Hắn đã nói gì trước khi rơi xuống vậy?”, Burden hỏi.
“Điều gì đó về giới phụ nữ tàn ác”, Wexford nói. “Thật mỉa mai, phải không? Hắn bị ám ảnh với ý nghĩ rằng mọi người đàn bà đều có ý định hủy hoại hắn và cuối cùng một người phụ nữ…”
“Tôi không có ý muốn hắn phải chết, thưa ngài.”
“Tất cả mọi người đều biết vậy, Hannah. Hắn sẽ không ngần ngại làm hại cô. Cô nên đến bệnh viện, cô biết đấy. Có một xe cấp cứu bên dưới kia đang đợi để chở cô đi.”
“Tôi phải đi à?”
Anh cười mệt mỏi ngay khi nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ cười nữa. “Không, cô không phải đi. Bal có thể đưa cô về nhà.”
Đến lúc này trời đã mưa rất to và mọi người đều ướt sũng. Barry Vine và Damon Coleman đưa Norman Arlen vào trong xe, áp tải hắn ta về đồn cảnh sát, nơi hắn ta sẽ dành cả đêm còn lại trong phòng giam trước khi xuất hiện trước vành móng ngựa vào sáng mai.
“Chúng ta sẽ buộc tội gì cho hắn ta đây?”, Burden hỏi khi anh và Wexford đứng dưới chỗ trú. “Sở hữu vũ khí? Âm mưu giết người? Giam giữ trái phép? Tất cả những tội đó và thêm một loạt tội nữa. Lừa gạt chẳng hạn. Ngăn cản người thi hành công vụ. Sẽ còn thêm nhiều tội nữa.”
Donaldson ra ngoài và mở cửa xe cho họ. Vào trong, Burden nói, “Tất cả những người phụ nữ này có ngu ngốc quá không khi tin rằng họ có thể tới châu Phi, tiêm một mũi thuốc mê và tỉnh dậy với một đứa bé? Một đứa bé da đen?”.
“Tôi không nghĩ chúng ta, những người đàn ông, sẽ thực sự hiểu được khát khao của một số phụ nữ, hoặc nhiều người trong số họ, về một đứa con. Chúng ta đã nghe nói về tình dục và tự vệ là bản năng hoặc động lực mạnh mẽ nhất của con người. Có thể đàn ông có những thứ đó. Với phụ nữ, điều mạnh mẽ nhất là khát khao có một đứa con của riêng mình. Những người phụ nữ bị Norman Arlen lừa gạt đã muốn tin, họ đều chuẩn bị tinh thần cho bản thân để tin tưởng bất chấp mọi lý do, bởi vì mỗi người bọn họ đều muốn có một đứa con của riêng mình hơn bất cứ thứ gì khác trên đời. Mười ngàn bảng mỗi người? Hay hai mươi? Một đứa con riêng sẽ là quá rẻ cho cái giá đó. Bay tới châu Phi, nhận một mũi gây mê, làm điều mà người ta biết chắc là bất hợp pháp - tất cả điều đó đều chẳng nghĩa lý gì so với cái giá là có một đứa con của riêng mình. Nhân tiện nói luôn, con gái tôi Sylvia đã sinh một bé gái và nó đang giữ con bé. Tạm biệt việc đẻ thuê.”
“Chuyện đó là như thế nào vậy?”
“Tôi sẽ kể anh nghe vào ngày mai. Kể mọi chuyện luôn. Trong lúc đó, chúng ta sẽ phải chợp mắt một lúc.”
Khi họ về đến căn hộ của cô, anh có ý muốn mang cô lên lầu. Trí nhớ mơ hồ làm anh nhớ lại mình đã từng xem một cảnh trong phim Cuốn theo chiều gió, cảnh Rhett Butler bế Scarlett lên cầu thang trước nội chiến. Anh thực sự đã cố nhưng những bậc cầu thang lên căn hộ của Hannah còn dốc hơn cả bậc thang ở Atlanta vào những năm 1860 và khi bước đến bậc thứ sáu thì cả hai ngã khuỵu trong tiếng cười khúc khích rồi bắt đầu trao nhau nụ hôn nồng cháy. Với câu nói bị nghẹn lại, “Chúng ta không thể ở đây”, Hannah cuối cùng cũng đứng dậy, kéo theo anh đằng sau và họ dính lấy nhau, đi vào trong căn hộ.
