Trong thập kỉ qua, sự hiểu biết của chúng ta về tâm lý học, về sự phát triển não bộ và sự phát triển của con người nhiều hơn tất cả những chủ đề cơ bản khác được đề cập tới trong cuốn sách này. Thật thú vị khi thấy rằng chúng ta mới chỉ bắt đầu bàn về các nghiên cứu liên ngành (cross-discipline) và sự hợp tác liên ngành cách đây 20 năm thôi. Erikson là người có khả năng phát triển lý thuyết về các giai đoạn của ông chỉ thuần túy dựa trên góc nhìn tâm lý học. Khi tôi đếm lại số lần tôi đã đề cập tới công trình của các nhà xã hội học, các chuyên gia về truyền thông và những chuyên gia khác trong lúc chỉnh sửa lại tác phẩm này, tôi đã kinh ngạc về độ phức tạp nằm ở công việc của chúng ta với trẻ em trong một vài thập kỉ trước đây.
Ngày nay chúng ta không thể đề cập tới sự phát triển tâm lý mà lại không chú ý tới văn hóa, cộng đồng, sức khỏe thể chất và tinh thần cũng như những biến đổi trong cấu trúc gia đình. Điều này không có nghĩa là đến nay công trình của Erikson đã lỗi thời và không còn giúp ích gì cho chúng ta trong việc hiểu biết về sự phát triển cảm xúc của trẻ nhỏ nữa. Mà nó muốn nói rằng chúng ta phải dùng nhiều lăng kính rộng mở hơn khi xem xét những biến đổi. Khi Erikson tiến hành nghiên cứu về các giai đoạn phát triển, sự hiểu biết về trẻ nhỏ trong thời kì đó còn rất hạn chế. Ông thấy cần khuyến khích người lớn phải bế ẵm trẻ khi cho trẻ bú ngay từ khi ở Hoa Kỳ rộ lên xu hướng cho ăn bằng bình bú và hãng Madison Avenue thúc đẩy xu hướng dùng bình bú để giải phóng thời gian và đôi tay người mẹ.
Ông nhắc nhở người lớn rằng sự tin tưởng của trẻ được hình thành khi người lớn đáp ứng lại ngay lập tức mỗi khi trẻ khóc, trong khi xu hướng đám đông cho rằng nếu trẻ đã được tắm rửa sạch sẽ và ăn no rồi thì người lớn có thể rảnh tay đi ngủ mà không cần chú ý gì tới trẻ. Erikson thuyết phục các bậc cha mẹ cần hiểu rằng trẻ ở độ tuổi lên hai cần khẳng định sự độc lập của chúng và đôi khi điều này có thể dẫn tới khủng hoảng. Đó cũng là thời điểm khi Benjamin Spock1 cảnh báo các bậc cha mẹ về việc trẻ sẽ thống trị trong gia đình nếu không có những biện pháp dạy dỗ nghiêm khắc. Đó cũng là thời điểm khi các bậc cha mẹ của trẻ lên 6 tuổi rất xúc động khi con họ học những chữ cái ABC lúc vào lớp Một – và thời đó không đứa trẻ nào ở tuổi mang tã lại biết chơi violin hay đi học bơi cả.
1 Benjamin Spock (1903 – 1998) là bác sĩ nhi khoa người Mỹ, tác giả của cuốn sách nổi tiếng Baby and Child Care (Trẻ em và chăm sóc trẻ em).
Vậy nên một lần nữa, chúng ta cần thận trọng và giữ góc nhìn cân bằng khi nhìn nhận về tâm lý giáo dục và thực tiễn hàng ngày. Có lẽ phần mới nhất của sự thách đố này là chúng ta hiểu biết hơn về việc những thực hành mà chúng ta thực hiện với trẻ em đã trở nên cực đoan như thế nào. Ở đây tôi đang đề cập tới những thay đổi đã được Polly Young- Eisendrath (2008) và những người khác quan sát thấy, về việc các bậc cha mẹ cố gắng phát triển lòng tự trọng tích cực bằng bất cứ giá nào cho con họ, và ở Hoa Kỳ có rất nhiều gia đình trẻ điều khiển mọi việc chứ không phải cha mẹ, và họ quan sát thấy rằng những tiêu chí giáo dục đang tạo ra một định hướng mà các nhà giáo dục học được đào tạo cẩn thận đều biết rằng nó trái ngược với sự phát triển lành mạnh của trẻ. Với những người dưới 40 tuổi thì đoạn tham chiếu ở trên muốn nói rằng khoảng 50 năm trước đây các bậc cha mẹ và giáo viên sẽ vui mừng lắm nếu các em bé lớp Một học được bảng chữ cái ABC. Còn với những người không làm việc về những hoạt động thường ngày trong các chương trình giáo dục dành cho trẻ nhỏ, chắc sẽ rất sốc khi biết rằng những đứa trẻ thường là ông chủ của cha mẹ chúng sau một ngày học ở nhà trẻ. Lũ trẻ là người sẽ nói địa điểm ăn tối ở đâu và quyết định đứa bạn nào sẽ tới chơi với chúng vào cuối tuần. Những người làm việc hàng ngày với trẻ nhỏ như chúng ta thường thấy rằng các bậc cha mẹ bị trẻ lấn lướt, sau cùng phải nhượng bộ những yêu sách này của chúng.
Ở Hoa Kỳ, nhiều gia đình trẻ hiện nay sống cô lập hơn về mặt xã hội so với hầu hết các gia đình cách đây một thế kỉ. Cả cha mẹ đều bận đi làm, hơn nữa tại Mỹ, không có chính sách thai sản cho cha mẹ1, nên hầu hết các bậc cha mẹ đều không có cơ hội quan sát và sống cùng con cái cả ngày trong khoảng một vài tuần. Điều này khiến họ không dễ dàng cảm nhận được khả năng làm cha làm mẹ của mình. Các chương trình đào tạo giáo viên dành cho giáo viên mầm non cần tăng cường “hỗ trợ gia đình” trong chương trình đào tạo. Chúng ta cần yêu cầu các trường chú ý tới nhu cầu phát triển, nhu cầu đặc thù cá nhân của trẻ nhỏ và những hoạt động phù hợp với sự phát triển trong những năm tháng đầu đời này. Vì lý do này, những người làm việc trong lĩnh vực giáo dục như chúng ta cần sát cánh bên nhau để ứng phó với những biến đổi về mặt xã hội và sư phạm có tác động tới công việc của chúng ta. Chúng ta cần xem xét lại nền tảng lý thuyết để có được những lý thuyết thích hợp và đúng đắn với phương pháp hướng dẫn mang tính cá nhân hóa, với hoạt động vui chơi ngoài trời cũng như những phần quan trọng khác trong sự phát triển và trưởng thành của trẻ nhỏ, thứ đang nằm trong tình trạng đầy nguy cơ trong văn hóa sống tại Hoa Kỳ hiện nay.
1 Mỹ là nước có kỳ nghỉ thai sản ngắn nhất trong các quốc gia phát triển. Người Mỹ không nghỉ thai sản, sinh con xong có thể đi làm ngay hoặc có thể nghỉ thai sản 12 tuần không hưởng lương.