• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Các lý thuyết về trẻ em của Dewey, Montessori, Erikson, Piaget và Vygotsky
  3. Trang 33

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 32
  • 33
  • 34
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 32
  • 33
  • 34
  • More pages
  • 60
  • Sau

Lý thuyết của Erikson

Công trình của Erikson quan trọng với tất cả các nhà giáo dục mầm non vì nó chỉ ra nền tảng phát triển cảm xúc, xã hội và sức khỏe tinh thần của trẻ như thế nào. Lý thuyết của Erikson về sự phát triển tâm lý xã hội, thường được gọi là Tám giai đoạn đời người, bao trùm toàn bộ cuộc đời của một con người. Quan điểm của Erikson cho rằng mỗi giai đoạn phát triển có một nhiệm vụ cần được hoàn thành. Sự giải quyết thành công mỗi giai đoạn sẽ ảnh hưởng tới giai đoạn kế tiếp. Khi trải qua mỗi giai đoạn, chúng ta định hình được điểm mạnh hoặc điểm yếu của tính cách dựa trên sự phát triển diễn ra trong giai đoạn đó. Khi mô tả về điều này, Erikson đưa ra khái niệm sự khủng hoảng bản sắc. Ông cho rằng đó là điều không thể tránh khỏi mà những người trẻ sẽ trải nghiệm sự xung đột khi họ lớn lên và biến đổi để trở thành những người trưởng thành.

Bảng dưới đây mô tả từng giai đoạn trong tám khoảng độ tuổi mà Erikson đã xác định, đặt tên cho từng giai đoạn và liệt kê sự phát triển mạnh của giai đoạn đó, thứ được xem như kết quả lý tưởng cho sự đấu tranh phát triển kết thúc tại mỗi giai đoạn. Trong tác phẩm Trẻ em và xã hội, Erikson cũng bàn về những yếu điểm phát sinh từ việc không giải quyết được xung đột tại mỗi giai đoạn. Những điểm đó sẽ được bàn tới ở cuối chương này.

a11

Erikson bị thuyết phục rằng, trong những năm tháng đầu đời, mẫu hình phát triển sẽ qui định, hoặc ít nhất cũng ảnh hưởng tới hoạt động và tương tác của một người trong suốt phần đời còn lại. Tuy nhiên ông cũng viết, “vì vậy có… một số thất vọng hoặc trong giai đoạn này, hoặc trong các giai đoạn sau, đứa trẻ đang phát triển sẽ không thể chịu được nếu sự thất vọng đó dẫn tới một trải nghiệm mang tính tái lặp đi lặp lại liên tục về sự tương đồng ngày càng lớn hơn và sự tiếp nối ngày càng mạnh hơn của sự phát triển, hướng tới sự tích hợp cuối cùng vòng đời của một cá nhân với một số sự gắn bó có ý nghĩa rộng lớn hơn” (Erikson [1950] 1963, 249)1. Ông cho rằng ta luôn có thể quay trở lại và thương lượng lại các vấn đề từ những giai đoạn phát triển trước đó. Ông tin rằng nhiệm vụ của mỗi giai đoạn sẽ tiếp tục bộc lộ tại những thời điểm khủng hoảng trong tình yêu và diễn ra trong suốt cuộc đời chúng ta. Dù đúng là niềm tưởng và khả năng độc lập được định hình từ thời thơ ấu, ảnh hưởng tới các hoạt động và phẩm chất sau này của chúng ta, nhưng chúng ta cũng vẫn có thể chọn lựa cách thức nào đó để tìm ra giải pháp tốt hơn cho bất kì nhiệm vụ nào trong những nhiệm vụ phát triển này tại bất kì thời điểm nào trong cuộc đời mình. Erikson thấy rằng thời kỳ thơ ấu rất quan trọng đối với sự phát triển của niềm tin, tự chủ và sự khởi đầu ở trẻ em, nhưng ông không cho rằng tất cả sẽ mất đi nếu trẻ gặp khó khăn nào đó trong ba giai đoạn đầu đời này.

1 Các bạn có thể tìm thấy trích đoạn này tại trang 224, “Childhood and Society”, Paladin Books, 1977. Đây là một đoạn khá khó hiểu. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy, đoạn trước tác giả viết rằng Erikson tin những mẫu hình phát triển thời thơ ấu sẽ ảnh hưởng tới cuộc đời sau này của mỗi cá nhân, nhưng nếu trong thời gian đầu đời đó xảy ra một số sự thất vọng mà đứa trẻ không chịu đựng được, sẽ dẫn tới sự rối loạn, và Erikson cho rằng sự rối loạn này (neurotic-nhiễu tâm) không phải do bản thân sự thất vọng đó, mà do thiếu hoặc mất đi ý nghĩa xã hội trong những thất vọng này. (ND)

Chúng ta có thể gọi ba giai đoạn đầu đời là các “cửa sổ cơ hội” hoặc lịch trình phát triển. Chúng báo cho ta biết khi nào thì bộ não sung sức nhất để có thể tiếp nhận những dạng thức học tập đặc thù. Ví dụ, cửa sổ cơ hội cho giai đoạn tin tưởng đối lập với sự nghi ngờ của Erikson liên quan tới khoảng thời điểm 12 tháng đầu đời. Những trải nghiệm xuất hiện trong 12 tháng này sẽ giúp định hình liệu đứa trẻ sẽ “kết nối” với sự tin tưởng hay sự nghi ngờ. Nếu nhu cầu của đứa trẻ được đáp ứng, đứa trẻ sẽ gắn kết với sự tin tưởng. Tuy nhiên, nếu nhu cầu của đứa trẻ không được đáp ứng đều đặn, có khả năng đứa trẻ sẽ gắn kết với sự nghi ngờ. Và nếu đứa trẻ càng phát triển xa hơn khỏi cửa sổ cơ hội đó thì sẽ càng khó để sửa chữa hơn. Nhưng chúng ta vẫn có thể sửa chữa được nhờ những tương tác và môi trường đúng đắn. Trong bài báo “Gắn kết những Nguyên tắc của Não bộ với quá trình Giáo dục Trẻ mầm non Chất lượng cao” trong ấn bản tháng 11 – 12/2011 của tạp chí Exchange, các tác giả Stephen Rushton và Anne Juola-Rushton có viết:

Hiện nay, các nhà khoa học thần kinh biết rằng tế bào thần kinh não liên tục phát triển (định hình) và biến mất (lược bớt) trong suốt cuộc đời của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta trải nghiệm sự trưởng thành mạnh nhất – và một số lượng lớn được lược bớt - là vào thời thơ ấu… Quá trình này lắng xuống phần nào đó sau khi sinh. Tuy nhiên cho đến khi 12 tuổi, những con đường này liên tục được định hình và… phát triển khi trẻ tương tác với môi trường. Các tế bào thần kinh không được kích thích hoặc tạo được kết nối với các tế bào thần kinh khác sẽ bị lược bớt và biến mất… tạo ra những trải nghiệm có ý nghĩa, tích cực cho trẻ sẽ làm biến đổi sự hình thành não bộ của chúng! (9)

Ở đây, chúng ta sẽ thảo luận về ba giai đoạn đầu đời của Erikson bởi đây là các giai đoạn ảnh hưởng tới trẻ trong những năm tháng ấu thơ.