• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Các lý thuyết về trẻ em của Dewey, Montessori, Erikson, Piaget và Vygotsky
  3. Trang 35

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 34
  • 35
  • 36
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 34
  • 35
  • 36
  • More pages
  • 60
  • Sau

Sự tự chủ đối lập với sự xấu hổ và Nghi ngờ1

Giai đoạn phát triển tâm lý xã hội thứ hai theo Erikson diễn ra trong năm thứ hai và thứ ba là giai đoạn tự chủ đối lập với nghi ngờ. Nhiệm vụ phát triển của giai đoạn này là thu được cảm giác về sự tự chủ (sự độc lập) mà không phải chịu cảm giác xấu hổ và nghi ngờ. Trẻ nào thích nghi thành công trong giai đoạn phát triển này sẽ có được cảm thức mạnh mẽ về bản thân. Chúng sẽ có khả năng tách biệt một cách tự tin khỏi cha mẹ và những người chăm sóc chính trong những khoảng thời gian nhất định. Chúng sẽ đòi tự làm mọi việc bất cứ khi nào có thể. Giáo viên dạy trẻ ở lứa tuổi chập chững biết đi (toddler) đã quen nghe những yêu cầu kiểu như, “Không! Con! Của con! Con làm cơ!” rất đặc trưng cho giai đoạn phát triển này. Đôi khi trẻ muốn độc lập một cách dữ dội trong chốc lát, rồi ngay sau đó lại muốn bám víu nũng nịu.

1 Nên phân biệt “Nghi ngờ” [Doubt] trong phần này với “Nghi ngờ” [Mis-trust] ở phần trước. Nghi ngờ (Doubt) ở phần này là sự ngờ vực, nghi hoặc về năng lực và khả năng khám phá thế giới; còn sự nghi ngờ ở giai đoạn trước là sự cảm thức nghi ngờ về bản thân, về sự an toàn và chắc chắn của thế giới cùng những đối tượng khác. Một cách tất nhiên, sự nghi ngờ đối lập với sự tự chủ đạt được ở giai đoạn này dựa trên nền tảng sự Tin tưởng/Nghi ngờ (Trust/Mis-trust) của giai đoạn trước. (ND)

Theo Erikson tất cả những điều này là phần tự nhiên trong sự phát triển của trẻ ở tuổi chập chững. Ông nói rằng trẻ trong giai đoạn thứ hai này phải đối mặt với thách thức của việc ôm giữ và buông bỏ. Đối với Erikson điều này mang nhiều nghĩa. Ông biết rằng cả sự ôm giữ và buông bỏ đều có thể là những nguồn xung lực mang tính tích cực và tiêu cực trong hành vi con người. Sự ôm giữ có thể mang tính hủy hoại: như những hành vi mang tính kiểm soát, không chịu nhượng bộ và không hợp tác. Sự ôm giữ cũng có thể mang tính xây dựng: gắn bó những người đặc biệt với mình, sự can đảm đương đầu với nghịch cảnh hoặc bền bỉ cố gắng hoàn thành một nhiệm vụ. Sự buông bỏ có thể mang tính hủy diệt: những cơn thịnh nộ, mất kiểm soát khi giận dữ, đánh đấm, cắn xé. Nó cũng có thể mang tính xây dựng: hợp tác trong các mối quan hệ1, sự chia sẻ hoặc đồng tình với kế hoạch của những người khác. Một lần nữa, đây lại là vấn đề về sự cân bằng.

1 Ví dụ những người không thể bỏ đi được cái Tôi hoặc những chủ kiến của mình. thường rất khó hợp tác với người khác, không thể mở lòng chia sẻ hay tiếp thu, hợp tác trong tư tưởng và trong hoạt động với người khác. ND

