Giai đoạn phát triển tâm lý xã hội đầu tiên theo Erikson diễn ra trong năm đầu tiên của cuộc đời, là giai đoạn tin tưởng đối lập với sự nghi ngờ. Nhiệm vụ của trẻ trong giai đoạn này là phát triển cảm giác tin tưởng bản thân mình, tin tưởng người khác và tin tưởng thế giới xung quanh. Erikson viết về sự tin tưởng với hai thành phần, phần bên ngoài – là niềm tin cho rằng những người lớn quan trọng với trẻ sẽ luôn hiện diện để đáp ứng các nhu cầu của trẻ - và phần bên trong – là niềm tin vào năng lực của bản thân có thể tạo nên sự thay đổi và đương đầu với các tình huống. Những đứa trẻ thích ứng thành công trong giai đoạn đầu tiên này sẽ tiến đến năm thứ hai của cuộc đời với cảm giác chắc chắn rằng thế giới là một nơi tốt đẹp để tồn tại. Chúng tin người lớn sẽ ở đó để đáp ứng nhu cầu thể chất của chúng, để hướng dẫn và hỗ trợ chúng. Chúng tin người lớn sẽ dành sự chăm sóc ổn định và liên tục cho cuộc đời của chúng. Chúng biết chúng có năng lực để thu hút sự chú ý của người lớn qua nước mắt, nụ cười hoặc làm ầm lên mỗi khi chúng cần sự giúp đỡ của người lớn.
1 Trust vs Mistrust: nên chú ý phân biệt “nghi ngờ - mistrust” của giai đoạn này (giai đoạn 1: Trust vs Mis-trust) với sự “nghi ngờ - Doubt” của giai đoạn sau (giai đoạn 2: Autonomy vs Shame and Doubt). ND
Sự thu hút người lớn này là phần mà chúng ta gọi là sự gắn bó1. Nó là sự gắn bó đặc biệt giữa đứa bé và những người lớn quan trọng trong cuộc đời chúng. Khi đứa bé được gắn bó một cách an toàn, được ở trong sự hiện diện của những người lớn này, cảm giác về sự an toàn và thoải mái của nó sẽ được tăng cường. Đứa bé sẽ coi những người lớn đó là điểm tựa an toàn để chúng tiến ra ngoài khám phá thế giới. Khi chúng gặp phải bất kì sự đe dọa nào, như những quang cảnh, âm thanh hoặc những tình huống bất thường, chúng cần quay trở lại vòng tay của người chúng tin tưởng thật nhanh để cảm thấy thoải mái và được bảo vệ. Khi trẻ nhỏ phát triển cảm giác mạnh mẽ về sự tin tưởng trong năm đầu đời này, chúng sẽ gắn bó với những người quan trọng trong cuộc đời của mình.
1 Ở điểm này ta có thể thấy sự gắn bó mà cả Erikson, Piaget nói tới gần với những gì mà Đức Phật, Freud và Lacan nói tới như thế nào. Sự gắn bó với các đối tượng chăm sóc mình sẽ luôn gắn với sự Lo âu khi bị tách rời khỏi những đối tượng ấy, vì những đối tượng đầu tiên ấy là dấu hiệu cho nguồn sống, tách khỏi nguồn sống sẽ gây lo âu, khiếp sợ và cái chết. Từ sự gắn bó, sự lo âu khi bị phân tách dần dần hình thành Dục vọng (Desire), ham muốn được gắn bó với đối tượng đầu tiên. (ND)
Erikson tin rằng mỗi giai đoạn phát triển nào đó hoàn thành sẽ đặt cơ sở nền tảng cho giai đoạn kế tiếp. Cảm giác cơ bản về sự tin tưởng là điều rất cần thiết để trẻ có thể tiến tới giai đoạn kế tiếp và phát triển sự tự chủ. Ví dụ, một đặc điểm phổ biến của những đứa trẻ thiếu sự gắn bó chặt chẽ với những người lớn quan trọng đối với chúng là sẽ không phát triển được khả năng thấu cảm (năng lực đặt mình vào địa vị người khác và thấu hiểu cảm xúc của họ). Trong những năm gần đây khi nhiều thanh thiếu niên liên quan tới tội phạm bạo lực và không hề tỏ ra ăn năn hối hận chút nào, các trang báo đều đặt ra câu hỏi, “Tại sao?” Tất nhiên câu trả lời sẽ phức tạp hơn nhiều so với lý thuyết về sự phát triển tâm lý xã hội của Erikson. Nhưng một số tác phẩm của ông được viết nửa thế kỉ trước đây dường như đã tiên đoán về một số tình trạng của nhiều trẻ em hiện nay. Khi các nhu cầu của trẻ không được đáp ứng, chúng không có khả năng phát triển sự tin tưởng vào bản thân hoặc vào thế giới xung quanh mình. Theo Erikson, những đứa trẻ thiếu cảm giác cơ bản về sự tin tưởng này sẽ không thể phát triển những chức năng xã hội ở mức cao hơn.
