Lincoln Rhyme đang phát biểu, “Và chính những chứng cứ cho thấy Shales có mặt tại New York vào thời điểm nổ súng tưởng sẽ gỡ tội cho hắn, giờ đây lại góp phần kết tội hắn dính líu đến vụ án: Các cuộc gọi từ điện thoại di động của hắn đến khách sạn South Cove để xác minh khi nào Moreno đăng ký phòng, chính dữ kiện này cho thấy hắn có mặt tại tổng bộ NIOS tại New York vào thời điểm gây án. Nhưng ta cần thêm chứng cứ. Ta cần chứng minh được hắn ngồi ngay tại cần điều khiển máy bay tự động. Máy bay không người lái mới đúng, xin lỗi cậu, tân binh. Chúng ta làm điều đó bằng cách nào?”
“Kiểm soát không lưu tại bang Florida và Bahamas”, Sachs nói.
“Tốt.”
Sachs gọi sĩ quan liên lạc cấp liên bang của họ, Fred Dellray, đưa ra yêu cầu này và trao đổi hồi lâu với anh. Cuối cùng Sachs ngắt máy. “Fred sẽ gọi cho Cục Hàng không Liên bang tại đây và Sở Hàng không Dân dụng tại Nassau. Nhưng anh ấy làm tôi nghĩ ra một ý khác.” Cô đang gõ trên máy tính của mình.
Rhyme không thấy rõ. Có vẻ như cô đang quan sát một bản đồ. “Chà”, cô thì thầm.
“Sao?” Rhyme thắc mắc.
“Fred đề xuất chúng ta nên xem thử chính cái Buồng Khử.” “Hả?” Sellitto thốt. “Xem thế nào?”
Bằng Google, có vẻ thế.
Sachs mỉm cười. Cô vừa mở lên một ảnh vệ tinh chụp dãy nhà nơi tổng bộ NIOS tọa lạc trong trung tâm Manhattan. Đằng sau tòa nhà này là một bãi xe, tách biệt với đường lộ bằng một hàng rào an ninh bề thế và nằm dưới sự giám sát của một trạm gác. Ở góc ảnh là một khối kiến trúc lớn hình chữ nhật, như một công-te-nơ chở hàng - loại chốt chặt vào sàn sau và chạy thư thả đằng sau xe đầu kéo dọc đường cao tốc. Sát bên nó là một ăng-ten dài ba mét chĩa lên trời.
“Đấy là Trạm Điều khiển Mặt đất, theo như Fred nói. Gọi là GCS. Anh ấy nói phần nhiều các máy bay không người lái được điều khiển từ các trạm lưu động như vậy.”
“Buồng Khử”, Mel Cooper nói.
“Tuyệt”, Laurel nhanh nhảu bảo Sachs. “Phiền cô in ảnh đấy ra.”
Rhyme thấy Sachs bực dọc, do dự và rồi bằng ngón cái và một ngón khác - sau móng có một chấm máu khô - gõ mạnh lên bàn phím. Máy in bắt đầu thở ra rè rè.
Khi tài liệu được nhả ra, Laurel nhẹ tay lấy ra khỏi khay giấy rồi thêm vào hồ sơ của mình.
Điện thoại của Sachs reo. “Lại là Fred”, cô thông báo. Cô nhấn nút loa ngoài.
Rhyme gọi, “Fred. Đừng sỉ nhục ai đấy.”
“Tôi nghe rồi. Chà, chà, mấy anh chị có một vụ án khó nhằn đây. Chúc may mắn nhé. Này, có thấy chiếc máy bay nào nhìn ngồ ngộ lướt bên ngoài cửa sổ không? Nên tính đến chuyện kéo rèm lại đi là vừa.”
Rhyme nhận định chuyện này chẳng có gì là ngồ ngộ như Dellray tưởng, trước kỹ năng bắn đạn triệu đô của Barry Shales. “Ôkê, sự vụ về ra-đa. Đã gửi cho mọi người ảnh chụp màn hình. Theo chúng tôi đánh giá, vào sáng ngày 9 tháng 5 một chiếc máy bay nhỏ, không phát tín hiệu tiếp sóng, bị truy dấu là bay về hướng đông băng qua Đại Tây Dương, phía nam bang Miami.”