Erikson tin rằng những em bé ở tuổi chập chững sẽ đấu tranh để đạt được mức cân bằng giữa sự ôm giữ và buông bỏ thích hợp. Phạm vi diễn ra cuộc đấu tranh này gồm việc chia sẻ với bạn bè, các mối liên hệ với cha mẹ và người chăm sóc đầu tiên, sự độc lập khi đi vệ sinh và khả năng ra quyết định. Erikson cho rằng một trong những chướng ngại đối với trẻ ở tuổi chập chững biết đi trong việc hoàn thành nhiệm vụ này là hành vi kiểm soát thái quá của người lớn, những người cản trở và cưỡng lại yêu cầu ngày càng tăng của trẻ hướng tới sự độc lập. Khi người lớn không có khả năng điều chỉnh sự dao động của trẻ giữa nhu cầu phụ thuộc và nhu cầu cần độc lập trong giai đoạn này, họ thường làm trẻ cảm thấy xấu hổ về những hành vi của chúng, mà đúng ra là đó là dạng hành vi phù hợp với sự phát triển. Đối với trẻ, sự phản ứng lại điều này mang hai hệ quả. Trước mắt trẻ sẽ trở nên thất vọng và bướng hơn. Còn về lâu về dài trẻ sẽ bắt chước theo hành vi của người lớn, trở nên kiểm soát và không chịu nhượng bộ chính mình. Để phát triển được ý thức mạnh mẽ về sự độc lập, trẻ ở tuổi chập chững biết đi cần có các cơ hội phù hợp trong việc lựa chọn và kiểm soát. Đồng thời chúng cần những bối cảnh ổn định, thống nhất, có giới hạn chắc chắn do người chăm sóc chúng tạo nên. Trẻ ở tuổi này rất dễ trở thành nạn nhân của chính những cảm xúc mạnh của mình và đôi khi người lớn cần phải vào cuộc. Đó là trách nhiệm của chúng ta.

Erikson cho rằng giai đoạn này là thời điểm quan trọng trong sự phát triển vì kết quả của nó sẽ được định hình, ở phạm vi rộng lớn, tỉ lệ yêu và ghét, sự hợp tác hoặc thiếu tính hợp tác, và sự tự do thể hiện hoặc xu hướng dồn nén các cảm xúc, những thứ sẽ trở thành một phần bản chất con người trong suốt phần đời còn lại. Khi trẻ có thể phát triển đầy đủ ý thức mạnh mẽ về sự tự kiểm soát mà không mất đi sự tự trọng, chúng sẽ cảm thấy tự hào và tự tin1. Nhưng khi trẻ trải nghiệm sự mất kiểm soát và xấu hổ quá mức, chúng sẽ có xu hướng nghi ngờ bản thân. Một lần nữa, theo các nghiên cứu gần đây đã được trích dẫn ở trên, thì một mức độ tự trọng thích hợp, không thái quá, sẽ là mục tiêu của chúng ta để có một trạng thái sức khỏe cảm xúc tích cực.

1 A strong sense of self-control without loss of self-esteem, they will feel proud and confident: tôi dẫn lại nguyên văn bởi dịch sang tiếng Việt chúng ta rất dễ hiểu lầm hoặc đánh mất ý sâu xa của nguyên bản. Sự tự kiểm soát là một hệ quả của những trạng thái rất phức tạp trong quá trình hình thành nhân cách của trẻ, nó vừa là hệ quả (theo phương diện tiêu cực) của việc ôm giữ thái quá, lại vừa là hệ quả của việc cô lập bản thân và buông bỏ những cái khác mình một cách thái quá. Nói theo cách của Phân tâm học thì trong tiến trình định hình nhân cách, trong trẻ dần xuất hiện cấu trúc Super ego (phần Siêu tôi) như một Người Lớn vô hình trong nội tâm trẻ - một đại diện cho Người Khác ở trong chính nội tâm của trẻ, đóng vai trò kiểm soát chặt chẽ trẻ, đè nén cái Tôi của trẻ. Cái Tôi của trẻ vừa tuân lệnh cái Siêu Tôi – cái Người Khác nằm trong chính mình đó, nên nhiều khi trẻ khắt khe với bản thân, không xem trọng bản thân mình; đồng thời từ chối việc hợp tác hoặc mở lòng ra với những người khác hoặc những thứ khác mình vì ôm giữ vào những qui điều hay luật lệ mà cái Siêu Tôi áp đặt. Cái Siêu Tôi vừa là thứ thuộc về chính mình, nhưng cũng là thứ “khác” mình, vì nó kiểm soát cái Tôi của mình. Trẻ phải đối mặt cùng lúc với hai thế lực “khác” mình: cái Siêu Tôi trong chính mình và những Người Khác (hay những Cái Khác) ở ngoài mình. Về cơ bản, đây là quá trình phức tạp trong quá trình hình thành cấu trúc nhân cách của con người khi phải xử lý mối quan hệ giữa chính mình với cái khác mình ngoài mình và cái khác như là chính mình – tức phần Super ego (ourselves – Others). Khi giải quyết được vấn đề này, trẻ sẽ vừa tự kiểm soát được mình mà vẫn giữ được sự tự trọng, biết yêu quý và không quá nghiêm khắc với bản thân, từ đó đạt được sự tự hào và tự tin chứ không khó tính nghiêm khắc độc đoán (do tự kiểm soát quá mạnh), cũng không bừa bãi vô kỉ luật (do quá yêu bản thân – narcissism, mà lại không có khả năng tự kỉ luật, tự kiểm soát). (ND)

