• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Cách mạng ý tưởng
  3. Trang 16

Danh mục

Chương IXSuy nghĩ lại về các quy định

Từ đầu quyển sách tới giờ chúng tôi chủ yếu tập trung vào các ý tưởng “tại sao không” trong kinh doanh.

Tuy nhiên, phương pháp này cũng có thể được áp dụng để phục vụ lợi ích công cộng. Có lẽ nhu cầu ở khu vực này còn lớn hơn nhiều. Cử tri thường phàn nàn: “Ý tưởng mới để điều hành đất nước tốt hơn nằm ở đâu?” Chương này sẽ cố gắng đưa ra một số câu trả lời.

Ngay cả một số ý tưởng kinh doanh trên của chúng tôi cũng có thể cần một cú huých nhẹ của chính quyền để giúp khởi động một sáng kiến kinh doanh của tư nhân. Massachussetts khuyến khích công dân của bang sử dụng Lojack. Và danh sách đăng ký không nhận cuộc gọi quảng cáo, bằng việc đảm bảo quyền không bị làm phiền của chủ thuê bao, có thể thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân tạo ra số 900 đảo ngược.

Sau đây, chúng tôi sẽ chuyển sang các vấn đề mới, từ đình công đến bảo vệ khách hàng cho đến quyền công dân và luật phát minh, bạn sẽ thấy các công cụ của chúng tôi được ứng dụng như thế nào.

ĐÌNH CÔNG ẢO

Các vụ đình công và đóng cửa xưởng1 gây tốn kém khủng khiếp đối với xã hội, không chỉ đối với người lao động và giới chủ, mà còn đối với khách hàng và những người khác sống dựa vào ngành công nghiệp đó. Hãy nghĩ xem bọn trẻ sẽ buồn như thế nào khi mùa bóng rổ hoặc bóng chày bị ngắt quãng bởi một vụ đình công. Hoặc giáo viên đình công làm trường học phải đóng cửa - đặc biệt khi nó trùng với một vụ đình công của các cầu thủ bóng chày?

1 Đóng cửa xưởng: Thủ thuật của giới chủ không cho công nhân gia hạn hợp đồng nhằm gây sức ép lên nghiệp đoàn khi xảy ra đình công.

Khi các công nhân làm việc ở bến tàu bị đóng cửa xưởng năm 2002, chi phí do gián đoạn mà phần còn lại của nền kinh tế phải gánh chịu ước tính 10 tỷ đô la chỉ trong 10 ngày đầu tiên. (Những chi phí này đã dẫn đến việc Tổng thống George W. Bush phải viện dẫn Đạo luật Taft-Hartley, nhờ đó mở cửa trở lại bến tàu trong thời gian hạ nhiệt kéo dài 80 ngày.) Với 10 tỷ đô la, phí tổn mà bên thứ ba phải chịu lớn hơn 50% đến 100% so với số tiền được đưa ra đàm phán giữa giới chủ và công nhân bến tàu. Trong một số trường hợp, phí tổn mà bên thứ ba phải chịu lớn đến mức luật phải có quy định cấm đình công. Quy định cấm này được áp dụng đối với “các ngành công nghiệp then chốt” trong thời chiến hoặc ngay cả trong thời bình, đối với cảnh sát và nhân viên y tế, vì hậu quả của việc họ đình công đối với xã hội là không thể lường được.

Có cách nào làm giảm tác động tiêu cực của các vụ đình công mà không gây ảnh hưởng đến cán cân trong đàm phán giữa giới chủ và công nhân không? Đội chiếc mũ chuyển đổi lên đầu, chúng ta sẽ thử đến với một ý tưởng trong văn học - rằng một cuộc chiến tranh có thể được quyết định chỉ bằng một trận đấu giữa hai người đàn ông - trong đó một người phải chết. Đó là hàm ý của Goliath khi thách đấu với quân Do Thái: “Các ngươi hãy chọn một người và đưa đến đây để đấu với ta. Nếu anh ta thắng ta và giết được ta thì người của chúng ta sẽ là kẻ tôi tớ của các ngươi, nhưng nếu ta thắng và giết chết anh ta thì các ngươi sẽ là tôi tớ của chúng ta và phục vụ chúng ta”.2

2 Samuel 17: 8-10.

Đương nhiên vấn đề ở chỗ phải tìm được một chiến binh có khả năng tương đương để giành chiến thắng. Trong trường hợp của Goliath, không ai dám đấu với Goliath cho đến khi David xuất hiện. Phần lớn các chiến binh Do Thái đã chọn con đường an toàn cho mình.

Hoặc chúng ta có thể lấy cảm hứng từ tập phim A Taste of Armageddon (Dư vị của cuộc chiến cuối cùng) trong seri phim truyền hình Star Trek, trong đó Thuyền trưởng Kirk và tàu Enterprise va phải hai hành tinh đã chiến đấu với nhau trong suốt hơn 500 năm. Để tránh sự hủy diệt hoàn toàn, hai hành tinh đã đồng ý sử dụng một chương trình máy tính quyết định xem ai phải chết. Khi chương trình quyết định, người bị tuyên bố phải chết sẽ sẵn sàng bước vào một căn phòng phản vật chất và tiêu biến thành khí. Ý tưởng “tại sao không” từ Star Trek có ưu điểm ở chỗ nó làm giảm thiệt hại mà cả hai bên phải gánh chịu do chiến tranh (mặc dù vì một vài lý do nào đó mà máy tính lại quyết định người phải chết là Kirk và Spock). Tuy nhiên, các chiến binh vẫn phải gánh chịu tổn thất lớn về sinh mạng. Và trong thực tế, làm thế nào để các bên nhất trí với chương trình máy tính như vậy?

Hóa ra từ hơn 50 năm qua đã có một ý tưởng nhằm loại bỏ sự lãng phí của các vụ đình công và đóng cửa xưởng. Ý tưởng cơ bản, giống như trong Star Trek là tái tạo những phí tổn mà cả công nhân và giới chủ phải gánh chịu trong một vụ đình công truyền thống.

Thông thường, chính phủ đưa ra cây gậy và củ cà rốt để làm thay đổi động cơ của các bên tham gia, nhưng ở đây, chúng ta lại tìm kiếm sự can thiệp duy trì nguyên trạng động cơ của mỗi bên. Chúng ta muốn giới chủ và công nhân tiếp tục phải gánh chịu những phí tổn như trong một cuộc đình công truyền thống. Chúng ta chỉ muốn giảm tổn thất mà người khác phải chịu. Vậy phải làm thế nào?

Thay vì một vụ đình công truyền thống, tại sao không tạo ra một vụ đình công ảo? Trong một vụ đình công ảo, công nhân vẫn làm việc bình thường và công ty vẫn sản xuất bình thường, nhưng họ hy sinh cho chính phủ một khoản tiền tương đương với phí tổn của vụ đình công thật.

Đầu tiên, công nhân bị mất lương và giới chủ mất lợi nhuận khi xảy ra đình công. Như vậy, trong một vụ đình công ảo, công nhân sẽ làm việc mà không được gì, còn giới chủ sẽ trao cho Chú Sam3 (hoặc làm từ thiện) toàn bộ số doanh thu của mình.4

3 Chú Sam: Là một người làm nghề đóng thịt hộp được cử làm viên chức kiểm tra thịt trong lực lượng quân sự Mỹ trú đóng ở New Jersey, làm việc với một nhà thầu tên Elbert Anderson. Thịt do Anderson cung cấp được đóng dấu chữ “EA-US” là chữ tắt tên của nhà thầu (Elbert Anderson) của quốc gia cung cấp (United States). Nghe đồn, khi thống đốc New York hồi đó là Daniel D. Tompkins đến thăm nhà máy đóng hộp và hỏi về những chữ tắt trên, một công nhân đã trả lời ông ta “US” là chữ tắt của “uncle Sam Wilson” (chú Sam Wilson). Từ đó các binh sĩ Mỹ truyền tai nhau là những chuyến hàng tiếp tế cho quân đội đã đến từ Chú Sam. Dần dần, người Mỹ dùng từ Chú Sam khi muốn trêu chọc ai đó.

4 Bạn có thể lập luận rằng công ty chỉ cần từ bỏ lợi nhuận để giữ doanh thu. Trên lý thuyết thì đúng như vậy nhưng trong thực tế rất khó thực hiện điều này. Sẽ nổ ra những cuộc tranh luận về chi phí nào có thể cắt giảm và chi phí nào thì không. Vì công ty không phải trả chi phí lao động nên lợi nhuận sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu. Cuối cùng, với tính đối xứng, công nhân sẽ chỉ cần phải từ bỏ “lợi nhuận” khi làm việc - nghĩa là lợi ích ròng của làm việc so với đình công. Để cho đơn giản, công nhân từ bỏ toàn bộ lương và công ty từ bỏ toàn bộ doanh thu.

Hãy nghĩ về điều này. Trong một vụ đình công ảo thì phần còn lại của nền kinh tế không bị ảnh hưởng. Các thương lái thu mua hàng không còn bị mắc kẹt vì không được phục vụ. Và không giống như trong Star Trek, chi phí khổng lồ cho các chiến binh được trở thành một khoản tiền chuyển khoản thuần túy. Giới chủ và công nhân chắc chắn đã thấy phí tổn mình phải gánh chịu (và có động cơ để giải quyết), còn chính phủ (hoặc tổ chức từ thiện) thì tự dưng có tiền từ trên trời rơi xuống.

Thay vì cấm đình công khi nó có thể gây ra ảnh hưởng nặng nề đến xã hội hoặc trong thời chiến, tại sao ít nhất không cho phép công nhân có quyền tổ chức một cuộc đình công ảo và giới chủ được quyền tổ chức một đợt đóng cửa xưởng ảo?5

5 Hai chuyên gia về đàm phán của Harvard - Howard Raiffa và David Lax đề nghị áp dụng đình công ảo để giải quyết cuộc đình công của NLF năm 1982, xem “Touchdowns in the Football Impasse”, Los Angeles Times, số ngày 09/11/1982, 7. Trong đó, toàn bộ lương và doanh thu sẽ được chuyển cho một bên thứ ba tạm giữ và sẽ trả lại cho các bên sau khi giải quyết xong vụ đình công. Điều này sẽ là một sự khích lệ để các bên giải quyết vấn đề. Cứ mỗi tuần thì số tiền bên thứ ba giữ sẽ được trích ra làm từ thiện và số tiền ngày càng tăng. Chúng ta cần tránh trở nên quá tham làm và đừng cố xây dựng một hệ thống mà trong đó các bên tranh cãi không phải chịu tổn thất. Nếu các bên lấy lại được toàn bộ chi phí của vụ đình công (cộng với lãi suất) thì họ sẽ có ít động lực để giải quyết vấn đề.

Đình công ảo không phải là một ý tưởng đang chờ kiểm nghiệm mà nó đã được tiến hành trong thực tế. Trong Thế chiến II, hải quân Mỹ sử dụng đình công ảo để giải quyết một vụ tranh cãi lao động tại công ty sản xuất van Jenkins ở Bridgeport, Connecticut. Hải quân ra lệnh tất cả các hóa đơn của công ty và lương của công nhân phải trả cho một ban quản trị của hải quân. Giáo sư Đại học Harvard, Daniel Quinn Mills tóm lược kết quả như sau: “Chính phủ buộc công ty phải tiếp tục sản xuất dù xảy ra tranh chấp về lao động nhưng cả công nhân lẫn công ty đều không có lợi từ việc tiếp tục sản xuất”.6

6 Xem Labor-Management Relations (New York: McGraw-Hill, 1978), 195 của Daniel Quinn Mills. Không rõ liệu số tiền trao có được cho bên thứ ba và cuối cùng có được trả lại hay không hay nó vẫn thuộc quyền quản lý của hải quân.

Một vụ đình công ảo cũng được sử dụng trong thỏa thuận dàn xếp vụ đình công của lái xe bus ở Miami năm 1960. Sau ba ngày đình công, người lao động và giới chủ đã đồng ý nối lại dịch vụ dưới các điều kiện sau: (1) Dân chúng được nhận vé xe bus miễn phí; (2) Những lái xe tham gia đình công không được trả lương và không được nhận tiền thưởng của khách; (3) Chủ doanh nghiệp trả tất cả các chi phí bình thường để duy trì hoạt động của xe bus.

Trong bản đánh giá về vụ đình công ảo đầu tiên này, nhà kinh tế học David McCalmont kết luận: “Như vậy, trong khi xã hội không phải chịu phí tổn hay sự khó chịu nào thì các bên liên quan đến vụ tranh cãi chịu sức ép nặng nề phải tìm cách giải quyết những bất đồng”.7

7 “The Semi Strike”, Industrial and Labor Relations Review 15, số 2 (1962): 191 của David B. McCalmont.

McCalmont tiếp tục với việc giải thích rằng vụ đình công ảo Miami chỉ kéo dài trong bốn ngày. Công ty yêu cầu xe bus của mình phải ngừng hoạt động khi phát hiện một số lái xe nhận tiền thưởng của khách, trái với thỏa thuận. Từ đó về sau, vụ đình công trở lại với hình thức truyền thống của nó và dân chúng không thể đi xe bus trong vòng 30 ngày.

