầu hẹn hò, bà mới bắt đầu trau dồi kỹ năng của mình. Jacob nghe lỏm bà kể cho một cô bạn về một trong những bữa cơm đầu tiên bà nấu. “Món gì đây?” Andrew hạch sách.
“Hamburger Helper3, đậu ngự và…” “Cô nói với tôi là biết nấu nướng mà.”
3 Helper: Một dòng sản phẩm thức ăn đóng hộp của Tập đoàn General Mills (Mỹ), sử dụng thương hiệu Betty Crocker.
“Thì em nấu rồi mà.” Bà vẩy tay về cái chảo rán.
Andrew quẳng khăn ăn xuống rồi rời khỏi bàn ăn, đi đến sòng bạc.
Thế là hôm sau bà mua một cuốn sách dạy nấu ăn của Betty
Crocker rồi bắt đầu thực hành.
Vào những buổi chiều trong căn nhà lô4 của họ, cậu bé Jacob thường quan sát bà luống cuống làm món gà thái miếng hầm sốt trắng hoặc cá tuyết áp chảo. Bà chiến đấu với thức ăn, bà vật lộn. Bà không học các nguyên tắc và quy tắc đầu tiên (mà suy cho cùng chỉ toàn hóa học và vật lý). Thay vì vậy, bà tiếp cận mỗi công thức như thể mình chưa từng thấy một miếng bít tết, miếng cá bơn hay đống bột lạnh nào. Mọi món sốt của bà đều vón cục, được nêm nếm kỳ quặc và luôn quá mặn - mặc dù Andrew không thấy vậy, nên có lẽ chúng chẳng mặn gì.
4 Căn nhà lô (Tract house): Nhà được xây san sát với một loạt các nhà khác có thiết kế tương tự trên cùng một lô đất.
Không giống con trai mình, Marianne hết sức căng thẳng trước và trong khi chuẩn bị bữa ăn nên lúc nào bà cũng uống hơn một ly rượu vang. Một chút uýt-ki nữa. Hoặc bất kỳ thứ gì nằm trong tủ.
Nhưng bà chịu khó và trầy trật lắm mới nấu được những bữa ăn đủ ngon để giữ chân Andrew trong khoảng một giờ. Thế mà, y như rằng, hễ Andrew khua chiếc nĩa tráng miệng vào đồ sứ, nuốt ực lần cuối một ngụm lớn cà phê - Andrew không quen nhâm nhi - là ông đứng dậy đi mất. Lúc thì xuống hầm để thực hiện những dự án kinh doanh bí mật của mình, lúc thì đến một quán rượu địa phương, lúc thì quay lại sòng bạc. Để chịch ả hàng xóm, Jacob suy đoán, khi hắn biết thế nào là chịch.
Sau giờ học hoặc cuối tuần, nếu hắn không bận nện đo ván các đối thủ đô vật của mình hoặc so tài trong đội súng trường ở trường, Jacob sẽ chơi trong nhà bếp, lật hết các trang sách dạy nấu ăn, ngồi gần mẹ xem bà tàn phá căn bếp, với sữa và sốt cà chua vương vãi khắp nơi, vỏ hạt anh túc tung tóe như mảnh lựu đạn, hàng đống phế liệu rau thơm, bột, bột ngô, nội tạng. Máu me tung tóe nữa.
Đôi khi bà bận ngập đầu ngập cổ và phải nhờ hắn phụ rút sụn, lọc xương và xắt mỏng thịt làm món scaloppine5. Có vẻ như trong suy nghĩ của Marianne, con trai thường thích dùng dao hơn máy đánh trứng.
5 Scaloppine: Món Ý gồm thịt xắt mỏng rắc bột mì (thường là thịt bê), áp chảo nhanh.
“Nhìn kìa cưng. Con giỏi lắm. Ông hàng thịt bé bỏng của tôi ơi!”
Rồi hắn thấy mình ngày càng phụ trách nhiều việc hơn, chữa món hầm theo bản năng, cắt mịn hơn, tắt bếp đúng lúc trước khi đồ ăn sôi sùng sục. Mẹ sẽ vỗ má hắn rồi rót thêm rượu vang.
Lúc này, Swann nhìn người phụ nữ đang bị trói vào ghế.
Hắn vẫn còn giận chuyện nàng đã phá hỏng kế hoạch ban chiều của hắn.
Nàng lại khóc.