“Em thấy mình bẩn quá”, Hannah nói. “Anh không quan tâm.”
“Chúng mình có thể đi tắm.”
“Chúng mình có thể tắm vào buổi sáng”, Bal nói và lần này đã thành công khi cố bế cô lên. Anh mang cô lại giường. Khi quần áo cô bị ném mạnh qua người anh, rơi xuống những đồ vật trong nhà, anh cũng cởi luôn đồ của mình, vứt quần bò, áo len và sơ mi lên sàn. Khi anh tắt đèn và trèo lên giường nằm cạnh cô, cô đã nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Anh nằm cạnh cô, tay vòng qua bả vai cô, mỉm cười trong bóng tối. Tất cả những tuần qua, anh đã từ chối cô và giờ khi anh đang sẵn sàng - hơn bao giờ hết, thậm chí là thèm muốn - thì cô lại đang từ chối anh. Nhưng trời sẽ sáng thôi.
Sau khi Norman Arlen bị tuyên án một số tội trạng và bị bắt giam, Wexford và Burden rời khỏi tòa án và đi bộ thẳng tới đồn cảnh sát. Sau trận tuyết, mưa và mưa đá đã diễn ra trong vài giờ ngắn ngủi, buổi sáng quang đãng và trong lành, ánh nắng yếu ớt cũng bắt đầu hiện ra, đường phố vẫn còn ẩm ướt và lấp lánh.
“Anh định làm gì với Bhattacharya?”, Burden hỏi.
“Tôi đã làm rồi. Chẳng gì cả. Rầy la anh ta, thế thôi. Anh ta đã cứu cô ấy. Cô ấy có thể đã chết nếu anh ta không có ở đó. Tôi hy vọng là lòng biết ơn sẽ không thọc gậy bánh xe chuyện của họ.”
Burden nhìn anh tò mò.
“Chà, anh biết nói đùa đấy. Sao anh ta lại ghét tôi đến thế nhỉ? Tôi chưa bao giờ làm điều gì tốt cho anh ta.”
Burden chuyển chủ đề. “Anh có nhớ cái ngày chúng ta đi ăn sáng không? Tôi rất muốn quay lại đó. Không phải vì trứng và khoai tây mà vì một ly cà phê và một cái bánh ngọt Đan Mạch khổng lồ.”
“Tôi không nên ăn”, Wexford nói, “nhưng tôi sẽ đến.
Tôi mệt đến mức không nhai nổi bữa sáng nữa rồi”.
Không phải là một quán ăn rẻ tiền cao cấp trên phố Queen nhìn hấp dẫn hơn lần trước mà lần này họ thấy nó bán rẻ hơn. Mười loại cà phê khác nhau dường như phức tạp một cách không tưởng và thật khó để chọn lựa giữa bánh ngọt Đan Mạch và bánh quy Florentine.
“Thật là hài hước”, Wexford nói khi họ ngồi xuống một cái bàn gần cửa sổ, “khi mọi người trừ người Đan Mạch gọi thứ này là bánh ngọt Đan Mạch”.
“Thế họ gọi chúng là gì?” “Bánh mỳ Vienna.”
“Tại sao?”
“Tôi không biết”, Wexford nói. “Hẳn phải có lý do nào đó nhưng tôi không biết.”
“Quan tâm làm gì bánh ngọt Đan Mạch hay không. Anh nói rằng anh định kể với tôi mọi thứ nhưng đến giờ này những gì anh kể được chỉ là vô số tội lỗi của Arlen. Ý anh đấy là toàn bộ ấy hả? Toàn bộ ấy?”