Kinh nghiệm của vụ Miami cho thấy khách hàng của công ty tham gia tranh cãi là người thụ hưởng tự nhiên. Với việc cắt giảm giá, công ty có thể bỏ qua lợi nhuận của mình trong thời gian diễn ra đình công. Nhưng nó cũng cho thấy rằng những khách hàng có lòng trắc ẩn lại chính là người phá vỡ thế cân bằng về lực trong quá trình mặc cả giữa các bên, theo những cách mà nếu trả tiền cho chính phủ hoặc làm từ thiện thì không thể thực hiện được.

Gần đây, Italia đã trở thành trung tâm của các sáng kiến đình công ảo. Năm 1999, các phi công và tiếp viên của hãng hàng không Meridiana đã dàn dựng vụ đình công ảo đầu tiên của Italia. Trong vòng 4 tiếng đình công, các phi công và tiếp viên vẫn làm việc bình thường nhưng không được trả lương, còn Meridiana thì tặng hóa đơn từ các chuyến bay của họ cho các tổ chức từ thiện.

Cuộc đình công này là sản phẩm tự nhiên của Hiệp ước về Quan hệ lao động trong ngành giao thông Italia tháng 12 năm 1998. Nó đưa ra những hình thức mới của hành động tập thể, “dù gây thiệt hại cho các công ty và người lao động tham gia vụ đình công, nhưng không làm ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ và khách hàng không phải là người gánh chịu hậu quả”.

Vụ đình công ảo trên đạt kết quả mỹ mãn. Các chuyến bay diễn ra trong thời gian đình công đã không bị gián đoạn. Đội bay thông báo với hành khách là các chuyến bay của họ sẽ không bị ảnh hưởng bởi vì đây là một vụ đình công ảo. Những người lao động tham gia đình công đeo băng màu trắng trên tay áo để làm nổi bật sự tham gia của mình.

Một vụ đình công khác trong ngành giao thông ở Italia đã theo bước Meridiana. Năm 2000, Nghiệp đoàn giao thông của Italia bị thiệt hại 100 triệu lia từ vụ đình công ảo do 300 phi công tiến hành. Vụ đình công ảo mang lại một cơ hội quảng bá lớn vì toàn bộ số chi phí của nó được dùng để mua thiết bị y tế cho một bệnh viện nhi. Thay vì làm ảnh hưởng đến nhu cầu của khách hàng như vụ đóng cửa xưởng của NBA, số tiền có được nhờ vụ đình công ảo tạo cơ hội nâng cao danh tiếng cho thương hiệu của công ty.

Tuy nhiên, có điều hơi éo le là lợi ích trong quan hệ công chúng của một vụ đình công ảo có thể khiến nó khó được thực hiện. Phần quan trọng nhất trong một vụ đình công ảo là xác định xem giới chủ sẽ phải bỏ ra bao nhiêu tiền trong quá trình đình công. Đối với một số ông chủ, khả năng mất khách hàng là lý do cơ bản khiến họ phải tìm cách chấm dứt đình công, chứ không phải thiệt hại trước mắt. Chỉ bằng việc yêu cầu giới chủ hy sinh lợi nhuận ngắn hạn, hoặc thậm chí cả doanh thu, thì khó có thể tái tạo phí tổn thực sự của một vụ đình công truyền thống. Đôi khi sức mạnh trong đàm phán của các nghiệp đoàn có được từ sức ép mà khách hàng và chính phủ gây ra đối với công ty.

Tuy nhiên, liệu có phải mục tiêu duy nhất của đình công là làm cho khách hàng khó chịu để họ phải gây sức ép buộc giới chủ phải giải quyết hay không? Không nhất thiết như vậy. Tại sao chúng ta phải giả định rằng những khách hàng khó chịu sẽ chỉ gây sức ép đối với giới chủ? Nếu khách hàng đổ lỗi cho công nhân về việc gây ra đình công thì sức ép sẽ đổ lên phía công nhân. Nếu mục tiêu là cản trở việc kinh doanh trong tương lai thì tại sao sự cản trở lại tác động lên giới chủ mạnh hơn? Nếu không có công việc kinh doanh trong tương lai, công nhân cũng sẽ thất nghiệp. Tuy nhiên, ngay cả khi khách hàng và chính phủ cùng gây sức ép buộc giới chủ phải giải quyết thì như thế chỉ có nghĩa là giới chủ lẽ ra phải bị mất nhiều tiền hơn trong vụ đình công ảo. Công ty có thể sẽ phải hy sinh nhiều hơn là lợi ích ngắn hạn của mình. Trong cả bốn ví dụ mang tính lịch sử trên, giới chủ đều đồng ý trả toàn bộ doanh thu trong thời gian diễn ra vụ đình công.

Tại sao công nhân lại đồng ý làm việc mà không được trả lương? Cũng cùng với lý do mà các công nhân ngày nay đình công - để gây ra thiệt hại cho giới chủ. Trong thực tế, trong một cuộc đình công ảo, chúng ta có thể trông đợi người lao động làm việc chăm chỉ hơn vì mỗi phần doanh thu tăng thêm là một phần phí tổn tăng thêm cho giới chủ, những người đã chấp nhận mất toàn bộ doanh thu.

Đội chiếc mũ đối xứng lên, chúng ta có thể áp dụng giải pháp đình công ảo để loại bỏ sự thiếu hiệu quả của các vụ đóng cửa xưởng do giới chủ gây ra, giống như vụ ở bến tàu bờ biển phía Tây năm 2002. Trong một vụ đóng cửa xưởng ảo, các bên tham gia chịu mất tiền trong khi công việc vẫn được thực hiện.

Chính phủ ở vào một vị trí hoàn hảo để thúc đẩy hai bên đi đúng hướng. Chẳng hạn, Cục Dự trữ Liên bang có thể giảm nghĩa vụ an sinh xã hội cho cả người lao động và giới chủ nếu hai bên đồng ý tiến hành đình công ảo thay vì đình công và đóng cửa xưởng theo kiểu truyền thống.

Việc chính phủ trợ cấp cho đình công ảo có thể xem như một ứng dụng khác của ý tưởng nội hóa - vì nó giúp người lao động và giới chủ hiểu rõ hơn giá trị lợi ích mà xã hội được hưởng nhờ việc ngăn không để đình công thật xảy ra. Vì chính phủ là người thụ hưởng lợi ích của các vụ đình công ảo nên việc cắt giảm thuế không nhất thiết gây nên thâm hụt ngân sách. Ai mà biết được? Có khi chính phủ còn kiếm thêm tiền từ vụ này.

Không thể phân tích hết lợi ích của ý tưởng đình công ảo chỉ trong vài dòng.8 Tuy nhiên, cần nhớ là: “Dưới chân đồi có vàng”. Các cuộc đình công truyền thống làm lãng phí hàng triệu đô la cho các bên tham gia, cho khách hàng và nhà cung cấp, vì thế lợi ích từ đình công ảo đối với tất cả các bên là rất lớn. Thay vì chờ đến khi đình công nổ ra, người lao động và giới chủ nên thỏa thuận từ trước để tiến hành một vụ đình công ảo trong trường hợp đàm phán hợp đồng bị đổ vỡ. Lợi ích tiềm năng của việc loại bỏ hoàn toàn sự không cần thiết của đình công truyền thống biện minh cho những nỗi lực của chính phủ trong việc thử áp dụng phương pháp này để giải quyết mâu thuẫn về lao động.

8 Có một số vấn đề khó khăn trong triển khai. Chẳng hạn, các nghiệp đoàn đã cam kết chỉ tổ chức đình công ảo sau đó có thể quyết định chỉ tổ chức giảm năng suất lao động để giới chủ phải nhượng bộ và trả tiền còn hơn là tổ chức đình công mà không được gì. Không hẳn là một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi các cuộc đình công ảo của Italia lại bắt đầu từ ngành hàng không, nơi mà việc giảm năng suất lao động khó xảy ra hơn. Một vụ giảm năng suất lao động sẽ không gây khó khăn cho giới chủ trong một thỏa thuận đình công ảo nhiều hơn là trong các quy định cấm đình công đối với các ngành công nghiệp then chốt. Giới chủ lúc nào cũng có thể trả đũa một vụ giảm năng suất lao động mà không có đình công bằng một vụ đóng cửa xưởng ảo.

PHÍ TỔN THỰC SỰ LÀ BAO NHIÊU?

Năm 1992, cơ quan bảo vệ môi trường của Mỹ giới thiệu chương trình Energy Star (www.energystar.gov), một chương trình dán nhãn tự nguyện được đưa ra nhằm giúp khách hàng hiểu lợi ích của các sản phẩm tiết kiệm năng lượng. Trước đó, việc dán nhãn hiệu sản phẩm tiết kiệm năng lượng chỉ giới hạn ở máy vi tính và động cơ, nhưng chương trình Energy Star đã mở rộng ra hầu hết các sản phẩm gia dụng (máy rửa bát, tủ lạnh, điều hòa nhiệt độ, v.v…). Khách sạn, nhà hàng và thậm chí cả đèn giao thông hiện nay cũng đã tham gia vào việc xếp hạng sản phẩm tiết kiệm năng lượng.

Ước tính chương trình này giúp khách hàng tiết kiệm 5 triệu đô la mỗi năm. Làm thế nào mà một cái nhãn nhỏ màu vàng lại làm được như vậy?

Chiếc nhãn cung cấp đầy đủ thông tin về chi phí sở hữu. Họ cho phép khách hàng cộng thêm chi phí năng lượng dự kiến vào giá sản phẩm ban đầu. Nếu không có thông tin này, khách hàng không phân biệt được sản phẩm tiết kiệm năng lượng có lợi hơn các sản phẩm khác ở điểm nào. Do đó, khách hàng thường không có động cơ để mua một chiếc máy tiết kiệm năng lượng với giá cao hơn; thay vào đó, họ thường chọn các sản phẩm gia dụng giá thấp nhưng tốn rất nhiều năng lượng. Kết quả là tác động xấu tới môi trường cũng như tới khách hàng vì họ bỏ qua cơ hội tiết kiệm.

Bây giờ, không những khách hàng tiết kiệm được tiền mà các nhà sản xuất cũng có thể tiết kiệm. Lý do là nhà sản xuất có thể cạnh tranh trên phương diện tiết kiệm năng lượng. Một doanh nghiệp tìm ra cách tiết kiệm 500 đô la chi phí điện năng có thể chứng minh cho khách hàng thấy ưu điểm này, nhờ đó có thể tăng giá sản phẩm hoặc giành thị phần.

Các doanh nghiệp muốn tự tiến hành chương trình của riêng mình nhưng việc khởi động một chương trình như vậy không hề dễ dàng. Khách hàng sẽ rất khó lựa chọn, trừ phi hầu hết các sản phẩm đều được dán nhãn. Chương trình Energy Star cũng giúp chuẩn hóa và kiểm chứng thông tin do nhà sản xuất đưa ra.

Như vậy, chúng ta đã có một giải pháp. Hãy tìm cách chuyển đổi nó cho những mục đích khác.

Vấn đề chúng tôi muốn giải quyết là tình trạng giá ngầm. Khách hàng ngày càng thấy khó khăn trong việc xác định giá thực sự của một sản phẩm.

Vấn đề này có mặt ở hầu hết mọi nơi - và ngay cả ở cửa hàng cho thuê băng video. Hầu hết các cửa hàng này đều có chương trình khuyến mại thuê hai đêm, trả tiền một vào giữa tuần. Bạn có thể thuê hai cuốn băng trong hai đêm với giá không đổi. Vấn đề là hình thức khuyến mại này không áp dụng khi bạn trả băng muộn. Nếu trả muộn, bạn phải trả tiền phạt quá hạn cho từng cuốn băng. Cuốn băng thứ hai thực ra không được miễn phí chút nào.

Thậm chí tiền phạt quá hạn còn nhiều hơn là tiền cho thuê. Số liệu cho thấy 25% doanh thu của Blockbuster là từ tiền phạt quá hạn.

Đương nhiên, việc bạn trả băng muộn là lỗi của bạn.9

9 Khi thuê băng theo hình thức hai cuốn trả tiền một, bạn thường dễ trả muộn hơn khi chỉ thuê một cuốn. Nếu bạn không có đủ thời gian xem xong cuốn phim thứ hai thì có thể bạn sẽ quyết định hoãn thời gian trả băng sang ngày hôm sau.

Và tiền phạt quá hạn không phải là vấn đề bức xúc nhất của thế giới. Chúng tôi đưa vấn đề này ra bởi nó là ví dụ cho một vấn đề lớn hơn nhiều.

Đó là vấn đề giá ngầm trong các hợp đồng điện thoại di động, thuê ô tô và khách sạn. Giá thực của việc thuê một chiếc xe là bao nhiêu, sau khi cộng cả phí bảo hiểm, thuế sân bay, phụ phí thuê lái xe thứ hai và tiền đổ xăng hay tiền thuê một chiếc xe đã được đổ sẵn xăng?