Hắn tiếp tục chuẩn bị bữa cơm ba món cho tối nay. Món khai vị là măng tây hấp trong hỗn hợp nước và rượu vermouth, ngâm thêm một lá nguyệt quế tươi và một nhúm xô thơm. Các cuống măng tây sẽ gác lên một lớp sa lát ngô và được điểm những giọt sốt hollandaise nhà làm - mấu chốt nằm ở chỗ “điểm”, bởi mỗi khi lòng đỏ gặp bơ, ta rất dễ quá tay. Mẹo nấu măng tây dĩ nhiên là canh thời gian. Người La Mã có một thành ngữ sáo rỗng - làm việc gì trong khoảng thời gian nấu măng tây nghĩa là làm nhanh việc đó.
Swann nhấp rượu và chuẩn bị nước hấp. Đoạn hắn tỉa rau thơm trồng trong khung chậu cửa sổ.
Khi người mẹ rời bỏ họ - rượu cộng với 132 kilômét/giờ không cài dây an toàn - cậu bé Jacob mười sáu tuổi nhận đảm đương việc bếp núc.
Chỉ hai người bọn họ, cha và con.
Đứa trẻ mới lớn làm hệt như mẹ, cầm chân bố Andrew bằng những bữa cơm, có khác chăng là thằng bé ưa thích bếp núc và giỏi hơn hẳn mẹ mình. Nó bắt đầu phục vụ các bữa ăn nhiều món - chẳng khác thực đơn của đầu bếp đích thực - để kéo dài thời gian hai bố con ngồi ăn cùng nhau. Một khác biệt nữa sau cùng cũng hiển hiện: Nó phát hiện mình thích nấu nướng hơn là bỏ thời gian ngồi ăn, nó nhận thấy mình chẳng thích ông bố nhiều nhặn gì. Jacob làm gì ông cũng chẳng quan tâm: chơi điện tử, quyền cước, đô vật, săn bắn, súng ống nói chung và quyền Anh không găng. Andrew chẳng thiết nói gì nhiều gì ngoài bản thân mình.
Có lần, khi Jacob mười tám tuổi, bố hắn trở về nhà cùng một ả tóc vàng xinh xắn, đẹp là đằng khác. Ông nói với ả là “con tôi” nấu ăn ngon lắm. Cứ như ông đang khoe chiếc nhẫn kệch cỡm ở ngón út vậy. Ông bảo Jacob, “Làm món gì ngon ngon cho cô Cindi đây ăn, được chưa? Làm món gì ngon ngon cho quý cô xinh đẹp này.”
Bấy giờ Jacob đã hiểu biết nhiều về vi khuẩn E. coli. Mặc dù hắn rất muốn thấy ả Cindi hai mươi bốn tuổi này nôn ọe đến chết, hoặc chỉ nôn thôi cũng được, nhưng hắn không đủ can đảm để chủ tâm làm hỏng một món ăn. Hắn được ả khen tấm tắc về món gà cuộn phô mai, một món hắn không chế biến bằng cách giã ức gà cho dẹt ra, thay vào đó hắn xắt miếng thịt gà thành nhiều tấm mỏng để cuộn phần phô mai Gruyère và - theo công thức của riêng mình - giăm bông Parma.
Ông hàng thịt…
Không lâu sau, chủ nghĩa khủng bố gây chấn động cả nước Mỹ. Lúc Jacob nhập ngũ, người ta hỏi về tài năng và sở thích cá nhân nhưng hắn không tiết lộ mình biết nấu ăn, sợ sẽ bị điều vào bếp ăn tập thể trong bốn năm tới. Hắn biết chẳng vui sướng gì khi nấu thức ăn trên bàn gia nhiệt6 cho cả nghìn lính một lúc. Chủ yếu hắn muốn giết người. Hoặc khiến bọn chúng la thét thất thanh. Hoặc cả hai. Hắn không thấy có khác biệt gì lớn giữa con người và con vật nuôi lấy thịt. Thật vậy, nghĩ mà xem, bò và cừu đều vô tội, vậy mà chúng ta xắt chúng ra chẳng cần nghĩ ngợi. Con người, mặt khác, nếu không phạm tội này thì cũng phạm tội khác, vậy mà chúng ta lại chần chừ khi sử dụng đạn hay dao lên kẻ khác.
6 Bàn gia nhiệt ( Steam table): Bàn inox dài có nhiều khoang lõm để đựng các chậu thức ăn và giữ ấm thức ăn bằng hơi nóng luân chuyển bên dưới.
Đúng ra là một vài người trong số chúng ta.
