• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Buồng khử
  3. Trang 65

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 64
  • 65
  • 66
  • More pages
  • 113
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 64
  • 65
  • 66
  • More pages
  • 113
  • Sau

Chương 56

“Da anh rám nắng rồi”, Sellitto nói. “Đâu có.”

“Có mà. Anh phải bôi kem chống nắng chứ, Linc.” “Tôi có rám nắng cái khỉ gì đâu”, anh làu bàu.

“Tôi nghĩ là có đấy”, Thom đế thêm.

Bây giờ là gần 8 giờ sáng. Thom, Pulaski và Rhyme đã bay từ sân bay LaGuardia về đây muộn, gần 11 giờ đêm qua, và cậu hộ lý nằng nặc đòi Rhyme đi ngủ ngay. Vụ án có thể chờ đến sáng hôm nay.

Lúc đó anh không tranh cãi gì, nhà khoa học hình sự đã kiệt quệ. Cú nhấn nước đã bắt đầu có tác động xấu. Toàn bộ chuyến đi đều như thế. Nhưng điều đó không ngăn cản Rhyme triệu tập Thom ngay khi anh thức giấc vào 6 rưỡi sáng bằng công tắc gọi điều dưỡng cạnh giường. (Cậu hộ lý nói cái thiết bị này rất Downton Abbey1 nhưng Rhyme không hiểu).

1 Downton Abbey (Tu viện Downton): Tên một bộ phim truyền hình dài tập. Ở đây ám chỉ lối sống hoàng gia.

Phòng khách đang sôi nổi với sự có mặt của Sellitto, Cooper và Sachs. Và Ron Pulaski - người thật sự trông như bị rám nắng - chỉ mới đang bước qua ngưỡng cửa. Nance Laurel phải ra tòa xử lý một vụ án khác của cô ta nên sẽ đến sau.

Rhyme ngồi xe lăn mới, hiệu Merits Vision Select. Màu xám có chắn bùn đỏ. Chiếc xe được giao đến và lắp ráp ngày hôm qua, trước khi Rhyme từ Bahamas trở về. Thom đã gọi cho công ty bảo hiểm của họ từ Nassau và thương lượng để mua nhanh chiếc này. (“Họ chẳng biết nói gì”, cậu hộ lý báo cáo, “khi tôi đưa ra lý do mất chiếc xe lăn là vì ‘ngập trong ba mét nước.’”)

Rhyme đã chọn chính dòng xe này bởi vì nó nổi tiếng với chức năng đi trên địa hình gồ ghề. Sự dè dặt không muốn xuất hiện trước công chúng của anh xưa kia đã biến mất - chủ yếu là nhờ chuyến đi đến Bahamas. Anh muốn đi đây đó nhiều hơn và muốn tự mình khám xét hiện trường vụ án trở lại. Điều này đòi hỏi một chiếc xe lăn giúp anh đến được càng nhiều nơi càng tốt.

Chiếc Merits đã được cải tiến một chút để phù hợp với bệnh trạng của Rhyme - chẳng hạn như sợi dây ràng cho cánh tay trái bất động của anh, một bàn rê bên dưới ngón áp út trái còn hoạt động của anh, và dĩ nhiên, một bộ phận giữ tách, đủ lớn cho cốc uýt ki hay cà phê. Lúc này anh đang thưởng thức cốc cà phê thông qua một ống hút dày cộm. Anh nhìn lướt qua Sellitto, Sachs và Pulaski rồi nghiên cứu tấm bảng trắng, trên có chứa các ghi chú của Sachs về cuộc điều tra lúc anh vắng mặt.

“Thời gian đang bị phung phí.” Anh hất đầu về phía chỉ lệnh STO. “Ông Rashid sẽ chầu trời sau một hai ngày nữa nếu chúng ta không có hành động gì. Để xem chúng ta biết gì rồi.” Anh bèn lăn xe tới lui trước chỗ bảng trắng, chứa thông tin phân tích chỗ chứng cứ mà Sachs thu thập tại hiện trường bom tự chế ở quán Java Hut và căn hộ của Lydia Foster.

“Một máy bay màu lam ư?” Anh vừa hỏi vừa ngẫm nghĩ về ghi chú đó.