Đây là sự mập mờ có chủ ý. Một số công ty áp dụng giá ngầm nhằm làm cho giá sản phẩm/dịch vụ của mình có vẻ thấp hơn. Khi một công ty sử dụng chiêu thức này, các công ty khác cảm thấy mình không còn lựa chọn nào khác hơn là làm theo.

Cước điện thoại di động rẻ?

Giá cước điện thoại di động là một ví dụ điển hình. Mùa hè năm 2002, Sprint PCS cho ra mắt gói cước mới: 4.000 phút với giá 39,99 đô la một tháng.10 Thoạt nhìn thì có vẻ như giá cước chỉ vào khoảng vài xu một phút. Vấn đề ở chỗ bạn chỉ có 350 phút để sử dụng vào bất kỳ giờ nào, 3.650 phút còn lại chỉ được sử dụng vào ban đêm hoặc ngày cuối tuần. Nếu sử dụng quá thời gian cho phép, dù vào giờ nào, bạn đều phải trả cước 35 xu một phút. Nếu bạn không sử dụng hết thì số phút còn lại sẽ bị mất. Vậy giá cước mỗi phút thực ra là bao nhiêu?

10 Sprint đăng quảng cáo về gói cước này trên New York Times, số ngày 01/07/2002. Bản hợp đồng cho gói cước này của Sprint dài tới 15.000 từ, gần bằng ¼ cuốn sách này.

Coi như các cuộc gọi ngoài giờ cao điểm là miễn phí và toàn bộ tiền cước được tính theo giờ cao điểm. Cước cuộc gọi trong giờ cao điểm khoảng 5 xu một phút. Giả sử trung bình mỗi tháng bạn sử dụng hết 350 phút, có tháng 200 phút và có tháng 500 phút. Trong những tháng ít sử dụng, tiền cước là 20 xu một phút vì bạn bỏ phí những phút không sử dụng đến, còn trong những tháng sử dụng nhiều, tiền cước sẽ là 18 xu một phút do số phút gọi thêm bị tính giá là 35 xu.

Như vậy, giá cước 1 xu ban đầu đã biến thành 10 xu rồi 20 xu một phút, bởi vì thời lượng sử dụng hàng tháng khác nhau. Nhưng điều quan trọng là không ai biết giá cước thực sự mà mình phải trả là bao nhiêu và gói cước nào là có lợi nhất.

Không phải tất cả mọi người đều như vậy. Sprint biết điều đó và không nói cho ai biết. Sprint có thể thông báo giá cước trung bình tuỳ theo thời lượng sử dụng của bạn trong tháng hoặc trong năm.

Loại giá ngầm này không chỉ gây khó khăn cho khách hàng - điều này không có gì ngạc nhiên - mà còn là vấn đề đối với các nhà cung cấp dịch vụ. Lý do là giá ngầm gây ra sự xáo trộn rất lớn; nghĩa là nó làm cho khách hàng thường xuyên thay đổi nhà cung cấp dịch vụ mỗi khi có một gói cước mới tốt hơn. Nhà cung cấp luôn biết rõ hơn khách hàng là họ có thể kiếm được bao nhiêu tiền từ mỗi khách hàng, do đó, họ luôn tìm mọi cách thu hút khách hàng mới, cũng như tranh khách của các đối thủ: “Hãy đăng ký với Acme Phone và bạn sẽ nhận được một chiếc điện thoại di động miễn phí!” Tỷ lệ xáo trộn trong lĩnh vực này luôn ở mức cao nhất là 40%/năm.11 Đây là một khoản chi phí khổng lồ, bao gồm chi phí kinh doanh, tiếp thị và phí tổn của việc mất tín nhiệm đối với khách hàng. Sự xáo trộn cũng làm thay đổi bản chất của mối quan hệ giữa nhà cung cấp dịch vụ với khách hàng. Không còn khái niệm lòng trung thành. Kết cục là khách hàng cảm thấy bị lừa dối khi hóa đơn điện thoại lúc nào cũng cao hơn họ tưởng. Khách hàng phản ứng bằng cách chạy theo những gói cước mới nhất.

11 New York Times, số ngày 03/09/2001, Chương VII (bạn hãy xem thông tin về tỷ lệ xáo trộn chứ không phải thông tin về loại điện thoại phản trọng lực). Tỷ lệ xáo trộn ở Chicago dẫn đầu với 4,5% một tháng hay 68% một năm. Khách hàng xếp giá cả là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc họ thay đổi nhà cung cấp ở hai trong số năm thị trường lớn nhất.

Nếu mức giá được quy định rõ ràng hơn làm giảm giá trị cuộc sống của một khách hàng thì các doanh nghiệp sẽ chi ít tiền hơn vào việc thu hút khách hàng mới hoặc cướp khách hàng của các đối thủ. Nhưng không nhất thiết là họ sẽ kiếm được ít tiền hơn. Trong thực tế, họ sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn vì cơ cấu tổng chi phí của toàn ngành sẽ được cải thiện. Miếng bánh lợi nhuận sẽ trở nên lớn hơn và sau đó được chia sẻ cho khách hàng và người bán dịch vụ.

Việc chuyển đổi ý tưởng của chương trình Energy Star cho chúng ta giải pháp cho vấn đề giá ngầm. Doanh nghiệp có thể cung cấp thông tin về tổng chi phí của việc sở hữu sản phẩm/dịch vụ. Trong trường hợp điện thoại di động, Sprint có thể cho biết giá cước cuộc gọi mà khách hàng trả trong thời gian qua và giúp họ chọn những gói cước phù hợp nhất.

Tuy nhiên, nếu điều khoản của từng gói cước khác nhau làm cho khách hàng không so sánh được thì sao? Chúng ta cũng gặp phải vấn đề này khi đi mua hàng trong siêu thị. Mặc dù chất lượng của gói bánh quy nhân chocolate này có vẻ như tốt hơn một gói khác nhưng người tiêu dùng vẫn dễ chọn lựa hơn nếu có thể so sánh giá của hai loại bánh theo đơn vị chiếc bánh (hoặc gram).

Hãy tưởng tượng các chương trình quảng cáo điện thoại phải nêu giá cước trung bình mỗi phút của mỗi gói cước dựa trên thời lượng sử dụng của một khách hàng bình thường. Nếu mọi người có thể so sánh giá của các gói cước dựa trên mức sử dụng thực tế thì việc so sánh sẽ đơn giản hơn nhiều. Đặc biệt, chúng tôi cược rằng mức cước phi lý 35 xu một phút sẽ không còn tồn tại nữa.

Như vậy có nghĩa là các công ty điện thoại sẽ thu về ít lợi nhuận hơn? Không hề. Giải pháp này không khuyến khích các công ty “mua” khách hàng mới nữa. Nhờ việc giảm sự xáo trộn và loại bỏ trợ giá đối với các thuê bao điện thoại mới, Sprint và các đối thủ có thể kiếm lời nhiều hơn với các bảng giá được đơn giản hóa.

Đổ xăng hay không?

Giải pháp này còn tìm được một nơi rất tốt khác để áp dụng - đó là các công ty cho thuê ô tô. Khi khách hàng trả xe mà không đổ đầy bình xăng, các công ty này thường yêu cầu khách hàng trả 4 đô la hoặc thậm chí 5 đô la cho mỗi gallon xăng. Hoặc họ bán cho bạn một bình xăng đã được đổ đầy với giá 2 đô la/gallon và khi trả xe nếu còn thừa xăng thì bạn cũng không được hoàn lại tiền. Cả hai cách trên đều không khuyến khích khách hàng cư xử phù hợp. Thật là nực cười khi khách hàng nhỡ chuyến bay vì phải đi tìm trạm xăng, hoặc phải đặt một hai gallon xăng dự trữ trên xe. Mỗi cửa hàng cho thuê xe đều có máy bơm xăng và chiếc xe nên được đổ xăng ở đó.

Một lần nữa, chúng ta không thể xác định chi phí thực tế khi thuê một chiếc xe hoặc cách nào có lợi hơn. Người thuê xe thường để lại trung bình bao nhiêu gallon xăng mỗi khi họ trả xe? Phụ phí xăng nên tính như thế nào cho hợp lý?

Chúng ta sẽ không gặp phải vấn đề gì nếu để sự cạnh tranh giữa các công ty quyết định mức giá. Vấn đề giá ngầm thực chất là thiếu thông tin. Trong mọi trường hợp, người bán đều biết rõ khách hàng sẽ làm gì hơn là điều ngược lại.

Nếu giá mua đầy bình xăng trước khi thuê xe rẻ đến như vậy thì người bán đã không phải ngần ngại khi tiết lộ rằng thông thường khi khách hàng trả xe, bình xăng vẫn còn tới 1/3.

Đương nhiên, việc cung cấp toàn bộ thông tin về giá thực tế của sản phẩm/dịch vụ sẽ dẫn đến việc Hertz (cũng như Verizon và Blockbuster) tính giá ban đầu cao hơn. Tạm biệt những mức giá khó hiểu. Tuy nhiên, kết quả không phải là sự loại trừ lẫn nhau. Giải pháp này mang lại hiệu quả thực sự - thậm chí nó còn cứu vãn được những cuộc hôn nhân, vì các cặp vợ chồng không còn cãi nhau về việc đổ xăng trước khi trả xe và có thể lỡ chuyến bay - và như thế miếng bánh lợi nhuận sẽ lớn hơn nhiều. Khách hàng sẽ có cảm nhận tốt về dịch vụ cho thuê xe cũng như về công ty.

Với niềm tin vào thị trường, bạn có thể tự hỏi tại sao nhiều công ty không tự tiến hành những thay đổi này. Trong thực tế một số công ty đã làm điều này. Southwest Airlines và Jet Blue đưa ra bảng giá rõ ràng cho dịch vụ bay. Còn tại sao cho đến nay vẫn ít công ty áp dụng phương pháp này, câu trả lời của chúng tôi là rất khó thuyết phục khách hàng rằng cơ chế giá đơn giản sẽ có lợi cho họ hơn.

Hãy tưởng tượng điều gì xảy ra khi Hertz bỏ các loại phụ phí và tăng giá thuê xe thêm 3 đô la một ngày. Hertz sẽ không còn ở vị trí dẫn đầu trên Expedia cũng như các hệ thống đăng ký thuê xe khác vì có vẻ như họ sẽ bị các đối thủ đánh bại. Hertz có thể quảng cáo như sau: “Xin quý khách chú ý, mức giá của chúng tôi mới thực sự là thấp nhất - các công ty khác đều kèm theo giá ngầm!” Tuy nhiên, để làm được như vậy thì khách hàng cần phải tin tưởng Hertz và có ý thức về các phụ phí này. Hertz sẽ phải tự chấn chỉnh thị trường và cho đến khi hoàn thành chương trình này, Hertz sẽ ở vào thế yếu so với các đối thủ cạnh tranh.

Nhiều công ty (và ngay cả trường đại học) cũng bị mắc kẹt trong cái bẫy giá ngầm.12 Kết quả cuối cùng là họ cũng không có lợi hơn chút nào vì phải giảm lợi nhuận lúc ban đầu để cạnh tranh. Nếu chỉ mình bạn áp dụng chiến lược giá ngầm thì bạn có thể kiếm lời vì khách hàng không nhận ra là thực chất bạn đã tăng giá. Nếu các công ty khác áp dụng chiến lược giá ngầm và mình bạn không làm thế thì họ sẽ đánh bại hình ảnh của bạn trong mắt khách hàng cho đến khi bạn phải làm theo.

12 Để làm cho mức tăng học phí trông có vẻ ít hơn, các trường đại học lại thu thêm các khoản phí y tế, phí xã hội, phí thể thao, phí copy và nhiều khoản khác.

Lại một lần nữa, chúng ta có thể áp dụng giải pháp chiếc nhãn màu vàng. Ngoài giá, các công ty sẽ cung cấp cho khách hàng thông tin về chi phí tổng thể mà họ phải trả cho sản phẩm mà họ mua.

Khi phát hành thẻ Visa, Citibank sẽ cho khách hàng biết khả năng họ sẽ phải trả phí nếu thanh toán muộn.

Circuit City hoặc Ford cho bạn biết chi phí phát sinh của việc khiếu nại về gia hạn thời gian bảo hành.

Chương trình Au pair13 ở Mỹ cho các gia đình (và sinh viên) biết khả năng họ sẽ phải hoán đổi (nghĩa sinh viên đầu tiên sẽ không ở lại gia đình trong cả một năm). Thực tế, khả năng hoán đổi là 30%.

13 Au pair: Chương trình bảo lãnh sinh viên nước ngoài. Tham gia chương trình này, sinh viên ở nhà người dân bản xứ, giúp trông trẻ, làm việc nhà… Đổi lại, sinh viên được ăn ở miễn phí, được trả lương, được đi học ngôn ngữ và văn hóa, có cơ hội đi du lịch…

Đối với những khách hàng lần đầu sử dụng sản phẩm/ dịch vụ, việc công bố thông tin có thể bao gồm kết quả trung bình của nhóm khách hàng hiện thời - hoặc khách hàng giống như bạn. Nhưng đối với khách hàng đã sử dụng sản phẩm/dịch vụ, các công ty còn có thể đi xa hơn bằng việc cung cấp thông tin về tác động dự kiến đối với khách hàng trong tương lai.

