• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Các lý thuyết về trẻ em của Dewey, Montessori, Erikson, Piaget và Vygotsky
  3. Trang 36

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 35
  • 36
  • 37
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 35
  • 36
  • 37
  • More pages
  • 60
  • Sau

Sáng tạo đối lập với mặc cảm tội lỗi

Giai đoạn thứ ba và cũng là giai đoạn cuối cùng trong lý thuyết của Erikson bàn tới những năm thơ ấu đầu đời là giai đoạn sáng tạo đối lập với mặc cảm tội lỗi. Hầu hết các trẻ ở độ tuổi lên bốn, lên năm đều thuộc giai đoạn này, bởi vậy đây là giai đoạn chủ chốt mà các giáo viên mầm non cần hiểu rõ. Nhiệm vụ phát triển của giai đoạn này là thu được cảm thức về tính mục đích.

Erikson mô tả trẻ ở giai đoạn này tràn đầy năng lượng và sẵn sàng học hỏi. Trẻ đang phát triển trong giai đoạn này thường quên rất nhanh những lỗi sai chúng mắc phải. Chúng luôn sẵn sàng lắng nghe và học hỏi từ giáo viên, từ cha mẹ và từ những trẻ khác. Ở giai đoạn này, trẻ phát triển theo hướng giúp chúng tập trung tích cực và đỡ bướng bỉnh hơn. Khi trẻ vượt qua giai đoạn thứ hai thành công, chúng đã xây dựng được tính tự chủ, nên chúng sẽ hướng đến việc làm thế nào để mọi việc được hoàn thành hơn là làm vì sự kiểm soát cá nhân mình. Khi trẻ hoàn thành nhiệm vụ phát triển trong giai đoạn này, chúng sẽ có được sự tự tin và năng lực. Chúng sẽ tin tưởng rằng mình có thể lập kế hoạch và hoàn thành nhiệm vụ một cách độc lập1. Chúng sẽ có khả năng đương đầu và học hỏi từ những sai lầm mà không cảm thấy tội lỗi về những thứ không diễn ra theo đúng kế hoạch.

1 Khi hiểu được điều này, người lớn sẽ có cái nhìn khác với những hoạt động tưởng chừng như vớ vẩn hoặc kì cục của trẻ. Khi trẻ mải mê chơi với đồ chơi, với những kế hoạch hoặc nhiệm vụ chúng lập ra là khi chúng đang học dần những năng lực rất cần thiết đối với mỗi người lớn sau này khi gia nhập vào môi trường xã hội rộng lớn hơn. Thế giới huyễn tưởng (fantasies) đó của trẻ là cầu nối giúp chúng vươn tới thực tại (reality) sau này. (ND)

Thoạt nhìn, giai đoạn này có vẻ dễ dàng hơn rất nhiều đối với những người lớn chăm sóc trẻ so với hai giai đoạn trước. Một phần là nhờ trẻ đã phát triển được năng lực nhận thức và thể chất. Nhiệm vụ phát triển của trẻ trong giai đoạn này cũng không đòi hỏi người lớn phải tốn nhiều năng lượng với trẻ nữa. Hơn nữa trẻ ở giai đoạn này cũng ít có hành vi gây hấn hơn so với giai đoạn chập chững. Tuy nhiên theo Erikson đây là thời điểm sự phát triển của trẻ có thể bị phân tách ra thành một trong hai hướng sau: đạt được năng lực mang tính đặc thù của con người hướng tới vinh quang hoặc dẫn tới hủy diệt.a13 Nếu chúng ta khuyến khích trẻ ở độ tuổi mầm non sử dụng năng lượng của mình vào những hoạt động tích cực và mang tính tham dự gắn kết, sự tự tin của trẻ sẽ được tăng cường. Năng lực của trẻ cũng được củng cố. Còn nếu chúng ta làm thay trẻ những thứ trẻ có thể tự làm được hay nếu chúng ta để ý vào những lỗi sai trẻ mắc phải trong quá trình phát triển những kĩ năng mới thì cảm thức về tính sáng tạo của trẻ sẽ biến thành mặc cảm tội lỗi và chán nản. Một lần nữa, cũng như chúng ta đã xem xét lại khái niệm về sự phát triển độc lập ở chương trước, ở đây chúng ta cũng cần làm thế. Hiện nay có vẻ như chúng ta đã ít xét nét những lỗi sai của trẻ theo cách tiêu cực. Tuy nhiên (như đã được nói tới ở phần trước) các bậc cha mẹ lại đang có xu hướng làm thay cho trẻ những gì chúng có thể tự làm được.