Hắn nhìn Carol một lần nữa. Nàng có nhiều cơ bắp đấy nhưng nhợt nhạt quá. Chắc nàng tập thể hình chủ yếu ở phòng tập hoặc bôi kem chống nắng khi chạy. Hắn mời nàng một ít rượu. Nàng lắc đầu. Hắn cho nàng nước rồi giữ cho nàng uống nửa chai.
Món thứ hai hắn nấu cho bữa tối hôm nay là một biến thể của món khoai tây Anna. Khoai tây nâu đỏ xắt lát và lột vỏ, xếp tầng theo hình xoắn ốc rồi nấu trong bơ và dầu ô liu, cùng nhiều muối biển và tiêu. Ở giữa sẽ là một viên kem chua tươi mà hắn khuấy cùng một ít - rất ít - mật phong tươi, và chỉ mật phong tươi. Sau cùng là nấm cục đen xắt vụn. Món này hắn làm trong một cái chảo rán nhỏ bằng sắt đúc. Hắn sẽ bỏ khoai tây trên bếp trước rồi làm giòn mặt trên bên dưới lò nướng Miele.
Khoai tây kết hợp với mật phong cùng nấm cục. Ai mà ngờ được?
Chà, hắn bắt đầu thấy đói.
Khi Jacob mới ngoài hai mươi, bố hắn chết vì một thứ có thể gọi là vấn đề về dạ dày, tuy không phải là ung bướu. Bốn phát đạn chín li vào bụng.
Tay lính trẻ thề sẽ trả thù mà chẳng bao giờ thực hiện. Có vô số người có động cơ ra tay - thì ra Andrew bấy lâu đã giở đủ thứ trò phản phúc, nhẽ ra ông phải biết chẳng nên làm tại thành phố Atlantic này. Tìm ra hung thủ sẽ mất khối thời gian. Vả lại, thực sự mà nói, Jacob cũng chẳng buồn lòng gì. Thật ra, khi hắn mở tiệc cảm tạ sau tang lễ, nhiều khả năng tên hung thủ cũng có mặt trong số những đối tác làm ăn đã đến dự. Tuy nhiên, có một sự trả thù tinh vi diễn ra tại sự kiện này. Món chính của bữa tiệc là penne alla puttanesca, một món cay có thành phần chính là cà chua, cái tên của nó trong tiếng Ý nghĩa là “theo phong cách gái điếm.” Hắn làm món này tặng ả bạn gái hiện tại của bố, ả không phải là Cindi nhưng biết đâu đấy.
Đêm nay, món thứ ba của Jacob Swann, món chính, sẽ rất đặc biệt. Nhiệm vụ “Moreno” bấy lâu quá trầy trật nên hắn muốn tự nuông chiều bản thân.
Món chính sẽ có phong cách Veronique7. Hắn làm món này bằng nho xắt tròn và hành tím, mỏng bằng nhau, bỏ vào nước sốt bơ trắng - nước sốt này có ít rượu hơn một chút (hắn không bao giờ dùng giấm) vì có thành phần nho.
7 Phong cách Veronique: Chỉ những món có thành phần là nho xanh không hạt.
Hắn sẽ xắt chỗ thịt đặc biệt này thành những lát hình trái xoan gần như trong mờ, ngào chúng vào bột nhào Pháp loại 45 rồi áp chảo nhanh trong hỗn hợp dầu ô liu và bơ (dĩ nhiên luôn là hỗn hợp hai thứ này, bơ nếu dùng lẻ loi sẽ cháy còn nhanh hơn tàu chở dầu bị lật).
Hắn mời Carol uống thêm nước. Nàng không có hứng thú. Nàng đã bỏ cuộc.
“Thoải mái đi”, hắn thì thầm.
Nước hầm đang sôi trong nồi hầm măng tây, khoai tây đang trở nâu nhìn thích mắt dưới lửa nướng, dầu và bơ nóng lên chầm chậm, nhả ra mùi hương quyến rũ của chúng.
Swann lau sạch cái thớt hắn sẽ dùng xắt thịt cho món chính. Nhưng trước khi bắt tay vào việc, rượu vang. Hắn mở và chế một ly rượu nho Sauvignon Blanc của New Zealand, hiệu Cloudy Bay, một trong những loại rượu ngon nhất hành tinh. Hắn do dự không biết có nên thử loại rượu sủi tăm thượng hạng, Pelorus, của vườn nho này không, nhưng hắn không nghĩ một mình hắn uống hết cả chai, trong khi bọt tất nhiên không giữ lâu được.