Erikson tin rằng cha mẹ và giáo viên, với hai động tác của mình, có thể giúp trẻ nhỏ phát triển cảm giác cơ bản về sự tin tưởng, đó là: giữ trẻ ở gần mình, có sự gắn bó thể xác ấm áp với chúng khi cho chúng ăn và phản ứng ngay với những khó chịu của chúng khi chúng khóc hoặc làm ầm lên. Cả hai hoạt động này đều là những kĩ năng dạy học cơ bản đối với những người chăm sóc trẻ nhỏ. Số lượng trẻ sơ sinh tăng lên nhiều nên phần lớn thời gian trẻ ở các trung tâm chăm sóc trẻ hoặc ở các địa điểm chăm sóc trẻ tại gia đình. Điều kiện xã hội thay đổi không làm thay đổi nhu cầu phát triển của trẻ nhỏ. Nhu cầu của trẻ nhỏ cần sự chăm sóc yêu thương mà trẻ có thể cảm nhận được là không thay đổi. Thách thức đối với chúng ta là làm sao để tạo nên những nơi có thể đáp ứng nhu cầu của trẻ, nơi giáo viên sẽ thay thế cha mẹ trong việc đáp ứng nhu cầu của trẻ. Các trung tâm chăm sóc trẻ cần tạo ra bầu không khí trong đó trẻ và gia đình của trẻ có thể phát triển được. Ba hoạt động dưới đây là ba phương diện quan trọng hỗ trợ trẻ phát triển sự tin tưởng. Tôi đã viết rất kĩ về những điều này trong cuốn Những lý thuyết về gắn bó của mình.
Giáo viên muốn hỗ trợ cho sự phát triển niềm tin ở trẻ sơ sinh cần phải:
• Bế trẻ khi cho trẻ ăn
• Đáp ứng lại những dấu hiệu khó chịu của trẻ, và
• Hỗ trợ sự gắn bó của trẻ thông qua công việc chăm sóc chính.
Bế ẵm trẻ khi cho ăn
Khoái cảm của sự ấm áp và ôm ấp khi trẻ được cho ăn là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển cảm xúc cũng như bữa ăn dinh dưỡng đối với sự phát triển thể chất. Ở giai đoạn sơ sinh này trẻ học thông qua cảm nhận. Khi một người lớn thân quen với trẻ hôn và cưng nựng trẻ lúc cho trẻ ăn với gương mặt tươi cười, trẻ sẽ nhận biết được rằng mình rất quan trọng và đáng yêu. Một khi các giáo viên biết rằng sự thoải mái và khoái cảm đối với trẻ nhỏ lúc được cho ăn cũng quan trọng như dinh dưỡng, họ có thể xây dựng chương trình trong phòng chăm sóc trẻ mới sinh để thực hiện điều này.