Rõ ràng, người chăm sóc trẻ ở độ tuổi chập chững này cần có hành động cân bằng khi hướng dẫn trẻ. Erikson tin rằng với sự hỗ trợ và hiểu biết của những người lớn quan trọng, trẻ có thể vượt qua được giai đoạn này, đạt được sự tự tin và sẵn sàng nắm bắt tính sáng tạo trong giai đoạn phát triển kế tiếp. Erikson tin rằng người lớn cần nuôi dưỡng sự tự lập cho trẻ ở độ tuổi này bằng cách:

• Đưa ra cho trẻ những lựa chọn đơn giản;

• Không đưa ra những lựa chọn sai;

• Thiết lập những giới hạn rõ ràng, thống nhất và hợp lý; và

• Chấp nhận sự dao động của trẻ giữa sự tự lập và lệ thuộc, xác nhận với trẻ rằng cả hai điều đó đều tốt cả.

Erikson tin rằng trẻ cần có khả năng trải nghiệm sự tức giận, náo nhiệt và những yêu cầu đòi hỏi trong giai đoạn không thể đoán trước được này trong tiến trình phát triển của chúng mà không mất đi sự hỗ trợ và xác nhận từ những người lớn quan trọng trong cuộc đời của trẻ. Nếu người lớn đưa ra những lựa chọn và giới hạn rõ ràng trong giai đoạn này, trẻ có thể phát triển nhanh và cảm thấy thoải mái với nhu cầu của mình khi lúc thì muốn được làm một “cậu bé lớn”, lúc lại muốn được làm một “đứa bé” ngay sau đó.

Làm thế nào để các giáo viên dạy trẻ ở tuổi chập chững có thể ứng dụng lý thuyết của Erikson?

• Đưa ra cho trẻ những lựa chọn đơn giản.

• Loại bỏ những lựa chọn sai lạc.

• Thiết lập những giới hạn rõ ràng.

• Chấp nhận sự dao động nhu cầu của trẻ giữa hai cực tự lập và phụ thuộc.

Đưa ra cho trẻ những lựa chọn đơn giản

Theo Erikson, trẻ ở tuổi chập chững cần có trải nghiệm về sự độc lập qua việc tự mình đưa ra các lựa chọn. Các chương trình chăm sóc trẻ ở độ tuổi này cần hỗ trợ sự độc lập của trẻ bằng cách sắp xếp các hoạt động và các vật dụng mang tính tự lựa chọn. Phòng học nên có các giá để đồ thấp, sao cho các bé có thể chọn lựa đồ mà không cần sự trợ giúp của người khác. Cần có nhiều đồ chơi hay sách được ưa thích cùng loại nhau vì sự chia sẻ là kĩ năng chưa được phát triển lắm ở tuổi này. Điều này khiến cho công việc trở nên dễ thở hơn với các giáo viên và các bé cũng hạnh phúc hơn vì nó giảm thiểu sự xung đột lãnh thổ của các bé.

Thời khóa biểu cần dành nhiều thời gian cho trẻ có thể chọn những gì mình muốn từ hàng loạt lựa chọn có thể chấp nhận được. Giáo viên nên tránh việc muốn tất cả các em cùng làm một thứ trong cùng một thời điểm. Họ có thể hỗ trợ các bé trong việc tự đưa ra những lựa chọn thích hợp, hay đưa ra những gợi ý dù nó không đúng với thứ mà trẻ thích làm ngay lúc đó. Họ có thể thừa nhận cảm xúc của trẻ bằng những câu kiểu như: “Cô biết con muốn ra ngoài ngay bây giờ. Cô cũng muốn chúng ta có thể ra ngoài. Chúng ta sẽ ra ngoài khi thay tã xong nhé.”

