• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Buồng khử
  3. Trang 66

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 65
  • 66
  • 67
  • More pages
  • 113
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 65
  • 66
  • 67
  • More pages
  • 113
  • Sau

Chương 57

Mặc dù người ta đã lấy mạng nhau bằng súng ống cả nghìn năm nay nhưng phân tích súng đạn về mặt pháp y vẫn là một ngành khoa học tương đối mới.

Bằng cách áp dụng ngành khoa học này - có thể nói là lần đầu tiên trên thế giới - các điều tra viên tại Anh vào giữa thế kỉ XIX đã buộc một hung thủ thú tội dựa trên cơ sở khớp một viên đạn với cái khuôn đúc ra nó. Năm 1902, một nhân chứng chuyên gia (chính là Oliver Wendell Holmes1) giúp công tố viên buộc tội một nghi can bằng cách khớp một viên đạn bắn thử từ súng của hung thủ với đầu đạn gây án.

1 Oliver Wendell Holmes (1841-1935): Luật gia người Mỹ, sau làm chánh án Tòa án Tối cao của Mỹ.

Tuy nhiên, tận đến khi Calvin Goddard, bác sĩ và nhà khoa học pháp y, xuất bản cuốn “Đạn đạo học pháp y” vào năm 1925, ngành khoa học này mới thực sự cất cánh. Goddard cho đến nay vẫn được xem là cha đẻ của khoa học đạn đạo.

Rhyme có ba mục tiêu khi áp dụng các quy tắc mà Goddard đã vạch ra cách đây chín mươi năm. Thứ nhất, xác định viên đạn. Thứ hai, từ thông tin đó xác định loại súng có thể đã bắn viên đạn này. Thứ ba, liên kết viên đạn cụ thể này với một khẩu súng cụ thể sử dụng loại đạn đó, từ đó có thể truy ra tay súng, trong trường hợp này là Barry Shales.

Cả đội giờ đây bắt đầu giải câu hỏi thứ nhất. Viên đạn.

Đeo găng và khẩu trang, Sachs mở túi ni lông chứa viên đạn, một khối chữ nhật thuôn bằng đồng và chì có hình thù bất thường. Cô nhìn sơ qua nó. “Một viên đạn lạ lùng. Bất thường. Thứ nhất, nó quá lớn - 19,5 gam.”

Trọng lượng của vật phóng bắn ra từ súng - gọi là đầu đạn - của phần nhiều súng săn, súng chiến đấu và kể cả súng bắn tỉa nhỏ hơn nhiều, khoảng 11,7 gam.

Cô đo viên đạn bằng một thiết bị đo nòng, một đĩa kim loại phẳng trên đóng nhiều lỗ có kích thước khác nhau. “Còn là cỡ hiếm gặp nữa. Lớn lắm. 10,67 li.”

Rhyme chau mày. “Không phải 10,57 à?” Đây là suy đoán ban đầu của anh khi thấy nó trong Buồng Khử. Cỡ 10,57 li là một cách tân mới đây của đạn súng trường, do hãng Barret Arms có tiếng thiết kế. Viên đạn loại này là một biến thể của cỡ 12,7 li được lính bắn tỉa khắp thế giới sử dụng. Trong khi một số quốc gia và các bang ở Mỹ đã cấm sử dụng cỡ 12,7 li cho mục đích dân dụng, cỡ 10,57 li vẫn hợp pháp ở hầu hết các nơi khác.

“Không, nhất định lớn hơn.” Nói rồi Sachs quan sát viên đạn bằng kính hiển vi, công suất thấp. “Và thiết kế rất tinh vi. Loại đầu rỗng bịt chóp nhựa - loại đạn spitzer cải tiến.”

Chẳng lạ gì khi các nhà sản xuất vũ khí bắt đầu tích hợp khí động học vào kiểu dáng các loại đạn trong khoảng thời gian máy bay được phát triển. Đạn spitzer - bắt nguồn từ một từ tiếng Đức có nghĩa là “đạn nhọn” - được phát triển cho mục đích bắn súng trường tầm xa. Nhờ kiểu dáng thon dài nên đạn rất chính xác. Nhược điểm duy nhất là đạn vẫn nguyên vẹn khi đâm vào mục tiêu nên sức công phá kém hơn hẳn đạn đầu lõm, có chóp tròn, luôn nở bung trong da thịt.