Lâu nay chúng ta vẫn thường đòi hỏi người bán hàng tiết lộ những gì họ biết về bản thân họ và về khách hàng. Chúng ta đã yêu cầu các cửa hàng thực phẩm phải đề giá theo đơn vị mua để khách hàng tính toán được giá thực tế của sản phẩm. Người bán cũng phải cung cấp thông tin về hàm lượng chất béo trong một chiếc bánh gato nhân kem Twinkie. Số liệu về tỷ lệ phần trăm hàng năm (APR) được thông báo trong quảng cáo mua nhà trả góp. Tại sao không yêu cầu người bán tiết lộ những thông tin mà họ biết về chi phí thực tế mà khách hàng phải trả?

CÔNG CỤ KHUYẾT DANH

Sau đây chúng ta sẽ áp dụng một thành tựu đột phá của thế kỷ XIX - bỏ phiếu kín - vào trong bối cảnh thế kỷ XXI.

Chúng ta thường coi các cuộc bầu cử kín là một phần không tách rời của nền dân chủ Mỹ. Tuy vậy, trong thực tế, phòng bỏ phiếu kín và phiếu bầu khuyết danh mới chỉ xuất hiện ở Mỹ được hơn 100 năm. Ý tưởng này được triển khai lần đầu ở Australia vào năm 1880 và đã lan sang Mỹ và Tây Âu như một đám lửa. Chỉ trong vòng 30 năm sau đó nó đã được ứng dụng rộng rãi trên toàn thế giới.

Tại sao lại như vậy? Phòng bỏ phiếu kín là câu trả lời cho một vấn đề đặc thù: Trước khi có bầu cử kín, cử tri của các đảng thường xếp thành hàng dài, tay cầm những lá phiếu được in sẵn và có màu riêng của từng đảng.14

14 Phiên bản đầu tiên của bầu cử kín có rất nhiều vấn đề. Mọi người có thể đánh dấu vào tấm phiếu và kết quả là những lá phiếu với các dấu hiệu không liên quan đều bị coi là không hợp lệ (100 năm sau, những quy định chặt chẽ về phiếu bầu này đã dẫn tới việc George W. Bush thắng cử tổng thống). Xem thêm “Election and Change under ‘Voting with Dollars’”, của Pam S. Karlan, đăng trên California Law Review (2003).

Phòng bỏ phiếu đã làm thay đổi bộ mặt của các cuộc bầu cử. Với hình thức bỏ phiếu khuyết danh, việc mua phiếu bầu sẽ khó khăn hơn nhiều bởi vì ứng cử viên không biết chắc liệu cử tri đã được trả tiền có thực sự bầu cho mình hay không. Ai cũng có thể tuyên bố mình bầu cho JFK nhưng chẳng ai chứng minh được điều đó.

Bỏ phiếu khuyết danh giúp giải quyết vấn đề này. Còn vấn đề nào khác mà giải pháp khuyết danh có thể giải quyết được không?

Nên nhớ rằng công cụ chuyển đổi yêu cầu bạn trình bày lại cả vấn đề và giải pháp theo cách tổng quát. Như vậy, nói một cách tổng quát thì vấn đề là một thỏa thuận có liên quan đến hối lộ. Bỏ phiếu khuyết danh phá vỡ thỏa thuận vì một bên không biết chắc rằng bên kia có thực hiện thỏa thuận hay không. Câu hỏi chuyển đổi sẽ là: Còn dạng thỏa thuận nào có liên quan đến hối lộ mà giải pháp khuyết danh có thể giải quyết được không?

Giải pháp khuyết danh có thể được áp dụng một cách hiệu quả trong bầu cử. Trong các cuộc bỏ phiếu giành quyền kiểm soát hội đồng quản trị của các tập đoàn, vấn đề không phải là ban lãnh đạo hối lộ cổ đông để đổi lại sự ủng hộ, mà họ loại bỏ lá phiếu của người quản lý quỹ lương hưu bằng việc đe dọa không cho những người bất đồng ý kiến tiếp tục nắm giữ chức vụ. Những năm 1990 đã cho thấy việc chuyển sang hình thức bỏ phiếu kín trong hội đồng quản trị là một cách bảo vệ cổ đông/người bán hàng trước những hình thức trả đũa như vậy.15

15 Tuy nhiên bài viết “Does Confidential Proxy Voting Matter?” của Roberta Romano trên www.ssrn.com đã chỉ ra rằng đến nay quá trình bầu khuyết danh vẫn chưa làm tăng tỷ lệ thành công của các đề xuất ủy nhiệm.

Bạn nghĩ thế nào về việc mua bán ảnh hưởng? Vào thời điểm McCain-Feingold soạn thảo dự luật về cải cách vấn đề vận động tài chính cho bầu cử, dư luận đã dấy lên mối lo ngại về việc các ứng cử viên bán mối quan hệ hay ảnh hưởng để đổi lại tiền của nhà tài trợ cho chiến dịch tranh cử. Xã hội có sự đồng thuận mạnh mẽ rằng việc cung cấp danh tính nhà tài trợ giúp ngăn ngừa những thỏa thuận phản dân chủ. Dư luận có thể trừng phạt ứng cử viên nhận các khoản đóng góp không trong sạch, đồng thời các công tố viên cũng có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cả ứng cử viên và người đóng góp nếu họ chứng minh được dấu hiệu tham nhũng đằng sau một mối nghi ngờ có căn cứ.

Tuy nhiên, thay vì buộc ứng cử viên công bố danh tính của nhà tài trợ, Jeremy Bulow, Saul Levmore và một số học giả lại đặt câu hỏi sẽ như thế nào nếu buộc các nhà tài trợ không được tiết lộ danh tính? (Đọc đến đây, nếu bạn vẫn chưa nghĩ đến công cụ đối xứng thì tốt hơn hết là nên gấp sách lại và đi tìm thú vui khác!)

Giống như bỏ phiếu khuyết danh khiến các ứng cử viên khó mua phiếu, tài trợ khuyết danh cũng khiến ứng cử viên khó bán ảnh hưởng. (Tôi cho rằng tôi không bao giờ nhìn một vấn đề mà không thấy sự đối xứng! Xin lỗi Joyce Kilmer!) Trong cả hai trường hợp, sự khuyết danh cản trở nạn hối lộ trong chính trị vì ứng cử viên không biết được liệu cử tri hay nhà tài trợ có thực hiện đúng cam kết của mình hay không.

Trong trường hợp này chúng ta tìm ra giải pháp không phải nhờ việc tổng quát hóa vấn đề (hối lộ chính trị) mà công cụ chuyển đổi cho chúng ta biết làm thế nào để giải pháp có tác dụng trong bối cảnh mới.

Giải pháp khuyết danh chỉ có thể ngăn ngừa nạn tham nhũng nếu ứng cử viên không biết ai là người thực sự đóng góp tiền cho mình. Có cách nào để ngăn nhà tài trợ nói với ứng cử viên là tôi đã đóng góp tiền cho ông? Không có. Tuy nhiên, cũng không có cách nào để ngăn một nhà tài trợ giả nói điều tương tự, trong khi thực ra họ không hề đóng góp xu nào.

Nói thì dễ. Ai cũng có thể nói như vậy. Một khi đã biết điều này, ứng cử viên sẽ do dự khi bán ảnh hưởng của mình mà chỉ dựa vào lời nói của người đi mua ảnh hưởng. Tác động của việc “nói thì dễ” là lý do tại sao hình thức bỏ phiếu kín giúp loại bỏ tình trạng mua bán phiếu bầu - ai cũng có thể tuyên bố đã bầu cho một ứng cử viên nào đó, nhưng không ai chứng minh được điều đó.

Đương nhiên, những nhà tài trợ đi hối lộ sẽ không ngồi ì ra. Rất có thể họ sẽ đưa cho ứng cử viên xem bản sao kê và tấn công vào quỹ ký thác16 của ứng cử viên bằng các khoản đóng góp, cụ thể là nói cho ứng cử viên biết số tiền, thời điểm chuyển tiền và đề nghị họ kiểm chứng trong tài khoản. Tuy nhiên, một lần nữa công cụ chuyển đổi giúp chúng ta có ngay câu trả lời cho mưu mẹo này. Do bỏ phiếu kín, những người bầu cho Gore có thể vờ như họ bầu cho Bush (hoặc ngược lại). Ý tưởng cốt lõi ở đây là sự bắt chước. Chỉ cần những người không đóng góp bắt chước được những dấu hiệu của người đóng góp thì ứng cử viên không thể phân biệt được ai là người đóng góp thực sự để mà ưu ái.

16 Quỹ ký thác (Blind trust): Là loại quỹ mà chủ nhân giao phó toàn quyền quyết định mua bán cho người quản trị.

Trong cuốn sách Voting With Dollars (Bầu cử bằng đồng đô la), Ian Ayres và Bruce Ackerman đã mô tả nguyên tắc bắt chước một cách chi tiết.17 (Trong cuốn sách đó họ thậm chí còn đưa ra một quy luật điển hình!) Nhà tài trợ có một giai đoạn hạ nhiệt năm ngày để rút lại quyết định tài trợ. Trong giai đoạn này, nhà tài trợ sau khi gửi séc đến quỹ ký thác, sẽ nhận được cả bản sao kê lẫn hóa đơn hoàn trả tiền. Sau đó, quỹ ký thác sẽ xem xét cân bằng các khoản tiền được đóng góp để tránh các dấu hiệu có thể làm lộ danh tính của các nhà tài trợ lớn trong mỗi khoản đóng góp cụ thể.

17 Xem Voting With Dollars: A New Paradigm for Campaign Finance (New Haven: Đại học Báo chí Yale, 2002) của Ian Ayres và Bruce Ackerman.

Cuối cùng thì không có cơ chế khuyết danh bắt buộc nào là hoàn hảo. Hình thức bỏ phiếu kín cũng có thể không hiệu quả trong các cuộc bỏ phiếu vắng mặt. (Người mua phiếu có thể duyệt trước các lá phiếu vắng mặt có chữ ký hoặc thậm chí còn gửi chúng đến nơi bỏ phiếu.) Tuy nhiên, “phòng đóng góp” lại là một giải pháp khá tốt cho tình trạng mua bán ảnh hưởng trong bầu cử hiện nay.

Bạn có thể cho rằng việc cấm tiết lộ danh tính nhà tài trợ trong bầu cử là một điều khó mà thực thi được, ấy thế mà trong thực tế đã có 10 bang áp dụng ý tưởng này trong các cuộc bầu cử tư pháp. Các bang này áp dụng bộ quy tắc ứng xử tư pháp năm 1972, theo đó “(một) ứng cử viên (tư pháp) không được biết tên người đóng góp cho mình”.18 Ý tưởng cốt lõi ở đây là việc xét xử của các thẩm phán phải dựa trên phẩm chất của họ chứ không phải người đóng góp tiền cho họ.

18 Xem Reporter’s Notes to Code of Judicial Conduct (Chicago: American Bar Association, 1973) của E. Wayne Thode. Không cần người đóng góp phải giấu tên nếu luật yêu cầu mỗi ứng cử viên phải cung cấp danh sách những người đóng góp cho mình

Đề xuất đóng góp khuyết danh bắt buộc có thể được coi như sự chuyển đổi từ nhánh tư pháp sang hai nhánh còn lại của chính quyền. Giống như đối với các vị quan tòa, có lẽ các quan chức dân cử của ngành lập pháp và hành pháp cũng phải quyết định các vấn đề dựa trên phẩm chất của họ chứ không phải trên các nghĩa vụ tài chính.

TRẢ TIỀN CHO NGƯỜI GÂY Ô NHIỄM

Sau đây là một ý tưởng liên quan đến luật giúp các bạn nhìn rõ hơn những cách đảo ngược vấn đề. Chúng tôi bắt đầu bằng một cách đảo ngược khá rõ ràng: Nếu X là giải pháp, hãy nghĩ đến cái “không phải X”. Đây là cách mà chúng tôi đã tìm ra số 900 đảo ngược và ý tưởng tự nguyện hiến tạng ngầm định.

Vượt lên trên những câu trả lời một chiều, ý tưởng đối xứng sẽ mở ra cho chúng ta rất nhiều khả năng khác. Ví dụ, khi câu trả lời có hai chiều X và Y, chúng ta có bốn phép hoán vị sau:

(X,Y), (X, không Y), (không X, Y), (không X, không Y).

Quá trình khai thác triệt để tính đối xứng hai chiều này đã được Guido Calabresi và Douglas Melamed sử dụng cực kỳ hiệu quả trong một bài phê bình về luật cổ có tên One View of the Cathedral (Một quan niệm về thánh đường).19

19 Xem “Property Rules, Liability Rules and Ialienability: One View of the Cathedral” của Guido Calabresi và A. Douglas Melamed, đăng trên Harvard Law Review 85 (1972): 1089.