Ở độ tuổi này các lựa chọn cần đơn giản, giúp trẻ học cách làm thế nào để lựa chọn và giúp các giáo viên có thể quản lý được những chọn lựa ấy. Hầu hết các bé ở tuổi lên hai chưa sẵn sàng cho kiểu lựa chọn như: “Bữa trưa nay các con muốn ăn gì?” Nhưng lựa chọn giữa bánh sandwich pho mát với sandwich phết bơ lạc là vừa tầm. Nhìn vào một ngăn kéo đầy quần áo có thể khiến trẻ ở tuổi chập chững phát khóc hoặc phát cáu vì có quá nhiều lựa chọn. Việc lựa chọn giữa áo phông màu đỏ với áo phông màu vàng sẽ đem lại sự độc lập vừa đủ để trẻ1 cảm thấy trẻ kiểm soát được cuộc sống của mình.

1 Đoạn này đang nói về Toddler – tức là trẻ ở độ tuổi chập chững biết đi, tôi chú thích ở đây để không dịch cả cụm đó, vì nhiều chỗ dịch như thế rất rườm rà, mà tiếng Việt lại không có từ nào tương đương với Toddler cả. Chỗ nào không rườm rà tôi sẽ dịch đủ, và khi bàn sang độ tuổi khác tôi cũng sẽ chú thích cẩn thận, bởi khi dịch về tâm lý trẻ em thì khoảng độ tuổi phải rất chính xác, khỏi gây hiều lầm. ND

Loại bỏ những lựa chọn sai

Nhiều giáo viên đã phạm sai lầm khi đưa ra cho trẻ một lựa chọn trong những tình huống không có gì để lựa chọn2. Với những trẻ đang học để nhận thức được rằng chúng cần điều chỉnh mức độ kiểm soát chừng nào cho thích hợp thì việc hỏi chúng một câu hỏi tu từ sẽ khiến chúng bối rối. Người lớn và trẻ ở độ tuổi đến trường rồi có thể hiểu được câu “Con có muốn rửa bát không?” là một yêu cầu hoặc một cách diễn đạt lịch sự về sự mong đợi. Nhưng trẻ ở tuổi chập chững thì không thể phân biệt được giữa một câu hỏi (tu từ) kiểu này với một câu hỏi mang tính lựa chọn thật sự. Vì lý do này nên đôi khi các giáo viên sẽ cảm thấy ngạc nhiên khi họ hỏi trẻ: “Con có muốn ra ngoài chơi bây giờ không?3” và trẻ sẽ than khóc về việc bị ép phải ra ngoài trái với ý muốn của chúng, bởi chúng nghĩ rằng chúng có quyền lựa chọn ra ngoài hoặc không.

2 “Many teachers make the mistake of offering toddlers a choice when there really isn’t one”: đoạn cuối này có thể có ý nghĩa là trong những tình huống “khi không có gì cần phải lựa chọn” (tức là tình huống không có vấn đề, không đặt ra vấn đề cần lựa chọn hay không); hoặc cũng có thể mang một nghĩa bóng gió khác là trong những tình huống mang tính nan đề (dilemma: tiến thoái lưỡng nan, chọn ngả nào cũng không xong, cho nên chọn giải pháp nào thì cũng không giải quyết được vấn đề). Ý thứ hai này liên quan tới ý của đoạn sau khi tác giả nói về “sự lựa chọn mập mờ” trong những yêu cầu mang tính chất “tu từ”.

3 Nguyên văn: “Would you like to go out to play now?” Kiểu câu hỏi này cũng giống như cách chúng ta mời cơm, “Mời bác xơi cơm với gia đình em” khi khách vào nhà. Đó chỉ là cách nói xã giao, còn điều được đề cập tới không nằm trong quyền lựa chọn tùy ý của người được hỏi. Ở đây dù trẻ có muốn ra ngoài chơi hay không thì cũng phải ra. Trẻ nhỏ chưa hiểu được những ẩn ý tu từ kiểu như vậy trong ngôn ngữ xã giao. Đưa ra những câu hỏi dạng này sẽ làm trẻ rối loạn và không xây dựng được năng lực ra quyết định thích hợp. (ND)

Nếu muốn dạy cho trẻ ở độ tuổi này về mức độ kiểm soát mà chúng cần, hãy tìm cách diễn đạt những mức độ biến động đó theo cách nào đó để có thể đưa ra một lựa chọn về việc làm thế nào (how) có thể hoàn thành nhiệm vụ chứ không theo kiểu liệu có hay không hay hoặc thế này – hoặc thế kia (whether). Ví dụ, hãy nói: “Bây giờ chúng ta sẽ ra ngoài. Con muốn cô giúp con mặc áo khoác hay con muốn tự mặc?” Cách nói này làm rõ rằng bản thân hành động (ra ngoài, vào trong, ngủ trưa…) không phải là thứ để lựa chọn. Sự lựa chọn nằm ở chỗ liệu trẻ có tự mình chuẩn bị được không hay là cần phải nhờ tới sự trợ giúp của người lớn.

