Piaget tin rằng ban đầu phản ứng của trẻ đối với thế giới chỉ thuần túy mang tính phản xạ (không có tư duy). Ông nói rằng trí tuệ bắt đầu khi các phản ứng trở nên có tính mục đích hơn1. Ví dụ, khi ta quan sát một em bé mới sinh nằm trong cũi, ta để ý thấy rằng mới đầu bé bộc lộ phản ứng ngạc nhiên mỗi khi chân hoặc tay bé đụng vào cái chuông hay cái trống lắc, nhưng theo thời gian dần dần bé biết đụng vào chúng một cách chủ định. Piaget gọi giai đoạn đầu tiên trong quá trình phát triển nhận thức này là giai đoạn cảm giác vận động (sensorimotor stage). Trong suốt thời gian này, trẻ dựa vào các giác quan và hoạt động thể chất để học hỏi về thế giới.
1 In the beginning, babies’ reactions to the world are purely reflexive (without thought)… intelligence began when the reactions became purposeful. Đoạn này rất quan trọng và thể hiện rõ nhất tinh thần học thuyết của Piaget nên tôi trích nguyên văn lại đây. Nhưng cách diễn đạt của tác giả cũng dễ làm người ta hiểu lầm. Nên hiểu rằng những phản ứng ban đầu của trẻ nhỏ mới sinh (infant, babies) cũng có tính mục đích (purposeful) nhưng mới chỉ dừng lại ở mục đích sinh tồn là trước nhất, thuần túy mang tính bản năng, sinh học; còn khởi nguyên của trí tuệ, là khi con người bắt đầu biết phản ứng và tương tác với thế giới theo những dạng mục đích mang tính xã hội hơn, đôi khi những mục đích này có thể ngược lại các luật sinh học, ngược lại mục tiêu sinh tồn tự nhiên. (ND)
Đến cuối giai đoạn này, Piaget nói, sự ổn định của đối tượng (Object permanence) sẽ dần xuất hiện. Sự ổn định của đối tượng có nghĩa là trẻ dần dần nhận thức được rằng ngay cả khi trẻ không thể nhìn thấy cái gì đó thì nó vẫn tồn tại2. Đây là sự phát triển rất quan trọng đối với trẻ. Trước khi đạt được điểm mốc quan trọng này trẻ chỉ quan tâm tới những gì trong tầm quan sát của chúng. Ví dụ, nếu chúng ta quan sát trẻ nhỏ cẩn thận ta sẽ thấy rằng trước tám hoặc chín tháng tuổi, trẻ có thể làm rơi đồ vật từ cái khay trên ghế cao xuống mà không hề bối rối. Với trẻ nhỏ nếu sự vật rời khỏi tầm nhìn thì chúng không còn quan tâm đến nó nữa. Từ góc nhìn của trẻ, sự vật không còn tồn tại nữa. Rồi bỗng nhiên, đến tháng thứ tám, thứ chín hoặc tháng thứ mười, khi chiếc thìa rơi khỏi cái khay, trẻ cúi nhìn về phía đó và nhặng xị lên đòi lại nó. Thường các bậc cha mẹ hay người nhặt thìa cho trẻ sẽ cảm thấy ngạc nhiên và lạ lùng khi họ nhặt nó lên và đưa cho đứa bé lúc này đang mỉm cười, rồi bé lại ném chiếc thìa xuống chỗ cũ. Đây không phải là sự khởi đầu của những nỗ lực cố tình làm người lớn phát điên. Đây là khoảnh khắc bùng nổ đầu tiên của niềm vui sướng khi học hỏi! Đây là sự ổn định của đối tượng.