Khi nghiên cứu cách các vị quan tòa giải quyết các vụ tranh cãi về tổn thất tài sản, Calabresi và Melamed phát hiện ra rằng có ba giải pháp pháp lý truyền thống.

Hãy tưởng tượng có một vụ tranh cãi liên quan đến tổn thất tài sản giữa một nhà máy gây ô nhiễm và khu dân cư ở gần đó. Đôi khi tòa sẽ đứng về phía người dân và đơn giản là cấm nhà máy không được tiếp tục gây ô nhiễm. Trong một số trường hợp khác, tòa sẽ cho phép nhà máy tiếp tục gây ô nhiễm nhưng phải đền bù thiệt hại cho người dân. Còn trường hợp khác nữa là tòa sẽ đứng về phía nhà máy (vì lượng ô nhiễm chưa đủ mức độ độc hại để coi là tổn thất tài sản) và cho phép nhà máy tiếp tục gây ô nhiễm mà không cần đền bù.

Calabresi và Malamed nhận thấy trong một vụ tranh cãi về tổn thất tài sản, tòa thường đưa ra hai quyết định chính. Trước hết, tòa xác định xem về cơ bản người dân có quyền yêu cầu dừng việc gây ô nhiễm hay không. Thứ hai, tòa quyết định quyền của người dân được bảo vệ như thế nào - nghĩa là quyền đó được bảo vệ bởi lệnh của tòa án hay chỉ là quyền được đền bù khi xảy ra ô nhiễm.

Kết hợp hai quyết định trên, chúng ta có một chiếc hộp với hai ô ở mỗi chiều:

0155

Quá trình vẽ chiếc hộp giúp chúng ta (cũng như Calabresi và Melamed) phát hiện ra một ô bị bỏ trống. Tòa chỉ áp dụng ba trong số bốn phương án. Tính đối xứng thôi thúc Calabresi và Melamed tự hỏi: Tại sao không có những trường hợp mà tòa trao quyền cho công ty, nhưng cho phép cư dân có quyền chấm dứt việc gây ô nhiễm bằng cách trả tiền cho công ty đó?

Trả tiền cho người gây ô nhiễm? Thật là điên rồ.

Nhưng xin các bạn hãy bình tĩnh, chưa đầy một tháng từ khi bài báo đó được xuất bản, một vị thẩm phán ở Arizona đã quyết định áp dụng quy tắc này với lý do hoàn toàn hợp lý.19 Một nhà đầu tư dự tính xây một nhà dưỡng lão lớn ngay cạnh một trang trại chăn nuôi gia súc thải ra “hàng triệu pound chất thải ướt mỗi ngày” và đã hoạt động hơn 30 năm qua. Nhà dưỡng lão đó quay ra kiện trang trại vì nó… bốc mùi. Tòa phán quyết buộc trang trại phải dời đi nơi khác, nhưng yêu cầu nhà đầu tư bồi thường phí tổn di dời cho trang trại.

19 Xem Spur Industries, Inc. v. Del E. Webb Development Co., 494 P.2d 701 (Ariz.1972).

Mặc dù ban đầu ý tưởng bồi thường cho người gây ô nhiễm có vẻ rất điên rồ nhưng khi nguyên đơn gây ra vấn đề bằng việc nói đến đến tổn thất thì việc yêu cầu kẻ đến sau bồi thường để người ở đó từ trước ngừng gây ô nhiễm là điều hoàn toàn công bằng. Ví dụ này cũng cho thấy khi áp dụng tính đối xứng ở chiều thứ hai, chúng ta có thể xác định được những phương án còn thiếu.

KIỂM TRA ĐÓNG VAI

Chúng ta biết rằng việc chính phủ hay nhà tuyển dụng phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc của một người là phạm pháp nhưng trong thực tế, khó mà xác định được khi nào một người thực sự bị phân biệt đối xử. Ví dụ đơn giản sau sẽ cho bạn thấy việc lật ngược vấn đề có thể tạo ra một bài kiểm tra hiệu quả để nhận biết sự phân biệt đối xử.

Các cuộc kiểm tra trong đó người kiểm tra đóng giả là người đi xin việc hoặc khách hàng đã trở thành một trong những công cụ tiêu chuẩn trong việc thực thi quyền con người.20 Bạn muốn biết một nhân viên môi giới bất động sản có phân biệt đối xử hay không? Hãy yêu cầu một người da trắng và một người da đen liên hệ với nhân viên bất động sản và xem nhân viên đó có từ chối cho người da đen xem nhà không. Ian đã tiến hành bài kiểm tra này tại một cửa hàng bán ô tô. Ian phát hiện ra rằng các nhân viên môi giới ô tô ở Chicago thường ra giá đối với người thử nghiệm là người Mỹ gốc Phi cao hơn so với người da trắng, mặc dù cả hai nhóm người này đều mặc cả theo kịch bản giống nhau.

20 Người sử dụng lao động cũng có thể bí mật kiểm tra chất lượng làm việc của nhân viên để đảm bảo mọi thứ từ an ninh sân bay đến “phục vụ với nụ cười”.

Kiểm tra đóng vai giúp chúng ta có những bằng chứng mạnh mẽ về tình trạng phân biệt đối xử, nhưng nó cũng có hai nhược điểm lớn. Thứ nhất, những người phân biệt đối xử luôn nghĩ ra một lời giải thích không liên quan gì đến chủng tộc. (Người chủ đất có thể nói: “Tôi không cho người phụ nữ gốc Mỹ Latinh đó xem nhà vì cô ta ăn mặc xấu hoặc trông vội vàng”). Thứ hai, việc tiến hành các cuộc kiểm tra với sự theo dõi chặt chẽ là rất tốn kém. Người nghiên cứu phải chắc rằng người thử nghiệm da trắng ăn mặc và nói năng giống như những người thử nghiệm da màu.

Tuy nhiên, trong những thị trường hoạt động thông qua môi giới thì có các hình thức kiểm tra hiệu quả hơn nhiều. Chúng tôi sẽ nêu ví dụ về trung tâm giới thiệu việc làm và nhân viên môi giới bất động sản để cho các bạn thấy việc lật ngược vấn đề giúp tìm ra cách kiểm tra mới này như thế nào.

Làm thế nào để kiểm tra một trung tâm giới thiệu việc làm? Giải pháp truyền thống là cho một người da màu và một người da trắng (hoặc một nam một nữ) đóng giả người đi xin việc và xem họ có được đối xử giống nhau hay không.

Bây giờ, bạn hãy suy nghĩ xem sử dụng công cụ đối xứng như thế nào để lật ngược tình huống trên. Thay vì gửi đến hai người thử nghiệm đóng giả làm ứng viên, nhóm thử nghiệm có thể gửi một người đóng giả làm nhà tuyển dụng. Nếu văn phòng việc làm đề nghị phân biệt đối xử nhân danh người thử nghiệm thì cuộc thử nghiệm sẽ cho bằng chứng đầy đủ về sự sẵn sàng phạm luật của nhân viên môi giới. Chúng tôi gọi đây là một cuộc thử nghiệm đóng vai vì người thử nghiệm đóng vai ông chủ đi thuê dịch vụ của văn phòng môi giới việc làm hoặc bất động sản.

Lật ngược vấn đề và kiểm tra thái độ cư xử của nhân viên môi giới việc làm hay bất động sản đối với ông chủ giúp giải quyết hai vấn đề cơ bản của hình thức thử nghiệm truyền thống. Thứ nhất, chi phí cho việc kiểm tra thấp hơn vì bạn chỉ cần một người thử nghiệm và không đặt ra vấn đề phải tìm được một người khác chủng tộc với các đặc điểm tương đương. Mặt khác, vì cuộc thử nghiệm không dựa trên cơ sở so sánh cách mà hai người thử nghiệm được đối xử nên không cần quan tâm đến việc những người thử nghiệm có nhập vai tương đương nhau hay không. Nếu nhân viên môi giới bất động sản chỉ đồng ý giới thiệu nhà cho người da trắng thì đó chính là bằng chứng trực tiếp về thái độ sẵn sàng phân biệt đối xử của nhân viên đó.

Ý tưởng thử nghiệm mặt trái của thị trường đến với Ian sau khi anh gặp phải một ví dụ hiển nhiên về sự phân biệt đối xử. Sau khi con trai đầu lòng (tên là Henry) ra đời, Ian, với đôi mắt lờ đờ vì thiếu ngủ, gọi điện đến một số trung tâm môi giới để tìm người trông trẻ. Cuộc gọi đầu tiên là tới một trung tâm có tên Thank Godness I’ve Found (Tạ ơn Chúa, con đã tìm thấy) ở New Haven. Nhân viên trung tâm không thèm để ý đến các câu hỏi của Ian và bắt đầu giới thiệu một tràng như thể đã quá quen thuộc với việc này. Không cần Ian phải gợi ý gì, cô ta đã nói: “Hãy cho tôi biết anh không thích gì. Nếu anh muốn, chúng tôi sẽ chỉ giới thiệu những cô nàng thật đỏm. Nếu anh không thích một người quá trẻ hoặc quá già thì chúng tôi đảm bảo rằng chỉ giới thiệu những ứng viên mà anh sẽ thực sự thích”.

Cô nhân viên đó đã đưa ra một đề nghị mang tính phân biệt đối xử rõ ràng, dựa trên tuổi tác. Chúng tôi dám chắc nếu như Ian trả lời rằng: “không thoải mái lắm với người gốc Mỹ Latinh” thì nhân viên môi giới sẽ đồng ý chỉ giới thiệu những ứng viên không phải là người gốc Mỹ Latinh.

Ian bỏ máy và gửi một bức thư than phiền đến Ủy ban Nhân quyền tiểu bang Connecticut. Theo luật, ủy ban này chịu trách nhiệm điều tra các cáo buộc liên quan đến phân biệt đối xử, nhưng các vụ điều tra này thường tốn rất nhiều thời gian. Trong thực tế, ủy ban sẽ gọi cho người bị cáo buộc phân biệt đối xử và hỏi “Vừa có một lời cáo buộc ông/bà phân biệt đối xử. Ông bà có phân biệt đối xử hay không?” Đương nhiên câu trả lời luôn là “Không!”.

Ian đề nghị ủy ban nên áp dụng cuộc thử nghiệm mà anh đã thực hiện và đóng vai một người tuyển dụng lao động. Chỉ trong vòng 2 phút, họ có thể gọi điện cho trung tâm và có được bằng chứng xác đáng. (Nhưng đáng buồn là họ không bao giờ làm vậy.)

Chắc chắn là những cuộc thử nghiệm đóng vai ông chủ như vậy sẽ đụng chạm đến vấn đề đạo đức. Trong các cuộc thử nghiệm đóng vai truyền thống không thể tránh khỏi sự lừa dối. Việc đóng vai nhà tuyển dụng hoặc người bán bất động sản cũng có thể gây ra mối lo ngại về việc chính phủ gài bẫy các nhân viên môi giới.21 Mối lo ngại bị gài bẫy - nghĩa là người thử nghiệm nhử một nhân viên môi giới lẽ ra là vô tội trở thành người phân biệt đối xử - có thể giảm đi nếu các cuộc thử nghiệm được tiến hành khi có khách hàng phàn nàn rằng họ bị phân biệt đối xử.

21 Tội phạm hình sự không có quyền khởi kiện việc nhân viên chính quyền “đặt bẫy”, nhưng một vụ kiện dân sự hoàn toàn có thể xảy ra, đặc biệt nều nhân viên chính quyền đi xa hơn và hỏi thẳng nhân viên môi giới bất động sản và việc làm rằng anh/cô ta có sẵn sàng phân biệt đối xử đối với người dân tộc thiểu số hay không.

Mặc dù đúng là có những mối lo ngại nêu trên, hình thức thử nghiệm đóng vai ông chủ cũng có những ưu điểm quan trọng. Kinh nghiệm của Ian cho thấy khi làm việc với một ông chủ thì sự cảnh giác của nhân viên môi giới sẽ thấp hơn. Việc kiểm tra cả hai mặt của thị trường làm cho các nhân viên môi giới bất động sản và việc làm hiểu rằng tốt hơn là không nên phân biệt đối xử. Chỉ cần làm cho nhà tuyển dụng hoặc người bán nhà khó có điều kiện thể hiện sự ưu tiên mang tính phân biệt đối xử cũng đủ để ngăn chặn phần nào tình trạng này.22

22 Một trách nhiệm của nhân viên môi giới bất động sản là báo cáo về các yêu cầu mang tính phân biệt đối xử. Dưới một quy tắc đạo đức như vậy thì một nhân viên có nghe nói đến một yêu cầu phân biệt đối xử phải báo cáo về điều đó hoặc sẽ bị kỷ luật

LỐI THOÁT AN TOÀN CHO VIỆC TUYỂN DỤNG NHÂN VIÊN TẬP SỰ

Sau đây là một cách ứng dụng suy nghĩ đối xứng khác trong việc ngăn ngừa phân biệt đối xử. Điểm cốt lõi là người lao động cần được tuyển dụng trước khi bị sa thải.