Một số nhà sản xuất đạn nghĩ ra cách ghép một chóp nhựa nhọn lên trên một đầu đạn lõm. Chóp này cho viên đạn kiểu dáng thon dài của đạn spitzer nhưng bung ra khi trúng mục tiêu, cho phép đầu đạn nở bung.

Đây là loại đạn Barry Shales đã dùng để sát hại Robert Moreno. Để hoàn chỉnh thiết kế thon dài này, cô nói thêm, viên đạn còn là loại đuôi thuyền - phần đuôi hẹp lại, hệt như thuyền buồm đua, để giảm lực cản khi đạn lao qua không khí.

Cô tóm tắt, “Viên này này lớn, nặng, chính xác hết sảy.” Đoạn cô hất đầu về phía tấm ảnh hiện trường chụp Moreno nằm sóng soài trên đi văng trong Buồng Khử, máu và mô túa ra từ sau lưng. “Và có sức công phá lớn.”

Cô cạo đầu đạn rồi phân tích một dấu tích thải - chất khí và những hạt thuốc còn sót lại sau khi thuốc súng bốc cháy. “Loại thượng hạng”, cô nói. “Hạt nổ có chất lượng tương tự diêm Federal 210, thuốc súng hiệu Hodgdon Extreme Extruded - được sản xuất với dung sai cao nhất. Đây là siêu đạn.”

“Ai sản xuất?” Đây là câu hỏi quan trọng.

Nhưng tìm kiếm trên Internet trả về rất ít kết quả. Không nhà sản xuất lớn nào như Winchester, Remington hay Federal chào bán và cũng không nhà bán lẻ nào nhập kho loại đạn này. Tuy nhiên, Sachs tìm thấy một vài chỗ đề cập đến sự tồn tại của loại đạn bí ẩn này trên một số diễn đàn súng ống ít ai biết và tìm ra rằng một công ty vũ khí tại New Jersey, Walker Defense Systems2, có thể chính là nhà sản xuất. Trang mạng của công ty này tiết lộ rằng, mặc dù Walker không làm súng trường, nó sản xuất một loại đạn spitzer đuôi thuyền 10,67 li bịt chóp nhựa.

2 Hệ Thống Phòng Thủ Walker.

Sachs nhìn Rhyme. “Họ chỉ bán cho quân đội, cảnh sát… và chính phủ liên bang.”

Mục tiêu đầu tiên đã được thỏa mãn, đặc điểm nhận biết viên đạn. Bây giờ cả đội chuyển sang tìm loại khí giới đã bắn viên đạn đó.

“Trước tiên”, Rhyme hỏi, “súng này thuộc loại cơ cấu bắn nào? Thoi nạp, bán tự động, ba phát liên thanh, tự động? Sachs, em nghĩ sao?”

“Lính bắn tỉa không bao giờ dùng loại tự động hoàn toàn hoặc liên thanh nhiều phát - rất khó cân bằng giữa độ giật liên tục và khoảng cách lớn. Nếu đây là loại thoi nạp thì hắn đã không bắn ba phát rồi. Nếu phát đầu trượt, hắn sẽ làm kinh động mục tiêu rồi mục tiêu sẽ tìm chỗ nấp. Em nghĩ là loại bán tự động.”

Sellitto nói. “Tìm ra cũng không khó lắm đâu. Nhất định chỉ có một, hai loại súng trên thế giới bắn được đạn như vậy. Khá đặc trưng.”

“Khá đặc trưng”, Rhyme thốt ra, kèm một chút mỉa mai. “Khác gì nói hơi có thai.”

“Linc”, Sellitto vui vẻ trả lời, “anh từng nghĩ đến chuyện dạy tiểu học chưa? Tụi nhỏ sẽ thích anh cho xem.”

Nhưng nghiêm túc mà nói, Rhyme biết Sellitto đúng. Viên đạn càng hiếm thì càng có ít loại súng bắn được. Như vậy sẽ dễ xác định khẩu súng trường này hơn và từ đó dễ truy ra nó đến Barry Shales hơn.