“Là nơi đặt căn cứ không quân Homestead”, Sellitto chỉ ra. “Đúng rồi. Chiếc máy bay này sử dụng quy tắc bay trực quan1, không có kế hoạch bay. Tốc độ rất chậm - khoảng 177 kilômét/giờ.
1 Quy tắc bay trực quan: Phi công định hướng bay bằng cách quan sát đường chân trời, địa hình và các máy bay khác trong điều kiện thời tiết quang đãng và tầm nhìn không bị khuất. Ngược lại là Quy tắc bay bằng thiết bị, trong đó phi công dựa vào các dữ kiện điện tử để định vị khi tầm nhìn không rõ.
Đây là tốc độ điển hình của máy bay không người lái. Chúng ta thông điểm này chưa?”
“Rồi, Fred. Nói tiếp đi.”
“Ừm, từ Miami đến Nassau cách khoảng 290 kilômét. Đúng một tiếng năm mươi hai phút sau, kiểm soát không lưu tại Nassau theo dõi thấy một máy bay nhỏ, không phát tín hiệu tiếp sóng, bay cao lên vào tầm ra-đa, khoảng 180 mét.” Dellray ngừng nói. “Rồi nó chững lại.”
“Chững lại?”
“Họ tưởng nó chết máy. Nhưng nó lại không rớt khỏi tầm theo dõi.”
“Nó bay lơ lửng”, Rhyme nói.
“Tôi cũng đoán vậy. Họ phát hiện không có bộ tiếp sóng nên chiếc này là dạng máy bay siêu nhẹ - mấy thứ đồ chơi công nghệ tự chế mà thi thoảng đậu như chim trong gió ngược chiều đấy. Chiếc này không nằm trong không phận được kiểm soát nên họ không quan tâm gì hơn. Khi ấy là 11 giờ 4 phút sáng.”
“Moreno bị bắn lúc 11 giờ 16 phút”, Sachs nói.
“Và vào lúc 11 giờ 18 phút, nó quay đầu lại rồi hạ xuống khỏi tầm ra-đa. Hai tiếng năm phút sau, một chiếc máy bay nhỏ, không phát tín hiệu tiếp sóng, đi vào không phận Mỹ rồi hướng về Nam Miami.”
“Chính là tên hung thủ”, Rhyme nói. “Cảm ơn Fred.” “Chúc mayyyy mắn. Và coi như chưa hề quen tôi nhé.” Cạch.
Chưa thể kết luận được gì nhưng như tất cả các yếu tố trong một vụ án, đây là một viên gạch vững chắc trong bức tường thiết lập tội trạng của nghi can.
Nance Laurel có điện thoại. Trong khi người khác có lẽ đã gật gù hoặc để lộ ra những manh mối trên mặt về nội dung cuộc gọi, cô ta lại lắng nghe không chút biểu cảm, gương mặt đầy phấn chính là chiếc mặt nạ. Cô ta ngắt máy. “Có vấn đề với một vụ án khác của tôi. Tôi phải đi thẩm vấn một tù nhân đang bị tạm giam. Chắc không mất nhiều thời gian đâu. Tôi muốn ở lại lắm nhưng phải đi lo vụ này.”
Cô công tố viên gom lại chiếc túi xách rồi đi về phía cửa. Sachs cũng nhận được một cú điện thoại. Cô nghe máy rồi ghi chép nhanh một vài điều.
Rhyme quay lưng khỏi cô và nghiên cứu các sơ đồ một lần nữa. “Nhưng tôi muốn thêm”, anh kêu ca. “Muốn thứ gì đấy chứng minh Shales đang ngồi tại bảng điều khiển của cái máy bay ấy.”
“Cầu gì được nấy.” Amelia Sachs nói.
Rhyme nhướng mày.