Trong phần lớn các vụ kiện liên quan đến phân biệt đối xử trong sử dụng lao động, người lao động khởi kiện sau khi được tuyển dụng. Trong khi Điều VII23 đề cập nhiều đến việc tạo cơ hội được tuyển dụng công bằng thì trong thực tế, tỷ lệ số vụ kiện liên quan đến phân biệt đối xử trong tuyển dụng so với số vụ liên quan đến phân biệt đối xử trong sa thải chỉ là 1/6.

23 Điều VII Luật Dân quyền 1964 của Mỹ cấm phân biệt đối xử trong tuyển dụng dựa trên chủng tộc, màu da, tôn giáo, giới tính và nguồn gốc dân tộc.

Điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Người lao động đã được tuyển dụng có nhiều thông tin hơn về tình trạng phân biệt đối xử (Tại sao ông sa thải tôi trong khi Jack được ở lại?) và đầu tư cho công việc nhiều hơn so với những người không được tuyển dụng từ đầu vì lý do chủng tộc hay giới tính.

Tuy nhiên, việc chú ý nhiều hơn vào các quyết định sa thải lại ảnh hưởng tiêu cực đến quyết định tuyển dụng. Người sử dụng lao động lo ngại về khả năng bị kiện do sa thải có thể sẽ dè chừng hơn khi tuyển nhân viên tập sự là người dân tộc thiểu số, hoặc phụ nữ. Người tuyển dụng có thể cho rằng tốt hơn là không nên tuyển một người dân tộc thiểu số - nghĩa là phân biệt đối xử một cách rõ ràng trong tuyển dụng - vì họ biết rằng họ ít có khả năng bị khởi kiện tại thời điểm tuyển dụng hơn. Khi tuyển một người làm nhân viên tập sự, người sử dụng lao động có thể phải đối mặt với kiện cáo nếu sau đó họ quyết định không tuyển dụng chính thức nhân viên đó vì không đủ năng lực (mặc dù quyết định này không hề mang tính phân biệt đối xử).

Mối lo ngại bị khởi kiện bởi các nhân viên tập sự là hoàn toàn có thực. Một nghiên cứu của Amercian Bar Foundation cho thấy 1/4 số vụ kiện liên quan đến phân biệt đối xử trong sa thải là do các nhân viên làm việc dưới một năm khởi kiện.

Liệu có phải các nhân viên này bị khởi kiện do phân biệt đối xử hay không? Giáo sư John Donohue và Peter Siegelman của Đại học Stanford chỉ ra rằng: “Thật vô lý nếu nhà tuyển dụng thuê nhân viên từ một nhóm mà họ không thích… chỉ để sa thải sau quá trình tập sự.”24 Cuối cùng, chúng tôi lo ngại rằng nỗ lực nhằm phát hiện những biểu hiện phân biệt đối xử thông qua các vụ kiện của nhân viên tập sự lại gây ra tác động ngược - tăng sự phân biệt đối xử trong tuyển dụng đối với chính nhóm người mà pháp luật bảo vệ.

24 Xem “The Changing Nature of Employment Discrimination Litigation” của John Donohue và Peter Siegelman, đăng trên Stanford Law Review 43 (1991). Đương nhiên phân biệt đối xử trong quá trình tập sự có thể xảy ra. Người sa thải với người tuyển dụng có thể là hai người khác nhau.

Vậy chúng ta phải làm gì? Chúng tôi hơi ngần ngại một chút nhưng cũng mạnh dạn đề xuất là các công ty và nhà tuyển dụng được quyền miễn áp dụng Điều VII trong một thời gian ngắn. Chúng tôi có thể bị coi là ngớ ngẩn khi đưa ra một gợi ý đi ngược lại quy định quan trọng nhất về quyền công dân. Tuy nhiên, công ty và nhà tuyển dụng sẽ tạo nhiều cơ hội hơn cho những người thuộc nhóm dân tộc thiểu số nếu họ có thời hạn ba tháng để quyết định tuyển dụng những nhân viên này mà không có nguy cơ bị kiện cáo vì phân biệt đối xử.

BẰNG PHÁT MINH

Hãy chuyển từ phạm trù đạo đức sang một vấn đề bắt buộc trong kinh tế. Các công cụ của chúng tôi có thể nói gì về quyền sở hữu trí tuệ?

Những câu hỏi được cấp bằng phát minh

Luật bằng phát minh hiện nay bảo vệ các giải pháp tốt. Tại sao không lật ngược vấn đề và cấp bằng phát minh cho câu hỏi tốt?

Đây đúng là tính đối xứng của quá trình sáng tạo. Đôi khi trong quá trình sáng tạo, việc xác định và trình bày rõ ràng một câu hỏi còn quan trọng hơn là tìm ra câu trả lời đúng. Chúng ta cũng đã yêu cầu nhà phát minh phải vừa hỏi câu hỏi tốt, vừa trả lời nó trước khi được cấp bằng phát minh.

Cấp bằng phát minh cho câu hỏi cũng cần có những giới hạn giống như cấp bằng phát minh cho giải pháp - việc mà chúng ta vẫn làm lâu nay. Câu hỏi không thể được cấp bằng phát minh nếu nó là sự cải tiến hiển nhiên từ một công trình công bố trước.25 Ngày hôm nay bạn không thể được cấp bằng phát minh với câu hỏi làm thế nào để chấm dứt nạn đói trên thế giới hoặc tạo ra chương trình Cold Fusion (ngôn ngữ lập trình dựa trên chuẩn HTML dùng để xây dựng các website động) bởi vì các câu hỏi này đều đã quá nổi tiếng.

25 Nguyên bản tiếng Anh: “… the question must be a nonobvious improvement over the prior art”. Nonobvious - không hiển nhiên - được định nghĩa trong Luật phát minh của Mỹ như sau: một tiêu chuẩn theo đó phát minh không được cấp bằng có giá trị nếu người có kỹ năng trong lĩnh vực công nghệ đó có thể dễ dàng đưa ra nguồn gốc của phát minh từ các thông tin công khai sẵn có (http:// vietnamese.vietnam.usembassy.gov/doc_intelprp_xviii.html).

Mục đích của việc cấp bằng phát minh cho câu hỏi là khuyến khích nhà phát minh công khai các câu hỏi của mình. Các công ty thường giữ bí mật đối với các câu hỏi, nếu không được bảo hộ. Họ không muốn cho người khác biết những việc mình đang tiến hành vì không muốn bị nẫng tay trên.

Trong toán học, người chia sẻ những câu hỏi xuất sắc được tặng phần thưởng. Hilbert giúp hình thành các vấn đề cần nghiên cứu cho toán học trong thế kỷ mới bằng 23 câu hỏi trong một buổi giảng bài tại Paris năm 1900. Fermat có lẽ được biết đến nhiều nhất nhờ định lý sau cùng, với tất cả những nỗ lực thành công và thất bại của mình nhằm chứng minh hoặc bác bỏ nó. (Cuối cùng, định lý này đã được nhà toán học Andrew Wiles của Đại học Princeton chứng minh vào năm 1993.26) Giả thuyết Riemann là vấn đề chưa được giải quyết nổi tiếng nhất. Một giải thưởng trị giá một triệu đô la đã được đặt ra cho ai giải quyết được vấn đề này.27

26 Do thiếu bằng chứng nên phải mất một năm sau, bài toán mới được chứng minh, với sự giúp đỡ của nhà toán học Richard Taylor, Đại học Cambridge.

27 Giả sử rằng vấn đề vẫn chưa được giải quyết khi bạn đọc đến phần này, xin xem www.claymath.org//prizeproblems/prizeproblems/index.html để biết thêm chi tiết.

Trước khi đề cập đến việc cấp bằng phát minh cho câu hỏi, chúng ta có thể thử nghiệm một bước trung gian là cấp bằng phát minh cho một giả thuyết phỏng đoán. Trong thực tế, đã có một lĩnh vực trong đó giả thuyết phỏng đoán cũng được cấp bằng phát minh. Các công ty công nghệ sinh học được nhận bằng phát minh nhờ việc dự đoán tác động của một loại thuốc trên một bộ phận cơ thể. Kết quả mà họ đạt được là xác định tác động của loại thuốc đó ở cấp độ phân tử, và ở cấp độ này, loại thuốc đó được chứng minh là có hiệu quả. Tuy nhiên, họ chưa chứng minh rằng loại thuốc này có tác động như mong đợi đối với toàn bộ cơ thể. Họ phỏng đoán rằng loại thuốc này sẽ dẫn tới một phương pháp điều trị mới cho bệnh tiểu đường hoặc bệnh đau nửa đầu, nhưng tại thời điểm được cấp bằng phát minh thì họ chưa có bằng chứng nào.

Khi một công ty dược lớn quyết định đầu tư vào loại thuốc này, họ ý thức được rằng nếu thuốc có tác dụng thì họ sẽ phải chia sẻ phần thưởng với người giữ bằng phát minh ở cấp độ phân tử. Điều này thường dẫn tới những cuộc đàm phán phức tạp. Hầu hết các công ty công nghệ sinh học đều biết rằng trong đàm phán với các ông lớn, dẫu có một cơ chế thỏa thuận tốt thì họ cũng chỉ có thể nắm chắc 5% cơ hội, do đó, họ thường không muốn quá mạo hiểm.28

28 Chúng tôi xin cảm ơn Giáo sư Wesley M. Cohen, Fuqua School of Business vì ví dụ này.

Đương nhiên người tìm ra câu trả lời là người xứng đáng được nhận bằng phát minh. Chúng ta có thể ngăn ngừa những tranh cãi trong việc chia sẻ bằng phát minh bằng một cơ chế phân bổ từ đầu - chẳng hạn như người nghĩ ra câu hỏi được nhận 10% lợi nhuận và phí cấp phép sử dụng bản quyền.

Chia sẻ lợi nhuận sẽ làm giảm động cơ tìm giải pháp của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng càng nhiều người biết câu hỏi thì khả năng tìm thấy câu trả lời càng cao. Việc công bố câu hỏi sẽ là chất xúc tác cho quá trình chuyển đổi để tìm giải pháp, chẳng hạn, nó giúp cho một nhà vật lý biết vấn đề mà nhà hóa học đang giải quyết và ngược lại. Tóm lại, cấp bằng phát minh cho câu hỏi cho phép người có câu hỏi chia sẻ vấn đề và cho phép người giải quyết vấn đề tìm ra những vấn đề mà người khác muốn giải quyết.

Cấp bằng phát minh cho luật

Là một luật sư, Ian cảm thấy như bị ở ngoài lề trong quá trình cấp bằng phát minh. GE có thể cấp bằng phát minh cho một bóng đèn với độ sáng cao hơn. Jay Walker có thể cấp bằng phát minh cho một quá trình kinh doanh tốt hơn. Còn Ian thì không thể cấp bằng phát minh cho một luật mới tốt hơn. Liệu ở đây có điều gì chúng ta cần sửa đổi hay không? Ý tưởng cấp bằng phát minh cho luật có hợp lý không?

Đồng nghiệp của Ian ở Trường Luật Yale là Roberta Romano đã viết một bài báo với tiêu đề gây sốc Law as Product (Luật pháp như một sản phẩm).29 Romano thấy các tiểu bang với hệ thống luật doanh nghiệp tốt đang hỗ trợ rất nhiều cho hoạt động kinh doanh hiệu quả của các doanh nghiệp. Romano tiếp tục chứng minh rằng trong thực tế các tiểu bang cạnh tranh lẫn nhau để thu hút doanh nghiệp và hình thức cạnh tranh hiệu quả nhất là sự nhạy bén trong việc đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp liên quan đến luật pháp.

29 Xem “Law as Product: Some Pieces of the Incorporation Puzzle” của Roberta Romano, đăng trên Journal of Law, Economics, and Organization 1, số 2 (1985): 225-283.

Tuy nhiên, thị trường luật doanh nghiệp này cũng có vấn đề. Không giống như ở những thị trường khác, các tiểu bang không được bảo hộ sở hữu trí tuệ khi họ đưa ra một giải pháp pháp lý thực sự sáng tạo.

Động lực để các tiểu bang đưa ra chính sách mới liên quan đến doanh nghiệp bị giảm sút vì các giải pháp pháp lý thành công thường ngay lập tức bị sao chép bởi các tiểu bang khác là đối thủ cạnh tranh. Do đó, ngay cả khi cơ quan lập pháp của các tiểu bang chạy đua trong cuộc cạnh tranh về luật doanh nghiệp thì sự thiếu vắng chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với luật pháp vẫn là một trong những lý do quan trọng để dự đoán rằng tốc độ của cuộc chạy đua này không được như mong đợi.

Một ví dụ sinh động của sự thiếu vắng chính sách bảo hộ quy định pháp lý là cuộc cạnh tranh của các tiểu bang trong quy định về chống thâu tóm công ty. Trong những năm 1980, nhiều công ty muốn được bảo vệ tránh nguy cơ bị thâu tóm bằng cổ phần áp đảo. Tuy nhiên, bất kỳ tiểu bang nào đưa ra được quy định pháp lý hợp hiến thì đều ngay lập tức bị các tiểu bang khác sao chép cả về câu chữ lẫn tinh thần.