Hai đặc tính của một viên đạn có thể gắn nó với khẩu súng bắn ra: cỡ đạn, điều này thì họ đã biết, và hệ rãnh xoắn.

Tất cả nòng súng hiện đại đều có những chỗ trũng xoắn ốc tiện trong lòng súng để làm viên đạn xoáy, nhờ vậy nó di chuyển đến mục tiêu chính xác hơn. Đây gọi là hệ rãnh xoắn. Các nhà sản xuất súng tạo ra những chỗ trũng này - gọi là rãnh và gờ (phần nhô giữa hai rãnh) - theo nhiều cấu hình, tùy vào loại súng, đạn dành cho súng và mục đích của súng. Hệ rãnh xoắn, như tên gọi của nó, có thể xoáy viên đạn theo chiều kim đồng hồ hoặc ngược lại, và xoáy nhanh hay chậm tùy vào đầu đạn xoay trong nòng bao nhiêu lần.

Nhìn bề ngoài, đầu đạn này cho thấy súng của Barry Shales xoáy nó ngược chiều kim đồng hồ, cách 25,4 phân xoáy một lần.

Điều này là bất thường, Rhyme biết chắc như thế, vì các đường xoắn ốc thường sát với nhau hơn, với tỉ số 1:7 hoặc 1:8.

“Vậy đây là nòng dài, đúng không?” Rhyme hỏi Cooper. “Ừ. Dài lắm. Quái lạ.”

Với cỡ đạn và hệ rãnh xoắn hiếm hoi như thế, thường sẽ dễ cô lập những thương hiệu súng trường bán tự động sở hữu các đặc tính như thế. Các cơ sở dữ liệu đạn đạo sẽ gắn kết tất cả các thông tin này với nhau và một lệnh tìm kiếm đơn giản trên máy tính sẽ trả về kết quả trong vài giây.

Nhưng vụ án này chẳng có gì là bình thường.

Sachs ngước mắt khỏi máy tính nhìn lên rồi báo cáo, “Không có lấy một kết quả. Không có hồ sơ lưu về bất kỳ hãng vũ khí thương mại nào sản xuất súng trường như thế.”

“Ta còn biết được gì nữa từ khẩu súng?” Rhyme hỏi. “Xem qua số ảnh chụp hiện trường, xác của Moreno. Xem thử ta biết được gì không.”

Chuyên gia hiện trường đẩy mắt kính cao lên rồi đung đưa người tới lui trong khi quan sát những tấm ảnh rùng mình. Nếu trên đời này có người sở hữu nhãn quan pháp y, thì người đó là Mel Cooper. Thám tử này hiện là thành viên của Hiệp hội Quốc tế về Giám định, một tổ chức gần trăm tuổi, và anh có các chứng chỉ trình độ cao nhất từ Hiệp hội, trong tất cả các chuyên ngành: Nghệ thuật Pháp y, Phân tích Giày và Rãnh lốp xe, Nhiếp ảnh Pháp y, Dấu vân tay Mười ngón và Dấu vân Tiềm ẩn - cũng như Phân tích Kiểu vết máu, một sở thích cá nhân của cả Cooper lẫn Rhyme.

Anh đọc được ảnh hiện trường vụ án như cách bác sĩ đọc được tấm phim X quang. Anh bèn nói, “Ồ, xem đi, khoảng cách.” Anh chạm vào một tấm ảnh, chỉ ra chỗ máu, những mẩu thịt, xương trên đi văng lẫn chỗ sàn đằng sau nó. “Hắn bắn từ khoảng cách hơn 1.800 mét, đúng không?”

“Khoảng cỡ đấy”, Rhyme nói.

“Amelia, vận tốc thông thường của một viên đạn lớn cỡ vậy là bao nhiêu?”

Cô nhún vai. “Ra khỏi nòng với tốc độ tối đa là 825 mét/giây. Tốc độ lúc trúng mục tiêu thì tôi nghĩ là 550.”

Cooper lắc đầu. “Viên đạn này di chuyển với tốc độ hơn 910 mét/giây khi trúng Moreno.”

Sachs nói, “Thật hả?” “Khẳng định luôn.”