2 Hãy nhớ lại và liên kết quan điểm này của Piaget với giai đoạn đầu tiên của Erikson: từ khi mới sinh đến 12 tháng tuổi, trẻ dựa vào sự hiện diện và chăm sóc của mẹ (hoặc những người chăm sóc khác) để xác định sự tin tưởng hay ngờ vực (trust vs mistrust) về đối tượng. Sigmund Freud, khi quan sát đứa cháu (1 tuổi rưỡi) của mình chơi trò chơi (fort/da game) lúc mẹ nó đi vắng cũng nói tới điều mà cả Erikson và Piaget nói đến sau này: sự vắng mặt của người mẹ được đứa bé hiểu là mẹ nó vẫn tồn tại, nhưng nó phải tạo ra một trò chơi để tự làm mình khuây khỏa khi vắng mẹ. Sau này dòng Phân tâm chuyên về mảng này rất phát triển ở British: dòng phân tâm nghiên cứu về các Mối quan hệ đối tượng – Object relations (ND).
Đây cũng là độ tuổi chúng ta có thể nhận ra biểu hiện Lo âu bị tách rời1 ở trẻ. Trẻ sẽ khóc khi cha mẹ bỏ mình lại nhà trẻ hoặc khi người chăm sóc chính không có mặt ở đó. Giờ trẻ đã hiểu được rằng khi cha mẹ hoặc người chăm sóc không ở trong tầm nhìn thì tức là họ đang ở đâu đó. Người chăm sóc không phải là không tồn tại nữa. Vậy nên trẻ cố gắng kéo “người quan trọng”2 đó trở lại tầm nhìn của mình – bằng cách khóc.
1 Separation anxiety. Điểm này có thể thấy các bước mà Erikson và Piaget nói tới qua các giai đoạn phát triển nhận thức hầu như đã được Sigmund Freud bàn tới rồi. Lo âu khi bị tách khỏi đối tượng quen thuộc sau khi đạt được năng lực nhận thức sự tồn tại ổn định của đối tượng chính là tiến từ giai đoạn nhận ra sự hằng định đối tượng sang giai đoạn ham muốn gắn bó với đối tượng đó. Đối tượng đầu tiên (thường là mẹ) đã được gắn với nguồn sống và nguồn đáp ứng lại các nhu cầu sinh tồn đầu tiên của trẻ. Sự tách rời khỏi nguồn sống có thể gây ra lo âu, kinh sợ và cái chết. (ND)
2 Thực ra nguyên văn là: “So the baby makes attempts to bring that important ‘other’ back into view – by crying”, nhưng nếu dịch “other” thành “người khác” thì nó kệch cỡm so với mạch văn trong tiếng Việt quá nên tôi đành dịch phóng ý thành “người quan trọng” mà bỏ đi từ “khác”. Kì thực chính cái từ phải bỏ đi đó mới là quan trọng nhất, “Other-người khác” là một điểm quan trọng trong sự phát triển nhận thức của trẻ, không chỉ vượt qua giai đoạn nhận ra Chủ thể tính của mình là thứ gì đó tách biệt với vật khác hay người khác, mà trẻ còn tiến lên mức nhận thức được rằng những thứ khác đó vẫn tồn tại ngay khi khuất khỏi tầm nhìn (thị giác là giác quan quan trọng nhất của trẻ ở tuổi này, trước kia khi còn nhỏ hơn trẻ dùng xúc giác với sự tiếp xúc da thịt trực tiếp để dần học được sự liên hệ với đối tượng và sự phân tách khỏi đối tượng), và thêm một bậc nữa, trẻ phải đối diện với hệ quả của bậc nhận thức trước đó: nhận thức được rằng đối tượng khuất khỏi tầm nhìn vẫn có thể tồn tại ở đâu đó chứ không biến mất, dẫn trẻ tới ham muốn kéo đối tượng đó trở lại để thoát khỏi cảm thức bị phân tách, lo âu vì bị tách rời khỏi đối tượng gắn bó – ít nhất là gắn bó quen thuộc trong tầm nhìn. (ND)
Để hỗ trợ cho sự phát triển nhận thức của trẻ dưới 2 tuổi, lý thuyết của Piaget khuyên các giáo viên nên giữ cho trẻ an toàn nhưng vẫn có được sự tò mò hứng thú và nên đáp ứng lại ngay để trấn an khi trẻ có lo âu bị xa cách.