Trong thực tế, việc sao chép này xảy ra nhanh như chớp. Trong thời gian một năm rưỡi mà Tòa Thượng thẩm bang Indiana xem xét tính hợp hiến của đạo luật chống thâu tóm do Quốc hội bang đệ trình thì 26 bang khác đã thông qua đạo luật tương tự. Indiana và một số tiểu bang có sáng kiến này đã phải chi một số tiền đáng kể cho việc tạo ra khuôn khổ pháp lý rõ ràng nhưng lại không có một chút lợi thế nào trong cuộc cạnh tranh thu hút các doanh nghiệp. Mặc dù trong trường hợp này Indiana đã có đủ động lực để bảo hộ các doanh nghiệp của mình nhưng vẫn không có lý do gì để tin rằng Indiana hoặc bất kỳ một tiểu bang nào khác sẽ có đủ động lực để thử nghiệm các sáng kiến pháp luật mới.

Có cái gọi là sáng kiến pháp luật thực sự hay không?

Hãy suy nghĩ về “viên thuốc độc” của Marty Lipton. Viên thuốc độc là một cổ phiếu dự phòng dùng để chia những khoản cổ tức khổng lồ cho các cổ đông cũ nếu bất kỳ ai nắm được cổ phần áp đảo mà không được sự đồng ý của Hội đồng quản trị. Như thế, thâu tóm một công ty có viên thuốc độc không còn hấp dẫn nữa vì làm như vậy thì phần lớn giá trị của công ty sẽ bị chuyển cho các cổ đông khác. Cần gì phải có luật chống thâu tóm nếu từng công ty đã tự bảo vệ được mình nhờ các hợp đồng cá nhân. Nhưng viên thuốc độc của Lipton thường xuyên và dễ dàng bị sao chép.

Hầu hết mọi người đều ngần ngại trước ý tưởng cấp bằng phát minh cho một đạo luật hoặc một hợp đồng. Tuy nhiên, nếu bạn tin rằng quyền sở hữu trí tuệ là cần thiết để thúc đẩy sự sáng tạo thì bạn sẽ thấy nỗ lực cải tiến hệ thống luật pháp không thôi vẫn chưa đủ.

Cấp bằng phát minh là điều hiển nhiên

Sau đây là một ý tưởng chuyển đổi lấy cảm hứng từ những chú chim cánh cụt.

Chim cánh cụt Adelie có một vấn đề. Khi đứng tụ tập trên một tảng băng nổi, tất cả các con chim cánh cụt đều muốn nhảy xuống nước để bắt cá nhưng không con nào muốn nhảy xuống đầu tiên, trừ phi có con hải cẩu hoặc con cá kình nào đó đang đi kiếm bữa trưa.

Mỗi con chim cánh cụt đều đứng trên mép tảng băng, giả vờ như sắp nhảy xuống nước nhưng thực ra chúng đều chờ một con nhảy xuống trước. Hành động này được mô tả rất sống động trong nhật báo Antarctic của Peter Brueggman:

Điều gì sẽ khiến chúng nhảy xuống? Chúng nhìn nước biển và khi thấy một đàn chim cánh cụt lớn bơi đến gần khu vực của mình, chim cánh cụt Adelie trở nên rất ầm ĩ. Chúng bắt đầu xô đẩy nhau, giành vị trí, cãi nhau ầm ĩ, những đôi cánh đập tới đập lui, các cuộc thảo luận càng ngày càng sôi nổi hơn, vài con bắt đầu chạy lên chạy xuống lấy đà, tiếp tục vỗ cánh bành bạch và cuối cùng những con dũng cảm hơn sẽ lao xuống nước và ngay lập tức kéo tất cả những con còn lại nhảy ùm xuống nước cùng lúc, không con nào chờ con nào, mỗi con đều chỉ nghĩ đến bản thân mình… Nếu bạn là những chú cá thu, bạn sẽ hiểu tại sao lũ chim cánh cụt cứ chạy lên chạy xuống trên bờ và phải chờ đợi rất lâu trước khi nhảy xuống.30

30 Xem http://scilib.ucsd.edu/sio/nsf/journals/perter97.html#nov25.

Vấn đề ở chỗ người đi trước không được lợi gì. Khi chúng hiểu ra rằng con đầu tiên nhảy xuống không bị ăn thịt thì những con khác mới nhảy theo. (Ngay cả khi con nhảy xuống đầu tiên bị ăn thịt thì các con khác vẫn có thể được an toàn vì con hải cẩu đã no bụng rồi.) Con đầu tiên nhảy xuống nước phải gánh tất cả mọi rủi ro và không được lợi gì hơn, vì nó vẫn phải cạnh tranh với các bạn của mình để giành những con cá. Điều này khiến chúng ta phải suy nghĩ đến việc cấp một loại bằng phát minh cho người đi đầu để họ nhận được nhiều quyền lợi hơn từ việc chấp nhận rủi ro.

Hệ thống luật phát minh của Mỹ không giải quyết được vấn đề người đi đầu. Để được cấp bằng phát minh, luật yêu cầu phát minh đó phải “không dễ nhận thấy” bởi một người có kỹ năng trong lĩnh vực đó. Ý tưởng ở đây là luật không cần bảo hộ các sáng kiến dễ nhận thấy vì chúng sẽ được đưa ra thị trường dù có bằng phát minh hay không.

Tuy nhiên, câu chuyện về các chú chim cánh cụt cho thấy không phải bất kỳ ý tưởng dễ nhận thấy nào cũng sẽ được đưa ra thị trường. Mặc dù nhảy xuống nước là một việc hiển nhiên đối với lũ chim cánh cụt, nhưng chúng vẫn do dự khi thực hiện. Khi thị trường tự do tạo ra một bất lợi đối với người đi đầu thì có lẽ chúng ta cần đến luật bản quyền để ngăn ngừa nạn sao chép.31

31 Michael Abramowicz cho rằng cần phải kiểm tra xem liệu phát minh có được tạo ra mà không có sự bảo hộ quyền phát minh hay không. Xem Roberts v. Sears, Roebuck & Co., 697 F.2d 796 (7th Cir.1983) (Posner, J.) và “Beyond Obviousness: Invention Protection in the Twenty-First Century” của A. Samuel Oddi, đăng trên American University Law Review 38 (1989): 1101.

Một đạo luật tương tự đã xuất hiện trong ngành dược. Theo Luật Hatch-Waxman, một công ty sản xuất thuốc gốc32 chứng minh được bằng phát minh của công ty biệt dược đang sở hữu bản quyền là không hợp pháp thì họ được độc quyền sản xuất loại thuốc đó trong vòng 180 ngày trước khi các công ty thuốc gốc khác được phép tham gia thị trường.

32 Thuốc gốc (Generic drug): Là thuốc tương đương sinh học với biệt dược về các tính chất dược động học và dược lực học, được sản xuất khi quyền sở hữu công nghiệp của biệt dược đã hết hạn, nhờ đó thường được bán với giá rẻ.

Như vậy, công ty thuốc gốc có nỗ lực mở cửa thị trường sẽ có sáu tháng lợi thế trong cuộc cạnh tranh.

Tiếp nối logic của những chú chim cánh cụt, Aaron Edlin nêu một ý tưởng khác cũng đáng được bảo hộ, đó là ý tưởng giảm giá. Khi giá không cạnh tranh, công ty đầu tiên giảm giá mang lại lợi ích lớn cho khách hàng, nhưng “sáng kiến” đó có thể không có lợi cho chính họ nếu các đối thủ cũng làm theo. Nếu công ty giảm giá đầu tiên không giành được thị trường thì kết cục là họ sẽ bị bất lợi. Vì lý do đó, các công ty đưa ra chính sách giảm giá cần được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, theo một cách nào đó.33

33 Xem “Stopping Above-Cost Predatory Pricing” của Aaron Edlin, đăng trên Yale Law Journal 111 (2002): 941-991.

Edlin nghiên cứu các hãng hàng không độc quyền một đường bay nào đó. Chẳng hạn, US Airways là hãng hàng không duy nhất có các chuyến bay từ New Haven. Với thế độc quyền này, giá vé từ New Haven đi Philadelphia rất cao (334 đô la một chiều) trong khi chuyến bay chỉ dài một giờ.

US Airways không việc gì phải giảm giá vì họ biết rằng khi đối thủ cạnh tranh bắt đầu giảm giá, họ có thể giảm giá theo ngay lập tức và không bị ảnh hưởng gì. Các hãng hàng không khác cũng biết điều đó và thấy rằng không dại gì mà chen chân vào thị trường này. Cũng giống như những chú chim cánh cụt, các hãng hàng không khác biết rằng nếu họ là người mở màn trong cuộc chạy đua giảm giá thì US Airways sẽ nhanh chóng bắt chước.

Giải pháp của Edlin là gì? Trao cho công ty giảm giá đầu tiên một loại bằng phát minh tạm thời có tác dụng ngăn không cho US Airways giảm giá trong vòng sáu tháng.

Giảm giá là một ý tưởng dễ nhận thấy. Nó sẽ không bao giờ thỏa mãn điều kiện để một phát minh được cấp bằng sáng chế là không dễ nhận thấy. Tuy nhiên, chuyển đổi những gì mà chúng ta học được từ chim cánh cụt cho thấy ngay cả những ý tưởng dễ nhận thấy cũng trở nên rất mạo hiểm khi đưa ra thị trường.

Việc cấp bằng phát minh tạm thời cho người giảm giá đầu tiên sẽ khuyến khích US Airways cũng như các hãng hàng không đang khai thác đường bay độc quyền khác giảm giá trước các đối thủ. Công ty độc quyền biết rằng họ sẽ bị đánh bại hoàn toàn nếu có công ty khác đưa ra mức giá thấp hơn trong khi luật bản quyền cấm họ không được giảm giá.

Việc ngăn không cho US Airways trả đũa khi có đối thủ cạnh tranh khuyến khích nó giảm giá trước khi một đối thủ thực sự bước vào thị trường. Edlin đã tìm ra một giải pháp để tận dụng sự có mặt của các đối thủ cạnh tranh mà không nhất thiết phải tạo ra thêm đối thủ khác.

Ý tưởng giảm giá có thể dễ nhận thấy, nhưng nó luôn chứa đựng rủi ro. Ý tưởng của Edlin là khích lệ những người dám chấp nhận rủi ro.

Cảnh báo

Một phiên bản ý tưởng của Edlin đã được thực hiện trong những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Ủy ban Truyền thông Liên bang yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ viễn thông hàng đầu lúc đó là AT&T chờ 120 ngày trước khi giảm (hoặc tăng) giá. Ngược lại, Sprint và MCI có thể thay đổi giá trong vòng một ngày. Quy định này được các công ty mới tận dụng triệt để nhằm giành thị phần.34

34 Xem The Failure of Anti-Trust and Regulation to Establish Competition in Long-Distance Telephone Markets (Cambridge, MA: AEI Press and MIT Press, 1996). của Paul W. MacAvoy.

Xuất bản hay chết

Vài năm trước, giáo sư luật Gideon Parchomovsky của Đại học Pennsylvania đặt câu hỏi liệu các nhà phát minh nên công khai phát minh của mình hay cố gắng xin cấp bản quyền. Câu hỏi trên dường như không thuyết phục. Công bố phát minh nghĩa là đưa ý tưởng của mình cho đối thủ và không bao giờ được cấp bằng phát minh.

Trong khi phần lớn các công ty đều tránh vô ý để lộ ý tưởng của mình thì Parchomovsky lại băn khoăn rằng liệu công khai ý tưởng có tốt hơn hay không. Ở đây, chúng ta đã thấy một ứng dụng khác của công cụ đối xứng, nhưng để nhằm mục đích gì?

Việc công bố ý tưởng không chỉ làm cho bạn không được cấp bằng phát minh mà còn làm cho các đối thủ cũng không được cấp bằng phát minh cho ý tưởng đó. Văn phòng thương hiệu và bằng phát minh của Mỹ chỉ cấp bằng phát minh cho những ý tưởng không dễ dàng được cải tiến từ các công trình công bố trước. Công bố một trong số các ý tưởng chưa được cấp bằng phát minh của bạn sẽ làm thay đổi công trình nghiên cứu trước và do đó, gây khó khăn hơn cho các đối thủ cạnh tranh trong việc ăn cắp thị trường của bạn.

Hãy tưởng tượng rằng một sáng kiến cần phải tiến xa hơn 10 bước so với công trình công bố trước thì mới được cấp bằng phát minh. Giả sử Motorola và Nokia đang chạy đua lấy bằng phát minh cho một công nghệ mới. Nếu Nokia thấy rằng mình mới đến bước thứ năm, trong khi Motorola đã đến bước thứ chín, thì Nokia sẽ có lợi khi công bố các kết quả của mình. Việc công bố sẽ làm thay đổi công trình công bố trước và như thế có nghĩa là Motorola hiện chỉ đi trước công trình cũ có bốn bước. Nokia sẽ dễ đuổi kịp Motorola hơn với tỷ số mới 4-0 hơn là tỷ số cũ 9-5.