Cô nói, “Chúng ta có manh mối tìm ra người tố giác. Nếu có người có thể chứng minh Barry Shales có mặt trong Buồng Khử vào ngày 9 tháng 5, thì đó chính là người này.”
***
Sachs Thông báo rằng nhóm cảnh sát của đại úy Myers bấy lâu đã khảo sát những khách có mặt tại quán Java Hut khi người tố giác tải lên chỉ lệnh STO và đã tìm thấy một vài nhân chứng.
Máy tính của cô kêu lên một tiếng be rồi cô nhìn về màn hình. “Tới rồi”, cô nói.
Sellitto cười phá lên một cách chói tai. “Xin lỗi chứ, dùng từ như thế trong trường hợp này là vụng đấy.”
Cô mở tệp đính kèm. “Thời buổi này người ta mua hàng bằng thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ nhiều lắm. Cho dù hóa đơn chỉ ba, bốn đô la. Nhưng thế lại được việc cho chúng ta. Nhóm khảo sát đã nói chuyện với tất cả những người thanh toán bằng thẻ vào khoảng 1 giờ chiều vào ngày 11. Phần lớn không thu thập được gì nhưng một người trong số này có chụp ảnh.” Cô in ra số ảnh chụp đính kèm. Không tệ, cô nhận định, nhưng phần nhiều đều không phải ảnh nhân diện phân giải cao. “Nhất định là gã.”
Cô đọc ghi chú của sĩ quan gửi email. “‘Người chụp là một du khách đến từ Ohio. Chụp ảnh vợ mình ngồi đối diện. Cô có thể thấy ngoài nền có một người đàn ông, bị mờ - bởi vì gã đang quay nhanh người đi và đưa tay lên che mặt. Đã hỏi các du khách xem họ có thấy rõ gã hơn không. Họ nói không, còn các khách khác và nhân viên pha chế thì không để ý gì đến gã.’”
Rhyme nhìn tấm ảnh. Cách lưng người phụ nữ đang cười hai chiếc bàn có lẽ là người tố giác. Da trắng. Vóc dáng cứng cáp, mặc com lê xanh lam, một màu lạ lẫm, hơi giống xanh hải quân nhạt. Gã đội mũ lưỡi trai - đáng ngờ, vì trên người lại mặc quần áo doanh nhân - nhưng hình như tóc màu nhạt. Một chiếc laptop đặt mở trước mặt gã.
“Chính là gã”, Sachs nói. “Gã có máy iBook.” Trước đó cô đã tải về ảnh của mọi dòng máy.
Nhà khoa học hình sự nhận xét, “Com lê không vừa người lắm. Loại rẻ tiền. Có thấy mấy gói đường Splenda trên bàn, cùng với thìa khuấy không? Chứng tỏ gã là người chúng ta cần.”
“Tại sao?” Sellitto hỏi. “Tôi dùng Splenda đây này.”
“Không phải cái chất đấy - mà là chi tiết nó nằm trên bàn. Phần lớn mọi người thêm đường hay chất tạo ngọt tại chỗ lấy sữa rồi vứt gói rỗng đi, và cả thìa khuấy nữa. Để bàn ít bừa bộn. Gã thì lại mang rác theo. Không muốn để lại chứng cứ vân tay đây mà.”
Phần nhiều các vật thể, kể cả giấy, giữ lại vân tay rất tốt ở những nơi phục vụ thức ăn do dầu mỡ còn sót lại từ bữa ăn.
“Còn điều gì khác ở gã nữa không?” Pulaski hỏi. “Cậu nói tôi nghe xem, tân binh.”
Cậu cảnh sát nói, “Xem cách gã giơ bàn tay phải kìa, lòng bàn tay cuộn ngửa lên trên? Có thể gã sắp uống thuốc. Có thể là thuốc nhức đầu, đau lưng. Khoan, nhìn kìa, có một cái hộp. Phải là hộp không? Một cái hộp nằm bên hông bàn?”