Sachs giải thích những gì Henry Cross đã kể với cô. Về chiếc máy bay tư nhân hình như đang bám đuôi Moreno khắp Hoa Kỳ và khu vực Trung Mỹ lẫn Nam Mỹ.

“Tôi đã nhờ một cảnh sát trong Đơn vị Công tác Đặc biệt của đại úy Myers tìm kiếm nhưng họ cũng không thu được gì nhiều. Không có cơ sở dữ liệu nào về máy bay xếp theo màu cả. Tuy nhiên, nếu nó được bán gần đây thì những người môi giới có thể có giấy tờ bán hàng kèm ảnh. Ông ấy vẫn đang kiểm tra.”

“Được rồi. Bây giờ ta xem những gì tìm được tại Bahamas. Thứ nhất là Buồng Khử.”

Rhyme giải thích cho Sachs và Cooper biết X165 hay Barry Shales đã phá hủy hiện trường tại khách sạn như thế nào, nhưng anh có một vài thứ, bao gồm bản báo cáo sơ bộ mà cảnh sát sở tại đã lập ra, cùng với các ảnh chụp. Sachs dán chỗ ảnh này lên một bảng trắng riêng, cùng với bản gốc báo cáo sơ sài về hiện trường vụ án mà Cảnh lực Hoàng gia Bahamas đã thực hiện.

Trong nửa tiếng tiếp theo, Sachs và Cooper cẩn thận mở ra và phân tích chỗ giày dép cùng quần áo của ba nạn nhân ở dãy phòng 1200 vào sáng ngày 9 tháng 5. Mỗi bao ni lông được mở ra trên một tờ giấy in báo khổ rộng vô trùng, mỗi món quần áo và giày dép được lựa ra và quét tìm dấu vết.

Giày của Moreno, người vệ sĩ và de la Rua có những sợi y hệt các sợi trong tấm thảm khách sạn và có lớp bụi khớp với những mẫu lấy từ vỉa hè và khuôn viên trước khách sạn. Áo quần các nạn nhân chứa dấu vết tương tự cùng các mẩu vụn của bữa ăn mới nhất, đoán chừng là bữa sáng vì họ chết trước bữa trưa. Với Moreno và người vệ sĩ, Cooper tìm thấy nhiều vụn bánh, vết mứt cùng mẩu thịt hun khói, và hạt đa hương2 cùng một loại sốt tiêu chưa xác định trên áo khoác của ông phóng viên. Moreno và người vệ sĩ cũng có nhiều vệt nhỏ dầu thô trên giày, cổ tay áo và tay áo, có lẽ từ buổi gặp mặt hai người tham dự bên ngoài khách sạn vào ngày thứ Hai, không có nhiều nhà máy lọc dầu tại New Providence nên có thể họ đã dùng bữa tối cạnh bến tàu. Người vệ sĩ có một ít tàn thuốc trên sơ mi.

2 Hạt đa hương (Allspice): Còn gọi hạt tiêu Jamaica, có hương vị kết hợp của quế, nhục đậu khấu và đinh hương.

Thông tin này được ghi lên bảng và Rhyme chú ý mà không chú trọng đến thông tin nào trên đó, vì suy cho cùng, hung thủ cách họ hơn một cây số rưỡi khi bắn phát súng ấy. X165 đã ngụ tại khách sạn, nhưng cho dù hắn có lẻn vào chính Buồng Khử đi nữa thì cũng chẳng còn lại dấu vết gì.

Anh nói, “Bây giờ xem đến báo cáo giải phẫu tử thi.”

Cũng không có gì lạ ở đây. Moreno bị thiệt mạng vì một vết thương cực lớn do đạn bắn vào ngực, những nạn nhân còn lại chết vì mất máu do bị mảnh kính bay trong phòng rạch trúng nhiều chỗ. Những mảnh kính này có nhiều kích thước khác nhau, phần lớn rộng từ 3 đến 4 milimét, dài từ 2-3 phân.