Tất nhiên, hầu hết các giáo viên đều không cố tình chú ý vào lỗi sai thay vì chú ý vào những thành công của trẻ. Tuy nhiên theo Erikson, khi các giáo viên cứ quanh quẩn gần giá vẽ, lau sạch ngay từng vết màu bị vương xuống thì trẻ sẽ dễ cảm thấy mất tự tin vào năng lực của mình và không dám mạnh dạn trong học tập nữa. Một lần nọ tôi quan sát một giáo viên rất giỏi về côn trùng, về nghề nông và các loài chim. Nhưng bất kể khi nào trẻ chơi với nước hoặc cát là cô lại khó chịu. Một buổi sáng nọ tôi thấy cô đi lau ngay khi cát rớt khỏi bàn nghịch cát của học sinh. Cô cứ quanh quẩn bên bàn cát với khăn lau, lau sạch ngay từng hạt cát bị rớt xuống sàn. Cô luôn mỉm cười với các em học sinh. Cô không bao giờ nói: “Cẩn thận! Cẩn thận! Đừng làm tràn nước ra! Đừng để rớt cát ra!” Nhưng sự thận trọng thái quá của cô đã bộc lộ một thông điệp rõ ràng về sự không chấp nhận. Các em học sinh trong lớp đó không mấy khi dùng tới bàn nghịch nước và bàn nghịch cát. Thật khó để chúng cảm thấy thoải mái vui chơi khi gặp phải hành vi của giáo viên đó.

Khi trẻ bị kì vọng những điều vượt quá khả năng của chúng trong giai đoạn này, chúng sẽ không có cách nào để nhận biết rằng mục tiêu mà người lớn đặt ra cho chúng là không thích hợp. Có thể chúng sẽ phản ứng lại theo hai cách. Một cách vô thức chúng có thể quyết định rằng chúng không có chút khả năng nào và sẽ từ bỏ nhiệm vụ. Hoặc chúng sẽ cố nỗ lực vượt quá khả năng của mình và thành công. Những đứa trẻ này chú ý tới mọi qui tắc, đáp ứng mọi nhu cầu và dường như xử lý mọi thứ đều tốt đẹp. Có thể các bạn sẽ hỏi rằng: “Điều này có gì sai sao? Có vấn đề gì với những đứa bé đạt được thành tựu quá lớn hay những đứa bé làm việc chăm chỉ sao?” Vấn đề là những đứa trẻ này thường sẽ nhận thức rằng giá trị của mình là thứ được đo bằng những gì chúng làm (by what) thay vì chúng thực sự là ai (by who)1. Tính sáng tạo của các em có thể không bị tổn hại, nhưng có thể các em vẫn phải gánh gánh nặng của cảm giác tội lỗi và thiếu năng lực. Các em sẽ phải trả một cái giá về mặt cảm xúc cho sự thành công trong việc thích ứng đối với những kì vọng vô lý.

1 Đây là điểm cực kì quan trọng! Trong lao động trẻ sẽ dần nhận ra được giá trị cũng như những ý nghĩa tồn tại của mình. Những hoạt động của trẻ trong thời kì này nói riêng (và cũng như hầu hết các hoạt động khác của người lớn sau này) đều có chức năng chính là giúp chủ thể hoạt động nhận biết được giá trị tồn tại và con người thực sự của mình chứ không phải hướng đến sự đáp ứng kì vọng của người khác và lấy các tiêu chí hoặc thành quả bên ngoài mình ra để nhận định về giá trị của bản thân (và sau này là nhận định về người khác/việc/vật khác). Nếu bị giáo dục theo cách ép buộc đó, ở lứa tuổi nhỏ các em có thể tự đánh giá mình qua cái mà các em đạt được (what) thay vì các em được là ai (who) qua hoạt động, còn người lớn sẽ đánh giá bản thân (và người khác) thông qua những giá trị trung gian biểu trưng cho những thành quả đó, đó là Tiền, là Danh vọng xã hội.. mà đôi khi không có giá trị thực chất, không đem lại ý nghĩa sống thực sự cho bản thân họ. (ND).