“Vậy thì quá nhanh. Chứng tỏ khẩu súng này có nòng đặc biệt dài và viên đạn được nạp rất nhiều thuốc súng. Thông thường một viên đạn cỡ đấy sẽ có 2,6 gam hay 2,7 gam thuốc phóng. Để đạt được tốc độ anh nói, tôi nghĩ lượng thuốc phóng sẽ gấp đôi, tức là hộp khóa nòng phải được gia cố.”

Đây là bộ phận của súng trường có nhiệm vụ giữ đạn để tiến hành bắn. Hộp khóa nòng dày hơn nòng nhằm chịu được áp suất ban đầu của các khí giãn nở trong nòng, để súng không nổ tung khi xạ thủ bóp cò.

“Có kết luận gì không?”

“Có”, Sachs nói. “Barry Shales, hoặc ai đấy ở NIOS, tự chế ra súng này.”

Rhyme nhăn mặt. “Vậy là không có cách nào truy ra NIOS hay Shales từ nơi bán của một khẩu có số xê ri bất kỳ rồi. Chết tiệt.”

Mục tiêu thứ ba của anh, liên kết viên đạn với Shales qua khí giới của hắn, đâm ra khó khăn hơn rất nhiều.

Sachs nói, “Chúng ta vẫn đang chờ Cục Thông tin gọi lại báo kết quả khai thác thông tin. Biết đâu họ tìm ra Shales đã mua cấu kiện súng hay đồ nghề cho súng.”

Rhyme nhún vai. “Chà, để xem viên đạn này còn cho ta biết được gì nữa. Mel, dấu vân tay thì sao?”

Dấu vân tay thực tế có thể vẫn còn lại sau khi viên đạn xuyên qua không trung, xuyên qua cơ thể và đôi khi xuyên qua cả tường.

Miễn là Barry Shales đã chạm vào viên đạn bằng ngón tay trần. Mà thực tế lại không phải vậy. Đeo kính bảo hộ, Sachs quét một thanh ánh sáng3 qua viên đạn. “Không có.”

3 Khi giám định pháp y, người ta soi ánh sáng có màu sắc và cường độ khác ánh sáng thường lên vật chứng nhằm phát hiện dấu vết tiềm ẩn.

“Còn dấu vết?”

Lúc này Cooper đang xem xét viên đạn. “Nhiều bụi thủy tinh từ cửa sổ.” Sau đó anh dùng nhíp gắp ra một vài hạt chất li ti. Anh quan sát các mẫu này kỹ càng dưới kính hiển vi. “Thực vật”, Rhyme đưa ra giả định khi nhìn vào màn hình.

“Phải, thật vậy”, anh kỹ thuật viên nói. Anh chạy một quy trình phân tích hóa học. “Đây là urushiol. Một dị nguyên gây kích ứng da.” Anh ngước lên. “Cây sơn độc chăng?”

“À, cây gỗ độc. Bên ngoài cửa sổ Buồng Khử. Viên đạn hẳn đã đi xuyên qua một cái lá trước khi trúng Moreno.”

Anh kỹ thuật viên cũng tìm thấy một chất sợi, giống hệt sợi vải trên sơ mi của Moreno, và nhiều lượng nhỏ máu khớp với nhóm máu của nhà hoạt động chính trị này.

Cooper nói, “Ngoài cái đấy và dấu tích thải ra thì chẳng còn thứ gì khác trên viên đạn.”

Rhyme xoay chiếc xe lăn mới của mình về phía chỗ bảng liệt kê chứng cứ. “Ron, phiền cậu cập nhật kiệt tác của chúng ta bằng nét chữ rồng bay phượng múa4 của cậu. Tôi cần phải nhãn quang bức tranh toàn cảnh”, anh đế thêm vì cảm thấy khó cưỡng lại cái thôi thúc dùng một chút biệt ngữ đặc trưng của người lãnh đạo hiện vắng mặt của họ, đại úy Bill Myers.

4 Rất ít người Mỹ biết cách viết chữ liền nét như người Việt, huống hồ viết đẹp. Hầu hết người Mỹ viết nét rời như chữ in và thường trong trường Công giáo mới có lớp dạy viết chữ liền nét.