Giữ cho trẻ an toàn nhưng vẫn gây hứng thú
Vì phát triển vận động là nhiệm vụ học hỏi quan trọng trong giai đoạn cảm giác vận động nên một trong những hỗ trợ quan trọng nhất đối với sự phát triển nhận thức mà các giáo viên chăm sóc trẻ sơ sinh/trẻ chập chững cần làm đó là tạo nên môi trường an toàn và gây hứng thú cho trẻ. Trẻ cần đồ vật để kéo, đẩy và thao tác. Chúng cần bò trườn, leo trèo và được người lớn đỡ cho đứng lên mà không gặp nguy hiểm nào về thể chất. Một môi trường dành cho trẻ sơ sinh với nội thất đa dạng dành cho nhiều mức độ phát triển và có nhiều cơ hội leo trèo sẽ đem lại cho trẻ không gian cần để thử nghiệm các mối liên hệ không gian và học qua thân thể mình. Theo Piaget, trẻ cũng cần những đồ vật hấp dẫn để sờ nắm và khám phá. Điều quan trọng là cần có các đồ chơi đa dạng gây hiệu ứng (là những đồ chơi tạo ra tiếng động khi ấn, kéo hoặc lắc) như dàn lục lạc hay bộ đồ chơi xếp hình. Trẻ cũng cần có trải nghiệm với những đồ mềm mại hơn đất nặn không có độc, tinh bột ngô-và- nước, nước, cát. Gương và những đồ trang sức đặt ngang tầm mắt trẻ, những cuốn sách bìa cứng và sách vải để ở nơi trẻ dễ lấy có thể sẽ khiến trẻ hứng thú hơn nhiều.
Sự phát triển nhận thức của trẻ nhỏ cũng được kích thích khi người lớn thường xuyên trò chuyện với trẻ, thủ thỉ nói cho các em biết điều gì đang diễn ra và khen ngợi khi các em hoàn thành nhiệm vụ nào đó. Những nơi thoải mái để người lớn làm việc trong các chương trình chăm sóc trẻ sơ sinh/trẻ chập chững sẽ giúp họ tập trung vào trẻ nhỏ và có thể ngồi xuống cùng tầm nhìn của trẻ để có thể đưa ra những dạng tương tác quan trọng khác nữa Ứng phó với nỗi Lo âu Phân tách.
Khi trẻ nhỏ bắt đầu có kinh nghiệm về sự ổn định của đối tượng, xuất hiện cảm giác lo âu bị phân tách, thì điều quan trọng là cần hạn chế sự thay đổi trong môi trường của trẻ ở mức tối đa. Với kinh nghiệm còn non nớt, trẻ sẽ bắt đầu nhận ra rằng những người mà các em yêu quý sẽ luôn quay trở lại sau một khoảng thời gian họ đi đâu đó. Nhưng trong thời gian chuyển tiếp đó việc duy trì chương trình thường ngày là một ý tốt. Ví dụ, đó không phải là thời điểm tốt để thực hiện những chương trình chăm sóc trẻ mới. Những người chăm sóc trẻ hiểu biết về giai đoạn này có thể giúp các bậc cha mẹ nhận ra lý do tại sao con họ bỗng nhiên bị khó chịu bất thường như thế khi họ nói tạm biệt. Họ có thể trấn an các bậc cha mẹ rằng giai đoạn này rồi sẽ qua đi sau một thời gian ngắn.