Tác phẩm Sự điên rồ hoàn hảo: Tình mẹ trong kỉ nguyên của lo âu1 của Judith Warner đã ghi nhận về áp lực mà các bậc cha mẹ ở tầng lớp trung lưu hiện nay tại Hoa Kỳ cảm thấy trong việc họ phải “giúp” con mình thành công tại những cuộc thi đua quá mức trong lĩnh vực học hành và xã hội. Các bậc cha mẹ này không chỉ áp đặt kì vọng vô lý lên con cái, mà họ còn tiếp tay cho áp lực đó bằng cách làm thay bài tập về nhà cho con hoặc “giúp đỡ” con thay vì để cho con phát triển theo nhịp độ của riêng chúng. Theo lý thuyết của Erikson và của một số tác giả hiện thời như Warner và Young-Eisendrath, đây là một phương thức tạo nên hiểm họa.

1 Perfect Madness: Motherhood in the Age of Anxiety

Để hỗ trợ trẻ phát triển khả năng sáng tạo của mình trong giai đoạn thứ ba này, Erikson cho rằng các giáo viên có thể:

• Khuyến khích trẻ tự lập tối đa có thể;

• Tập trung chú ý vào thành quả mà trẻ đạt được khi trẻ thực hành kĩ năng mới, chứ không phải vào những lỗi sai mà các em mắc phải trong quá trình thực hiện;

• Đặt ra các kì vọng phù hợp với khả năng riêng của trẻ; và

• Xây dựng chương trình học tập trung vào thực tế và vào việc thực hiện hoạt động.

Khuyến khích sự tự lập

Cũng như với Montessori, nếu các giáo viên muốn áp dụng những hiểu biết về sự phát triển của trẻ nhỏ theo Erikson vào công việc thường ngày của họ với trẻ thì họ sẽ phải tạo nên các lớp học nơi trẻ có thể tự làm mọi thứ. Các vật dụng và trang bị phải dễ lấy đối với trẻ, được sắp xếp sao cho trẻ có thể tìm thấy những gì chúng cần và có thể trả lại chỗ cũ khi đã làm xong việc. Trẻ sẽ biết chỗ nào có thể tìm thấy xô, bọt biển và khăn giấy để lau dọn khi cần. Những bữa ăn theo kiểu gia đình sẽ tạo cơ hội cho trẻ biết cách tự phục vụ bản thân, biết cầm bình sữa để rót dù các em có thể làm tràn ra ngoài và có thể lau dọn sau khi dùng xong bữa.

Chú ý vào thành quả chứ không chú ý vào lỗi sai

Theo Erikson, trẻ mẫu giáo cần một thông điệp chắc chắn từ chúng ta rằng chúng ta để ý tới tính sáng tạo của trẻ một cách nghiêm túc. Trẻ cần biết rằng việc các em làm quan trọng hơn nhiều so với sự bừa bộn hoặc những lỗi sai các em có thể mắc phải. Ví dụ năm kia tôi quan sát một giáo viên tên là Susan, người thường nói với các em học sinh của mình rằng: “Cuộc sống là một hành trình!1” Cô hiểu rằng đôi khi lũ trẻ cần một không gian để vạch kế hoạch trong một khoảng thời gian nhất định, cho đến khi chúng quyết định quay trở lại làm việc. Cô khuyến khích trẻ viết ra những câu chuyện, và các học trò 5 tuổi của cô đã biết như thế nào là một người biên tập. Chúng không sợ mắc lỗi sai vì sau cùng đó chỉ là một lần thử mà thôi. Đôi khi Susan hỏi những người lớn khác trong phòng cách phát âm một từ, hoặc hỏi mười nhân mười một bằng bao nhiêu, để làm mẫu rằng các giáo viên không phải luôn biết mọi thứ, giáo viên cũng cần sự trợ giúp từ người khác, cũng có lúc quên và cũng có thể mắc lỗi. Cô chỉ ra rất nhanh cho trẻ thấy những điều cô học được khi mắc phải lỗi. Một ngày nọ tôi nghe thấy cô nói rất tự tin với trẻ rằng: “Cô đang sử dụng máy tính tốt hơn. Ngày nào cô cũng thực hành. Cô để ý thấy rằng cô không còn mắc lỗi thường xuyên như trước kia nữa.”