Hình như quả là có một cái hộp. Màu xanh lam và vàng kim. Rhyme nói, “Tốt. Chắc cậu nói đúng. Và để ý gã đang uống trà - có thấy túi trà trong khăn ăn không? - trong quán cà phê mà uống trà? Nhìn nhợt nhạt. Có lẽ là trà thảo dược. Cũng không có gì lạ nhưng có thể suy luận hợp lý là gã có vấn đề về bao tử. Kiểm tra những hộp thuốc nào có hai màu, công dụng chống thừa axít, trào ngược dịch vị, khó tiêu.”
Một lát sau Cooper nói, “Có thể là Zantac, loại dược lực mạnh nhất. Khó nói lắm.”
“Không hẳn chuyện gì cũng cần câu trả lời chắc chắn đâu”, Rhyme nói khẽ. “Ta cần phương hướng là được. Vậy nên có thể gã bị yếu bụng.”
“Do căng thẳng vì rò rỉ tài liệu mật của chính phủ đấy”, Mel Cooper lên tiếng.
“Tuổi?” Rhyme thắc mắc.
“Không biết được”, cậu cảnh sát đáp. “Sao biết được đây?” “Chặc, tôi có bảo cậu chơi trò chơi ở hội chợ đâu, tân binh. Ta thấy gã béo lùn, ta thấy gã có vấn đề về dạ dày. Tóc có thể màu vàng, cũng có thể màu xám. Cách ăn mặc bảo thủ. Nên có thể suy đoán hợp lý là gã ít nhất phải ở độ tuổi trung niên.”
“Đúng thật. Tôi hiểu rồi.”
“Còn tư thế của gã nữa. Tư thế chuẩn, mặc dù gã không còn trẻ. Cho thấy lai lịch quân đội. Hoặc có thể còn tại ngũ nhưng ăn mặc như dân thường.”
Họ nhìn chằm chằm vào tấm ảnh và Sachs bỗng thắc mắc, Tại sao ông lại rò rỉ chỉ lệnh khử? Có lợi gì cho ông?
Một người có lương tâm…
Mà ông là người yêu nước hay kẻ phản bội?
Cô cũng thắc mắc: Và ông đang ở nơi quái nào đây?
Sellitto nhận một cú điện thoại. Sachs để ý thấy mặt anh chuyển từ tò mò sang tối sầm. Anh ta liếc nhìn những người còn lại trong phòng, đoạn quay người đi.
Bây giờ anh ta đang thì thầm: “Hả?... Chết tiệt. Cô nói khơi khơi như vậy sao được. Tôi cần chi tiết.”
Mọi người đang nhìn anh ta chằm chằm.
“Ai? Tôi muốn biết ai. Được rồi, tìm hiểu đi rồi cho tôi biết.”
Anh ta ngắt máy rồi liếc mắt về hướng Sachs, nhưng không nhìn thẳng vào cô, cho thấy cô là đề tài của cuộc gọi.
“Sao hả, Lon?”
“Cô nên ra ngoài.” Anh ta hất đầu về lối hành lang.
Sachs liếc nhìn Rhyme rồi nói, “Không, nói ở đây đi. Chuyện gì vậy? Ai gọi vậy?”
Anh ta do dự.
“Lon”, cô cương quyết nói. “Nói cho tôi biết đi.”
“Được rồi, Amelia, tôi xin lỗi. Cô không được tham gia vụ án nữa.”
“Hả?”
“Thật ra, phải nói là, cô phải nghỉ phép bắt buộc. Cô phải báo cáo xuống…”
“Chuyện gì vậy?” Rhyme quát.
“Tôi không biết chắc nữa. Vừa nãy là trợ lý của tôi. Cô ấy bảo tôi là chánh văn phòng thám tử nhắn như vậy. Bản báo cáo chính thức đang trên đường tới. Tôi chả biết ai nằm đằng sau vụ này.”
“Ồ, tôi biết đấy”, Sachs quát lên. Cô mở toạc bóp của mình rồi nhìn vào trong để chắc chắn mình có bản sao tài liệu mà cô đã tìm thấy trên bàn của Nance Laurel vào đêm kia. Vào thời điểm đó, cô còn do dự không muốn quơ nó lên làm vũ khí.
Bây giờ cô còn ngại gì.