Cooper xem qua các mẩu thuốc và giấy gói kẹo mà những nhân viên khám hiện trường ban đầu của Poitier tìm thấy trong Buồng Khử nhưng những thứ này không cho kết quả gì hữu dụng. Các mẩu thuốc đều cùng một hiệu với gói Marlboros tìm thấy trên xác người vệ sĩ, kẹo thì lấy từ giỏ quà dành cho Moreno khi anh ta đến khách sạn. Các dấu vân tay mà Pulaski đã lấy, không nằm ngoài dự đoán, đều trả về kết quả âm tính trong tất cả các cơ sở dữ liệu.

“Ta chuyển sang căn hộ của cô gái bán dâm. Annette Bodel.” Pulaski đã làm rất tốt khi thu thập được nhiều dấu vết gần những chỗ hung thủ đã lục lọi, cùng với các mẫu đối chứng để loại trừ bất cứ thứ gì xem ra không phải từ người hắn. Cooper quan sát các món này và, thi thoảng, chạy các mẫu qua máy sắc ký khí / máy phổ kế khối lượng (GC/MS). Cuối cùng anh thông báo, “Trước hết, ta tìm thấy nhiên liệu dành cho động cơ hai thì.”

Đây là động cơ loại nhỏ, hai thì, như động cơ trong xe trượt tuyết và cưa máy, trong đó nhớt bôi trơn được pha trực tiếp vào xăng.

“Chắc là mô tô nước”, Rhyme nói. “Nạn nhân làm việc bán thời gian trong một tiệm bán đồ lặn. Có thể không phải từ hung thủ nhưng chúng ta sẽ lưu ý đến chi tiết này.”

“Và cát nữa”, anh kỹ thuật viên thông báo. “Cùng với cặn nước biển.” Anh đối chiếu thành phần hóa học của các mẫu này với những thứ ghi trên bảng về hai hiện trường trước. “Chà, có thể nói đây cũng chính là chất Amelia tìm thấy tại quán Java Hut.”

Nghe xong, Rhyme nhướng mày. “Ha, một mối liên hệ chắc chắn giữa X165 và Bahamas. Ta biết hắn đã vào căn hộ của Annette và tôi chắc chắn 99% hắn là kẻ ngụ tại South Cove vào ngày 8 tháng 5. Vậy có chứng cứ nào liên kết hắn với Lydia Foster không?” Pulaski chỉ ra, “Tóc nâu, theo mô tả của hạ sĩ Poitier về kẻ có mặt tại khách sạn South Cove, kẻ đã ở đấy ngay trước khi Moreno bị giết.”

“Chi tiết này chỉ đề xuất khả năng đấy thôi, chứ chưa chứng minh được. Tiếp đi, Mel.”

Anh kỹ thuật viên đang nhìn chăm chăm qua ống soi của kính hiển vi. “Cái này lạ lùng đây. Một cái màng nào đó, màu cam. Tôi sẽ cho chạy một phần màng qua GC/MS.”

Vài phút sau anh ta đã có kết quả từ máy sắc ký khí / khối phổ kế.

Cooper đọc, “DHA, C22:6n-3 - axít docosahexaenoic.”

“Dầu cá”, Rhyme nói, mắt nhìn vào màn chiếu hình ảnh từ kính hiển vi. “Và với cái màng này, mọi người có thấy ở góc phải bên trên không? Tôi cho đây là trứng cá: trứng cá thường. Hoặc trứng cá muối.”

“Còn có ít C8H8O3 nữa”, Cooper nói.

“Tôi chịu”, Rhyme làu bàu.

Việc tra cứu mất ba mươi giây. “Vanillin.” “Chất chiết xuất từ vani ư?”

“Đúng vậy.”

“Thom! Thom, vào đây. Cậu đang ở nơi khỉ gió nào vậy?” Giọng cậu hộ lý dạt vào phòng. “Anh cần gì?”

“Cần cậu. Có mặt. Ở đây. Trong phòng.”

Xắn tay áo xuống, cậu hộ lý nhập bọn. “Tôi làm sao kháng lại được lệnh triệu tập lịch sự như thế chứ?”

Sachs cười.

Rhyme chau mày. “Nhìn chỗ biểu đồ kia đi, Thom. Vận dụng kỹ năng ẩm thực của cậu. Nói tôi biết suy nghĩ của cậu về những mục đấy, biết rằng axít docosahexaenoic và C8H8O3 lần lượt là trứng cá muối và vani.”