Đặt ra những giới hạn rõ ràng

Erikson tin rằng cuộc đấu tranh của trẻ giữa sự kiểm soát bên trong và sự kiểm soát bên ngoài1 ở giai đoạn này là rất mạnh. Trong giai đoạn này trẻ chủ yếu làm việc dựa trên cảm thức về bản thể của chính mình, cảm thức về những thứ khác vẫn còn sơ khai1. Chúng có thể đẩy, đánh, cắn mọi vật. Vì lý do đó, các giáo viên cần trợ giúp trẻ trong giai đoạn này. Khi những giới hạn bên ngoài – vốn được người lớn đặt ra – có tính rõ ràng thì trẻ có thể tập trung vào việc học cách kiểm soát bên trong. Khi những giới hạn bên ngoài mâu thuẫn nhau hoặc được diễn đạt không tốt, trẻ sẽ luôn phải tốn năng lượng trong việc tìm ra cách hiểu những thứ đó thực chất là gì.

1 Struggles between inner and outer control. Nếu những đoạn này có gì đó khó hiểu thì bạn đọc cũng đừng nên ngạc nhiên, bởi khi bàn tới sự “kiểm soát” này chính là lúc ta thấy được sự ảnh hưởng của Phân tâm tới tư tưởng giáo dục của Erikson. Phân tâm học (đặc biệt là Freud và sau này là Jacques Lacan) quan tâm và nghiên cứu rất sâu về mối quan hệ giữa chủ thể và tha nhân cùng các đối tượng (object relations) – tức là Subject và Other, cái Mình và cái Khác Mình, Ngoài Mình, về mối quan hệ giữa cảm thức bên trong và bên ngoài, giữa ý thức về bản thể và cảm thức về ngoại vật, tha nhân cùng những dạng liên hệ phức tạp giữa Chủ thể và Khách thể. Chính trong những mối liên hệ phức tạp này mà mỗi cá nhân dần cảm nhận được sợi dây liên hệ được gọi là “kiểm soát – control”. Ở một nghĩa nào đó khái niệm kiểm soát này cũng chính là sự gắn bó (attachment), điểm này Erikson rất gần với Winnicott và Bowlby. Với Freud, trẻ định hình dần những cảm thức này qua phức cảm đầu tiên là Oedipe Complex, nhưng Lacan còn đi sâu hơn nữa khi ông phát hiện ra, trước khi rơi vào phức cảm Oedipe với mối quan hệ bộ ba (Cha-mẹ-trẻ) thì trẻ đã phải đương đầu với mối liên hệ rất phức tạp (mối quan hệ bộ đôi) với hình ảnh của chính mình – the image of the sibling rival (được Lacan diễn đạt qua Mirror Stage) và sau này được tiếp diễn trong mối quan hệ với người Mẹ, trước khi chuyển sang mối liên hệ bộ ba với người Cha thêm vào nữa để tiến tới Oedipe Complex. Chính điểm này khiến cái gọi là giai đoạn gương của Lacan rất gần với nhà Phật trong cách nhìn nhận sâu xa về vấn đề Chủ thể tính: chúng ta đã định hình ý thức về bản thể của mình như thế nào? Chúng ta đã nhận ra chính mình như một tồn tại tách biệt với mọi vật khác trong thế gian như thế nào? Khoảnh khắc nào ta nhận ra ta khác với Tha nhân, với ngoại vật? Điều này, với chúng ta, nghe có vẻ rất ngớ ngẩn, nhưng nó là những gì mà đứa trẻ gặp phải trên tiến trình thành người, và được Lacan trình bày qua Mirror Stage, được nói tới trong những kinh văn nhà Phật như kinh Lăng già (Lankavatara sutra)... (ND)