Ánh sáng nhẹ, âm nhạc nhẹ nhàng và một chiếc ghế đu sẽ cho trẻ cảm giác thích thú hơn khi ăn. Tầm quan trọng của việc xây dựng mối liên hệ trong thời gian cho ăn yêu cầu các giáo viên tập trung vào trẻ - mỉm cười, cưng nựng và trò chuyện. Đây không phải thời gian cho các giáo viên trò chuyện với người khác về buổi gặp mặt đồng nghiệp vào tuần tới! Một số trung tâm dán các biển thông báo lên cửa phòng chăm trẻ sơ sinh với nội dung, “Xin đừng quấy rầy. Chúng tôi đang ăn trưa!” Điều này đưa ra thông điệp rõ ràng là chuông điện thoại, tin nhắn và các vị khách (tất nhiên trừ cha mẹ của các bé) đều không được tiếp nhận trong khoảng thời gian đặc biệt này dành cho các giáo viên và các bé.
Vì sự gắn bó với những người lớn đặc biệt là một phần quan trọng trong giai đoạn phát triển này nên chúng ta cần sắp xếp sao cho trẻ thường được một giáo viên nhất định nào đó cho ăn, giúp trẻ có được cảm giác cơ bản về sự tin tưởng.
Erikson nói rõ rằng một phần quan trọng trong việc hoàn thành giai đoạn phát triển này là chất lượng của mối quan hệ cha mẹ và trẻ. Trẻ cần rất nhiều sự gắn bó ấm áp yêu thương của cha mẹ. Vì lý do này nên các chương trình chăm sóc trẻ sơ sinh không chỉ hướng tới thái độ thân thiện với những người mẹ đang nuôi con mà còn cần tạo ra không gian gắn bó thể chất mang tính riêng tư, với nhạc nhẹ và ghế ngồi thoải mái để các bà mẹ và các bé có thể chia sẻ thời gian cho ăn một cách đặc biệt. Đối với những bà mẹ đang nuôi con không có điều kiện cho con bú trong ngày thì chương trình chăm sóc trẻ sơ sinh cần có dụng cụ vắt sữa mẹ để cho vào bình sữa cho bé ăn.
Đáp ứng lại sự khó chịu
Trong tất cả các khóa học về phát triển trẻ em mà tôi đã dạy, một số người hỏi rằng việc đáp ứng lại trẻ khi trẻ khóc liệu có đang “đầu độc” trẻ. Một lần nọ, một giáo viên chăm trẻ sơ sinh đưa mắt nhìn tôi khi đang bế một em bé đi quanh và nói: “Em bé này quá quấn cha mẹ! Tôi đang cố dạy cho bé biết rằng chúng tôi không thể chạy lại ngay với bé mỗi khi bé khóc được!”
Nếu các giáo viên cung cấp dịch vụ dựa trên lý thuyết của Erikson, họ sẽ chấp nhận rằng trẻ có rất ít kĩ năng ứng phó với tình huống, bởi vậy nhiệm vụ của người lớn là phải khiến các bé cảm thấy thoải mái. Trong các chương trình mà các giáo viên hiểu về sự phát triển của trẻ sơ sinh đều có các yêu cầu đáp ứng ngay lập tức mỗi khi các bé khóc. Mặc dù vậy, tại Hoa Kỳ vẫn tồn tại quan niệm cho rằng người lớn sẽ “đầu độc” trẻ thông qua việc chú ý ngay tới trẻ mỗi khi trẻ khóc.
Mặt trái của điều này là có một số cha mẹ không bao giờ để con mình có cơ hội đương đầu với bất kể mức độ khó chịu nào. Trong những nghiên cứu gần đây (Young- Eisendrath, 2008) cũng như trong những tác phẩm đầu tiên của Montessori về sự phát triển tính tự lập, và công trình của Magda Gerber (1997) về năng lực đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học cách ứng phó với các tình huống khó chịu của trẻ. Những đứa trẻ thường xuyên được đáp ứng nhu cầu ngay lập tức cũng có thể học cách ứng phó với một mức độ khó chịu nhỏ. Cha mẹ và giáo viên cần tự tin khi để các em thử đối mặt với một mức độ khó chịu nhỏ. Đó là vấn đề về sự cân bằng.