Cậu hộ lý đứng nhìn các biểu đồ một hồi. Mặt cậu chuyển thành một nụ cười. “Quen lắm… Chờ chút.” Cậu đi đến một máy tính gần đó rồi truy cập báo New York Times. Cậu duyệt mạng ít lâu. Rhyme không thấy chính xác cậu ta đang xem cái gì. “Chà, hay thật.”

“À, cậu chia sẻ cái đoạn hay đấy được không?”

“Hai hiện trường vụ án kia - Lydia Foster và Java Hut - có dấu vết của atisô và cam thảo, đúng không?”

“Đúng”, Cooper xác nhận.

Cậu xoay máy tính cho họ nhìn. “Chà, kết hợp những thành phần đấy với trứng cá muối và vani là ta có một món cực đắt tiền được phục vụ tại Patchwork Goose. Gần đây có bài báo viết về chính món này trong mục Ẩm thực đấy.”

“Patchwork… cái quái gì thế?” Sellitto làu bàu.

Sachs nói, “Đó là một trong những nhà hàng sang trọng nhất thành phố. Họ phục vụ bảy, tám món trong bốn tiếng, món nào cũng kèm rượu. Họ làm mấy thứ kỳ quặc như nấu bằng ni tơ lỏng và đèn khò. Dĩ nhiên là tôi chưa bao giờ đến đấy.”

“Đúng thế”, Thom vừa nói vừa hất đầu về phía màn hình. Đây có vẻ như là một công thức món ăn. “Và đó là một trong những món ấy: cá hồi ăn cùng atisô nấu trong nước lèo cam thảo và được trang trí bằng trứng cá và sốt trứng vani. Hung thủ của mọi người để lại lượng nhỏ những thành phần ư?”

“Đúng vậy”, Sachs nói.

Sellitto hỏi, “Vậy ra hắn làm việc trong nhà hàng ấy à?”

Thom lắc đầu. “Chắc không đâu. Ở những chỗ như thế, anh phải làm sáu ngày một tuần, mười hai giờ mỗi ngày. Hắn làm gì có thời gian làm sát thủ chuyên nghiệp được. Mà chắc hắn cũng chẳng phải là thực khách ở đấy. Tôi không nghĩ mấy thành phần đấy lại chuyển sang hoặc dính lại trên áo quần hắn hơn vài giờ đâu. Nhiều khả năng là hắn tự làm món này tại nhà. Từ công thức ở đây.”

“Tốt, tốt”, Rhyme thì thầm. “Bây giờ chúng ta biết X165 đến Bahamas vào ngày 15 tháng 5 để giết Annette Bodel, đặt bom tự chế tại Java Hut rồi giết Lydia Foster. Hắn có lẽ đã ở khách sạn South Cove ngay trước khi Moreno bị bắn. Hắn dọn đường cho Barry Shales ra tay.”

Sachs nói, “Và ta biết hắn thích nấu nướng. Có thể trước đây là dân nhà nghề. Chi tiết đấy biết đâu có ích.”

Cooper nhấc điện thoại lên bắt máy. Rhyme không nghe thấy điện thoại reo, anh không biết là do điện thoại để chế độ rung hay do tai anh còn bị ứ nước từ chuyến tắm biển. Mắt anh vẫn nhức nhiều lắm.

Anh kỹ thuật viên hiện trường vụ án cảm ơn người gọi rồi thông báo, “Chúng tôi đã cho phân tích lọn tóc nâu mà Amelia tìm thấy từ nhà của Lydia Foster. Vừa nãy là cuộc gọi báo kết quả từ CODIS. Không có thông tin. Dù kẻ giấu mặt này là ai đi nữa thì hắn cũng không có trong bất kỳ cơ sở dữ liệu ADN tội phạm nào.”

Khi Sachs viết những khám phá mới nhất của họ lên bảng trắng, Rhyme nói, “Giờ thì ta cũng có tiến triển rồi. Nhưng mấu chốt tóm Metzger là khẩu súng bắn tỉa và mấu chốt tìm ra khẩu súng là viên đạn. Ta xem viên đạn nào.”