1 Nguyên văn là: “Toddlers are working on their sense of self. Their sense of others is still primitive”. Trong giai đoạn này trẻ đang sống chủ yếu với cảm thức về bản thể mình, cảm thức cũng như sự kiểm soát đối với những thứ khác mình còn mơ hồ. Từ “working on” còn có thể mang hàm nghĩa rộng hơn rất nhiều, nó chỉ sự “làm việc” của thân thể + tâm trí trong việc tri nhận thực tại và cảm nhận về sự tồn tại của bản thân để dần hình thành nên ý thức của trẻ. Lúc này cảm nhận của trẻ người khác hoặc vật khác mình còn rất mơ hồ, nguyên sơ. Việc người lớn giúp trẻ nhận biết về các giới hạn và phạm vi chúng có quyền ra quyết định, chọn lựa chính là giúp trẻ nhận biết dần về những đường biên bản ngã và những ranh giới trong mối quan hệ của cái Tôi với người khác, vật khác. Bởi vậy trợ giúp trẻ trong việc ra quyết định ở giai đoạn này không chỉ đơn giản là hình thành một năng lực đơn thuần, mà quan trọng hơn là giúp trẻ định hình về cảm thức bản thể cũng như về thế giới bên ngoài (ND)

Như tôi quan sát thấy thì đây là phạm vi mà các giáo viên thời nay có năng lực kém hơn so với các giáo viên thời trước. Như đã nói ở trên, việc trình bày các giới hạn rõ ràng rất quan trọng trong việc giúp trẻ ở tuổi chập chững đáp ứng nhu cầu của chính các bé. Làm việc dựa trên cách diễn đạt tường minh không mơ hồ rắc rối sẽ giúp ích các giáo viên rất nhiều trong giai đoạn này. Đây là chủ đề được bàn tới rất kĩ trong cuốn sách Sử dụng ngôn từ của bạn của tôi.

Chấp nhận các nhu cầu dao động giữa độc lập và phụ thuộc

Khi trẻ ở tuổi chập chững cố vươn tới sự độc lập, chúng làm điều đó rất mê say. Chúng có thể khăng khăng muốn làm mọi thứ theo ý mình một cách rất bướng bỉnh. Theo Erikson, việc để trẻ có thể làm theo ý mình trong giai đoạn này rất quan trọng cho sự phát triển lành mạnh của trẻ. Trừ những trường hợp trẻ đẩy bản thân mình hoặc người khác vào tình trạng nguy hiểm, còn lại các giáo viên nên trợ giúp trẻ khi trẻ có xu hướng này. Giáo viên nên nhượng bộ nhu cầu muốn tự mình làm mọi việc một cách dữ dội này của trẻ. Khi các giáo viên hiểu rằng hành vi mang tính dao động này là một phần bình thường trong sự phát triển của trẻ ở tuổi chập chững thì họ sẽ dễ ứng phó hơn với tính đa dạng thất thường trong những tâm trạng và hành vi mà trẻ bộc lộ trong cùng một khoảng thời gian ngắn. Việc các giáo viên chấp nhận sự thay đổi tâm trạng này sẽ giúp trẻ phát triển một cách tự tin và tự trọng.

Một lần nữa, văn hóa sống hiện nay tại Hoa Kỳ cũng kêu gọi mọi người nên có cách tiếp nhận linh hoạt thích ứng với những cơn bốc đồng của trẻ. Có lẽ cũng công bằng khi nói rằng, những thập niên trước đây cả cha mẹ lẫn giáo viên đều chưa có sự bao dung đúng mức, trong khi đó cha mẹ và giáo viên hiện nay lại có xu hướng bao dung trẻ quá mức.

Thay đổi liên tục giữa nhu cầu được độc lập và nhu cầu phụ thuộc của trẻ cũng có thể được hỗ trợ trong môi trường. Những giá vẽ, bàn nghịch nước1 và đạo cụ đóng kịch là những thứ rất quan trọng đối với trẻ ở độ tuổi chập chững cũng như với trẻ ở tuổi trước khi tới trường. Đồ chơi mềm, các cuốn sách cứng, đồ chơi kéo/đẩy trong môi trường vui chơi cũng rất quan trọng với trẻ ở tuổi chập chững, cũng như đối với những trẻ nhỏ ở độ tuổi khác. Cách tổ chức môi trường như vậy sẽ giúp trẻ được thoải mái trong thời kì chập chững khi trẻ được tham dự luân phiên vào những hành vi dao động giữa “cậu bé đã lớn” (big kid) và “đứa trẻ con” (baby).

1 Water table. Có những loại bàn dùng cho mỗi loại vật dụng khác nhau như water table, Sand table… (ND).