Thật là một ý tưởng tiện dụng. Tuy nhiên, khi mới nghe qua ý tưởng này, chúng tôi vẫn không tin rằng các doanh nhân lại có thể sẵn lòng tiết lộ các ý tưởng chưa được cấp bằng phát minh của mình.

Nhưng hóa ra xu hướng trên đang ngày càng phát triển. Theo Financial Times, “các công ty đang ngày càng áp dụng nhiều hơn chiến lược “công bố tự vệ”, nghĩa là thông qua việc công bố thông tin về những khám phá của mình, họ tạo ra một “công trình công bố trước” để không cho những người còn lại có đủ điều kiện được cấp bằng phát minh”35.

35 Xem “Inside Tracks” của Richard Poynder, đăng trên Financial Times, 25/09/2001.

Các báo và website chuyên ngành, như Reasearch Disclosure và ip.com là nơi đăng tải khoảng 400 ý tưởng mỗi tháng. Nguy cơ duy nhất là việc công bố có thể dẫn tới sự hình thành các liên doanh. Hãy tưởng tượng bạn là Motorola và đang chuẩn bị xin cấp bằng phát minh cho một công nghệ mới thì Nokia gọi điện cho biết họ có thể công bố một phần kết quả nghiên cứu, trừ phi bạn mời họ tham gia nhóm nghiên cứu của mình.

HỘP Ý TƯỞNG

Chúng tôi đã chỉ cho bạn thấy có hàng tấn quả chín trong tầm tay. Từ đó chúng ta làm ra được một số loại kẹo, nhỏ thôi nhưng rất ngọt.

Tẩy chay

Trái nghĩa với tẩy chay (boycott) là gì? Không, không phải là girlcott! Đó là buycott (tạm dịch: chiến dịch hay cuộc vận động không mua hàng hóa, dịch vụ của một hãng hoặc một quốc gia cụ thể).

Trong một cuộc tẩy chay, người phản đối không mua một số sản phẩm cho đến khi công ty thay đổi thái độ. Trong cuộc tẩy chay, người phản đối phải hứa sẽ quay lại mua một số sản phẩm nếu công ty thay đổi thái độ.

Khi hành vi tẩy chay được nhiều người ủng hộ, nó sẽ trở thành một công cụ quyền lực. Lấy ví dụ việc sinh viên phản đối các công ty bắt công nhân làm việc trong điều kiện tồi tệ trong quá trình sản xuất các sản phẩm may mặc có đăng ký nhãn hiệu. Vì thế, họ kêu gọi tẩy chay tất cả các loại áo sơ mi của Champion (hoặc một nhãn hiệu khác).

Hãy thử lật ngược cuộc phản đối này. Thay vì nói rằng không mua một chiếc áo sơ mi nếu nó được sản xuất từ sự bóc lột sức lao động của công nhân, hãy tưởng tượng một số lượng lớn sinh viên cam kết mua áo sơ mi được sản xuất dưới các điều kiện lao động tiêu chuẩn. Nếu một nhà sản xuất đáp ứng được yêu cầu này thì chúng tôi cho rằng họ sẽ nhanh chóng giành được thị trường. Sau đó, việc bị mất thị trường vào tay đối thủ mới sẽ buộc các công ty khác phải làm theo.

Lý do khiến vụ tẩy chay này hiệu quả hơn vụ tẩy chay kia là đông người không mua phần lớn các sản phẩm của công ty. Do đó, nếu 1.000 người nói rằng họ tẩy chay Absolut vodka thì chúng ta không biết rằng khi không có vụ tẩy chay thì bao nhiêu người sẽ mua sản phẩm này. Có lẽ công ty sẽ thua lỗ 1/10 doanh thu. Ngược lại, nếu một số lượng lớn khách hàng đồng ý mua sản phẩm thì sẽ tác động lớn đến công ty. Trong thực tế, thay vì bị tẩy chay thì Absolut lại xây dựng được một mạng lưới khách hàng trung thành khổng lồ khi trở thành công ty đầu tiên quảng cáo trên tạp chí Out.36

36 Tạp chí Out: Tạp chí dành cho dân đồng tính luyến ái nổi tiếng ở Mỹ.

Ví dụ điển hình nhất của việc tẩy chay là sự phát triển đáng kinh ngạc của nhãn hiệu thời trang FUBU. FUBU là chữ viết tắt của “For Us By Us” (Cho chúng tôi, bởi chúng tôi), trong đó Us ở đây là công ty của người da đen. Sự khẳng định một cách tích cực sự ủng hộ đối với FUBU đã tạo nên thành công vang dội.

Buôn bán cổ phiếu trước IPO37

37 IPO (Initial Public Offering): Là việc chào bán chứng khoán lần đầu tiên ra công chúng. Khái niệm công chúng được hiểu là một số lượng nhà đầu tư đủ lớn với giá trị chứng khoán chào bán cũng đủ lớn. Sau khi phát hành lần đầu ra công chúng, một công ty cổ phần sẽ trở thành công ty đại chúng (hay công ty cổ phần đại chúng).

Các công ty mới thường ném tiền qua cửa sổ khi phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng. Tại sao? Bởi vì cổ phiếu được bán với giá mà công chúng sẵn sàng mua. Khi giá cổ phiếu tăng ba lần trong ngày giao dịch đầu tiên thì công ty phát hành cổ phiếu chắc sẽ tiếc đứt ruột vì lẽ ra họ phải thu được nhiều tiền hơn vì chính họ là người tạo ra công ty. Ngay cả khi giá cổ phiếu chỉ tăng 20% cũng có nghĩa là một khoản tiền lớn đã bị ném qua cửa sổ.

Tại sao không giảm bớt thiệt hại cho các công ty khi chào bán cổ phiếu IPO bằng cách cho phép bán trước một số lượng cổ phiếu IPO? Nếu Queequeg Coffee đang chuẩn bị phát hành cổ phiếu lần đầu vào tuần sau thì không có lý do gì mà nhà đầu cơ không được bán hợp đồng tương lai của cổ phiếu Queequeg ngày hôm nay và cam kết sẽ giao cổ phiếu của Queequeg trong vòng một tuần. Giá của hợp đồng tương lai này sẽ giúp thị trường quyết định giá trị cổ phiếu sao cho công ty có thể phát hành cổ phiếu với một mức giá chính xác hơn. Và sẽ không có sự đột biến về giá trong ngày phát hành.

Đương nhiên là các ngân hàng đầu tư lớn sẽ phản đối ý tưởng này vì nó làm mất cơ hội kiếm lời của họ - cũng còn được biết đến như là một hình thức hối lộ - dành cho khách hàng ưu đãi hoặc những nhân vật mà ngân hàng cần tranh thủ. Tuy nhiên, năm 1999, WR Hambrecht + Co đã phát triển chương trình OpenIPO, một chương trình đấu giá trực tuyến cho phép thị trường quyết định giá IPO.

Q. Queequeg là ai?

Queequeg là tên một nhân vật trong tiểu thuyết Moby Dick - người phóng lao móc làm việc cùng với Starbuck. Khi Queequeg chưa ra đời thì Peet’s Coffee and Tea đã là một trong những công ty đầu tiên sử dụng phần mềm OpenIPO của Hambrecht. Năm 2001, cổ phiếu IPO của Peet đã tăng lên 26,4 triệu đô la.

Cấp đăng ký cho phần mềm Windows cũ của Microsoft

Một số người nêu ý kiến rằng phương thuốc phù hợp cho những vi phạm luật chống độc quyền của Microsoft là phá vỡ nó - bắt Microsoft tự cạnh tranh với chính mình. Nhưng Humpty Dumpty đã rút ra một bài học là việc phá vỡ thế độc quyền có thể rất tốn kém. Tuy nhiên, có một cách buộc Microsoft tự cạnh tranh với chính mình mà không cần yêu cầu họ chia sẻ thị trường. Jeremy Bulow và Hal Varian đề xuất rằng tòa có thể buộc Microsoft phải cạnh tranh với quá khứ của chính mình.

Một phương án là cho phép bán lại quyền sử dụng hệ điều hành có bản quyền. Quy định này sẽ dẫn tới một số lượng lớn phiên bản hệ điều hành Windows 2000 và NT sẽ được bán trên thị trường đồ đã qua sử dụng do những người đã nâng cấp phần mềm. Một phương án khác là yêu cầu Microsoft bán quyền sử dụng phiên bản Windows mới nhất với giá ưu đãi, ví dụ 25 đô la một bản.

Án lệnh của tòa sẽ lập tức tạo ra đối thủ cạnh tranh cho Microsoft, đơn giản là vì một số người sẽ mua Windows 2000 thay vì Windows XP. Nếu Microsoft cung cấp cả mã nguồn của phiên bản cũ thì các công ty khác có thể cải tiến Windows 2000 và thậm chí có thể bán phần mềm này, miễn là nó trả cho Gates và công ty 25 đô la tiền phí sử dụng cho mỗi bản phần mềm bán được.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi biết là Microsoft đang đi theo hướng ngược lại. Microsoft không bán các phiên bản trước (hoặc bán quyền sử dụng mã nguồn). Thậm chí nó còn không muốn bán phiên bản hiện tại mà chỉ muốn cho bạn thuê phần mềm và trả phí hàng năm. Như thế, Microsoft sẽ không phải lo cạnh tranh với các sản phẩm cũ của mình hay thậm chí là sản phẩm hiện tại. Nếu không tiếp tục trả tiền mua quyền sử dụng thì bạn chẳng có gì cả.

Hóa đơn tài chính cho các cuộc vận động

Thay vì tính toán ngân sách tài chính công dựa trên cơ cấu phiếu mà các đảng giành được trong kỳ bầu cử mới nhất, hãy làm theo gợi ý của Bruce Ackerman là đưa cho mỗi công dân “những đồng đô la yêu nước”. Những đồng đô la yêu nước này là hóa đơn để cử tri đưa cho ứng cử viên mà họ lựa chọn. Hãy coi đây là phiếu thực phẩm dành cho các chính trị gia. Các công dân được trao một loại tiền chỉ được dùng để ủng hộ các ứng cử viên chính trị.

Xếp lịch làm nghĩa vụ bồi thẩm

Tại sao không cho phép mọi người xếp lịch làm nghĩa vụ bồi thẩm? Nhiều người coi việc thực hiện nghĩa vụ bồi thẩm giống như một buổi đi khám nha khoa - đau đớn nhưng cần thiết. Nhưng với bác sĩ nha khoa thì ít ra thì bạn còn thu xếp được lịch hẹn.

Cho người Palestine cổ phiếu ở Israel

Đây là một ý tưởng nội hóa hoàn toàn của Gideon Parchomovsky và Peter Siegelman. Ý tưởng ở đây là trao cho mỗi người Palestine một phần khoản lợi tài chính rõ ràng khi đầu tư vào hòa bình. Mỹ và Israel có thể mua 9 tỷ đô la cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Israel. Số cổ phiếu này sẽ được giữ làm vật thế chấp và chia cho dân Palestine 10 năm sau khi một kế hoạch hòa bình được thực thi và tòa án quốc tế xác nhận là kế hoạch hòa bình trên được tôn trọng. Với giá trị hiện thời của cổ phiếu, 9 tỷ đô la cổ phiếu có nghĩa là hơn 3.000 đô la cho một người dân Palestine - và sau khi thỏa thuận hòa bình được thực thi, khoản tiền này có thể sẽ tăng gấp đôi.

Tại sao không hối lộ số đông để kiến tạo hòa bình?37

37 Đương nhiên hối lộ cũng có hai chiều. Ả Rập Saudi cũng có thể sử dụng nguồn thu từ dầu để mua cổ phiếu cho người Palestine.

Lịch chuẩn

Tại sao không tạo ra một loại lịch chuẩn hơn? Ví dụ, chúng ta có 13 tháng có 4 tuần cộng với một ngày Tết. Mỗi tháng sẽ bắt đầu vào ngày thứ Hai, nghĩa là ngày thứ 14 của tháng luôn là ngày Chủ nhật. Ý tưởng này khá hấp dẫn, thế nhưng nó vấp phải một số vấn đề. Nhiều người sẽ mất ngày sinh nhật và chúng ta sẽ đặt tên tháng thứ 13 là gì? Chúng tôi gợi ý tên Berbube, để tôn vinh sự thịnh vượng.

ĐỪNG HỎI TẠI SAO, HÃY HỎI TẠI SAO KHÔNG?

Không có gì ngạc nhiên khi biết rằng một bộ phận của chính phủ hoạt động không tốt. Tuy nhiên, chương này đã cho thấy các câu hỏi của chúng ta có thể được sử dụng để cải tiến các quy định pháp luật hay kinh doanh. Yêu cầu các nhà làm chính sách “lật ngược vấn đề” hay “cảm nhận nỗi đau của bạn” có thể tạo ra những ý tưởng tuyệt vời cho chính sách công. Còn rất nhiều quả ngọt trong tầm với đang chờ được hái.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • Sau