1 “Life is a work in progress”

Theo Erikson, kiểu dạy như thế sẽ hỗ trợ cảm giác về năng lực của trẻ trong quá trình học tập và trợ giúp quá trình phát triển cảm nhận về mục tiêu cho các em.

Xem xét những khác biệt cá nhân

Các giáo viên có thể làm việc rất chăm chỉ để xây dựng nội dung chương trình giảng dạy sao cho thích hợp với các lứa tuổi mà họ dạy. Nhưng thường họ rất dễ quên sự khác biệt diễn ra từng ngày ở trẻ. Ví dụ, nếu bé 4 tuổi Keisha vừa có thêm một cậu em ở nhà, việc hợp tác cùng các bạn khác theo cách làm việc phù hợp với độ tuổi của em có thể sẽ trở thành một thử thách quá lớn đối với Keisha vào lúc này. Nếu các giáo viên muốn Keisha chia sẻ cuốn sách mới của mình với bạn bè, trong khi đó gần đây cô bé đã phải lần đầu tiên chia sẻ sự quan tâm của cha mẹ mình với em trai, Keisha rất dễ cảm thấy chán nản hoặc tội lỗi. Nếu hiểu rõ lý thuyết của Erikson về sự phát triển của trẻ nhỏ, giáo viên có thể nói: “Bình thường tôi sẽ yêu cầu Keisha chia sẻ cuốn sách với cả lớp, nhưng hôm nay tôi nghĩ em ấy cần có nó cho riêng mình.” Cách tiếp cận này cho thấy, theo như Erikson, các giáo viên không những cần để ý tới giai đoạn phát triển của trẻ mà còn cần lưu ý tới những yếu tố cá nhân, những thứ có thể tác động tới năng lực của các em trong mỗi ngày.

Việc chú ý tới khác biệt của từng học sinh như thế sẽ càng khó khăn hơn đối với những lứa tuổi nhỏ hơn, nhất là khi nó được xem như kĩ năng cần có của giáo viên. Tuy nhiên nó là kĩ năng quan trọng hơn bao giờ hết nếu chúng ta để ý tới cảnh báo của Erikson về việc tại sao chúng ta cần phải làm như thế.

Tập trung chương trình giảng dạy vào người thật việc thật

Cũng như Montessori, Erikson tin rằng trẻ trong giai đoạn sáng tạo đối lập với mặc cảm tội lỗi này cần có những công cụ thật, nhiệm vụ thật để có thể phát triển năng lực của mình. Ví dụ, Corinne lập kế hoạch nấu súp rau quả với các lớp mẫu giáo của cô. Khi người đầu bếp đem cho cô những con dao cắt bơ để cho trẻ dùng cắt rau củ, cô giải thích rằng nếu trẻ cố cắt cà rốt và cần tây bằng những con dao cắt bơ thì các em sẽ không làm được. Thay vào đó cô sẽ dạy các em cách sử dụng những con dao sắc một cách cẩn thận. Lũ trẻ đã làm rất tốt khi cắt rau củ bằng những con dao sắc. Các em cũng cảm thấy tự tin hơn nhiều mỗi khi các em kể lại những gì mình có thể làm được.

Tương tự như thế, điều đó cũng có ý nghĩa rất lớn với những giáo viên hiểu rõ lý thuyết của Erikson khi họ dùng công cụ thật trong lĩnh vực nghề mộc. Khi trẻ được hướng dẫn cẩn thận cách sử dụng các công cụ và làm thế nào để sử dụng một cách an toàn, cảm thức về năng lực của các em sẽ tăng lên mạnh vô cùng.