Những thử thách về tình trạng lo âu bị phân tách không chỉ liên quan tới việc trẻ nên được chăm sóc như thế nào trong chương trình ở nhà trẻ mà còn liên quan tới chính sách tiếp nhận trẻ nữa. Ví dụ, Gini là giám đốc một trung tâm chăm sóc trẻ mà tôi làm người giám sát. Cô kể với tôi về một buổi phỏng vấn tiếp nhận trẻ với cặp cha mẹ đang định chuyển con họ từ một trung tâm chăm sóc khác tới trung tâm của Gini. Cô lắng nghe thấu cảm khi cặp cha mẹ đó mô tả về sự chia tách khổ sở mỗi sáng với đứa con 10 tháng tuổi của họ. Họ khẳng định rằng con họ chắc chắn không thích cách chăm sóc ở nhà trẻ hiện thời nhưng chỉ là chưa biết nói thôi. Gini nói với họ về những vấn đề chia tách và khích lệ họ chờ khoảng một đến hai tháng nữa trước khi đưa ra bất kì quyết định thay đổi nào. Cô gợi ý rằng đứa trẻ có lẽ sẽ sớm vượt qua giai đoạn này và sẽ ổn thôi. Cặp cha mẹ cảm ơn Gini và ra về. Một tuần sau, tại một hội nghị của những người quản lý nhà trẻ, Gini nghe nói rằng đứa trẻ đã được chuyển từ nhà trẻ cũ sang một trung tâm chăm sóc gần đó. Cô rất thất vọng vì cô biết rằng đứa trẻ thậm chí sẽ phải chịu nhiều đau khổ của lo âu chia tách hơn, điều hoàn toàn có thể tránh được nếu trung tâm chăm sóc kia có những hoạt động hỗ trợ cho các nhu cầu phát triển của bé và nếu gia đình em bé chịu đợi thêm một thời gian nữa.
Những người chăm sóc trẻ cũng có thể hỗ trợ các bậc cha mẹ trong giai đoạn phát triển này của trẻ bằng cách hoan nghênh họ gọi điện tới bất cứ lúc nào để biết con mình đang chơi ngoan như thế nào, và bằng cách thừa nhận rằng việc rời bỏ con mình để đi làm khi con đang khóc là điều rất khó khăn với các bậc cha mẹ. Nếu cha mẹ lo lắng, những đứa con của họ cũng nhiễm sự lo lắng này, mọi chuyện sẽ tệ hơn. Mọi thứ mà các giáo viên làm để trấn an các bậc cha mẹ trong giai đoạn này sẽ hỗ trợ cho sự phát triển của những trẻ ở trung tâm chăm sóc. Một số chương trình chăm sóc trẻ còn không chờ các bậc cha mẹ gọi tới hỏi han mà chủ động trao đổi trước, vì họ hiểu ở giai đoạn này việc phải chia tách với con trẻ khiến cha mẹ đau khổ như thế nào. Đôi khi cha mẹ bị bế tắc trong cảm giác tội lỗi khi con nhỏ khóc lúc chia tách vào buổi sáng. Một cuộc điện thoại ngắn gọi cho họ để báo rằng con họ đang chơi ngoan và chia sẻ một câu chuyện vào buổi sáng có thể giúp cho các bậc cha mẹ có một ngày làm việc dễ dàng hơn. Khi được hỗ trợ theo cách này, phụ huynh sẽ có khả năng thích ứng để duy trì thời khóa biểu cố định cho con hơn, điều đó sẽ giúp các bé vượt qua sự lo âu chia tách nhanh hơn và thành công hơn.
Trong suốt những tháng đầu đời của trẻ, việc chăm sóc cho các bậc cha mẹ cũng là một phần chính yếu trong sự hỗ trợ cho quá trình phát triển của trẻ. Những người mới trở thành cha mẹ thường rất căng thẳng. Một số bà mẹ thấy lo lắng vì họ cần phải trở lại làm việc trước khi họ họ sẵn sàng rời xa con. Một số bà mẹ mong sao có thể ở nhà chăm con nhưng không thu xếp được. Một số khác thì buộc phải quay trở lại công việc nhưng cảm thấy tội lỗi và xung đột khi làm như vậy. Không nhiều cha mẹ trẻ biết đến khái niệm về sự ổn định của đối tượng kèm theo sự lo âu chia tách thường của Piaget. Khi giáo viên giúp các bậc cha mẹ hiểu về sự phát triển của con họ hơn thì đó chính là lúc họ đang giúp các bậc cha mẹ hỗ trợ cho quá trình phát triển đó.