Lý thuyết của Erikson nói rằng trẻ sẽ phát triển ý thức mạnh nhất về sự an toàn nếu chúng biết người lớn sẽ chạy tới ngay mỗi khi chúng khóc. Sau đó, khi chúng lớn hơn một chút, chúng có thể đương đầu với sự trì hoãn việc thỏa mãn các nhu cầu của mình. Bằng việc đáp ứng các nhu cầu của trẻ thật nhanh và thường xuyên trong suốt năm đầu đời, người lớn không hề đầu độc trẻ. Với việc chăm sóc thường xuyên và luôn sẵn sàng đáp ứng, họ đang tạo dựng nền tảng để sau này cho phép trẻ phát triển thành những đứa trẻ mạnh mẽ tự tin, sẵn sàng khẳng định sự độc lập của mình.
Hỗ trợ sự gắn bó qua việc chăm sóc chính
Lý thuyết của Erikson về sự phát triển của trẻ sơ sinh bảo đảm với các giáo viên và các bậc cha mẹ rằng trẻ dưới một tuổi không thể trở nên “quá gắn bó” với những người lớn đặc biệt nào đó trong cuộc đời chúng. Cô giáo trong câu chuyện ở trên muốn dạy cho em bé rằng những người lớn không thể luôn luôn chạy đến ngay với em, giáo viên đó đã bỏ qua điểm trọng tâm nhất của việc cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ sơ sinh có chất lượng. Sự gắn bó chính là thứ giúp trẻ phát triển ý thức về sự tin tưởng. Công việc của giáo viên là cung cấp sự chăm sóc ổn định nhất có thể. Vì lý do này, việc sắp xếp nhân viên chăm sóc trong chương trình chăm sóc trẻ sơ sinh cần dựa trên những người chăm sóc chính1 là một ý hay.
1 Primary Caregivers.
Erikson nhấn mạnh tầm quan trọng của việc trẻ cần có những mối liên hệ quan trọng với một vài người lớn chủ chốt để hoàn thành nhiệm vụ phát triển cơ sở cho niềm tin tưởng. Vì những mối liên hệ này được phát triển trong quá trình chăm sóc trẻ nên các bé cần có những người lớn chăm sóc cố định túc trực ở đó mỗi khi bé thức giấc ngủ trưa, khi bé cần thay tã, khi trở về sau cuộc đi dạo hoặc khi bé cần được cho ăn. Cả cha mẹ và giáo viên đôi khi cũng phản đối việc chăm sóc chính này. Một số giáo viên trong chương trình chăm sóc trẻ sơ sinh nói rằng trẻ khóc suốt ngày mỗi khi giáo viên chăm sóc chính vắng mặt. Các bậc cha mẹ đôi khi cũng phàn nàn rằng: “Tôi lo rằng cháu sẽ quá gắn bó với cô chăm sóc chính. Tuần trước khi cô giáo ốm, cháu khóc suốt ngày.”
Như một câu châm ngôn vẫn nói: “Thà được yêu và mất đi tình yêu ấy còn hơn là không bao giờ được yêu,” lý thuyết của Erikson xác nhận rằng mối quan hệ gắn bó của trẻ với một số người lớn quan trọng trong năm đầu đời đặc biệt quan trọng, dù sau này trẻ có phải tách khỏi những người mà các em đã gắn bó đi chăng nữa. Theo Erikson, về việc tách khỏi những người lớn gắn bó đặc biệt này có thể gây đau khổ, khó chịu cho trẻ và trẻ sẽ cần có sự thoải mái từ những người thay thế khác đều không phải lý do thích hợp, để bỏ đi sự gắn bó này. Gắn bó là điều rất thiết yếu, dù nó không phải là mãi mãi, và quá trình đau khổ vì phải xa cách một người lớn đặc biệt nào đó, và trẻ cần được những người lớn đáng tin cậy khác thỏa mãn cũng là một chỉ báo khác cho thấy, những nhu cầu của trẻ luôn cần được thỏa mãn.