“À, vâng. Tôi thích cà phê với chocolate phủ bên trên, mặc dù tôi nghĩ nó có hại cho mình.” Wexford nhấm nháp bọt chocolate, đặt cốc của mình xuống và sau khi lăn tăn một chút thì bắt đầu nói.
“Chuyện bắt đầu khi người vợ đầu của George Marshalson chết lúc Amber lên bảy”, Wexford nói. “Hoặc, đúng hơn, chuyện bắt đầu khi ông ta tái hôn. Người chồng đầu tiên của Diana đã để lại cho cô ta căn nhà trị giá hai triệu bảng và một khối tài sản đáng giá bốn triệu. Tại sao bà ta lại cưới George vẫn còn là bí ẩn. Tôi nghĩ là do bà ta yêu ông ta. Có lẽ bà ta nghĩ mình sẽ dần dần hòa hợp với Amber. George chắc chắn cũng nghĩ ông ta đã đem đến cho Amber một người mẹ thứ hai. Cả hai điều trên đều không xảy ra, Amber không thích Diana từ cái nhìn đầu tiên. Chúng ta không biết những cố gắng mà Diana đã thực hiện để hòa hợp với cô bé nhưng tất cả đều thất bại. George nuông chiều con gái mình và điều này làm cho mọi thứ trở nên không dễ dàng giữa ông ta và vợ mình.”
“Amber là một cô gái dễ nhìn, thông minh và hoạt bát. Dĩ nhiên, cô ta có bạn trai và đã có thai năm tháng trước khi George và Diana phát hiện ra. Hay, nói cách khác, là Diana đã phát hiện ra. Diana đã nhận thấy điều đó. Cả hai người họ đều sẽ khuyên cô ta đi phá thai nếu họ biết sớm hơn. Cô ta đã lấy chứng chỉ GCSE1 từ hơn một năm trước, dự định học lên A level và tiếp tục vào đại học. Điều gì sẽ xảy ra với tất cả những dự định đó?”
1 General Certificate of Secondary Education: Chứng chỉ giáo dục trung học tổng quát.
Burden ngắt lời anh. “Amber sẽ trở nên thế nào? Từ lúc mười bảy tuổi trở đi?”
“Mười bảy tuổi vào tháng Bảy và Brand được sinh vào tháng Chín. Không lâu sau mọi chuyện trở nên rõ ràng rằng cô ta không có ý định thôi học. Không, cô ta sẽ quay trở lại trường, để đứa bé ở nhà với George và Diana, chuyện đó đã ảnh hưởng đến Diana bởi vì trong những trường hợp thế này, anh biết đấy, thường đàn ông sẽ đi làm và đàn bà… ở nhà lo nội trợ.”
“Tôi có lý do phù hợp để biết được điều đó”, Burden nói, vì chính anh ta đã phải gửi con cho chị gái chăm sóc trong những lúc khó khăn sau khi người vợ đầu của anh ta qua đời.
“Tất cả những gì George làm là giúp đỡ chút ít trong việc trông trẻ”, Wexford tiếp tục. “Amber đi học lái xe và vượt qua bài kiểm tra vào tháng Hai sau đó. Ông bố yêu chiều của cô ta đã mua cho cô ta một chiếc xe hơi. Trong khi đó, người mẹ kế ít yêu chiều hơn thì chỉ còn bận tâm tới Brand. Bà ta đã thử thuê một bảo mẫu - nhớ rằng bà ta có thể dễ dàng chi trả việc này - nhưng có vài nguyên nhân nào đó khiến việc ấy không được suôn sẻ và bà ta buộc phải thôi việc.”
“Vào khoảng thời gian này, mùa đông sau khi Brand ra đời, Amber bắt đầu đến câu lạc bộ Bling-Bling - tự mình lái xe đến đó, một cách tình cờ, cho đến cuối tháng Sáu. Những người bạn của cô ta, Ben Miller và Lara Bartlow, cũng đến Bling-Bling và một đêm nọ, Lara đã đưa chị cô ta là Megan đến. Đây là phỏng đoán nhưng rất có thể là hai cô gái này đã kể về những đứa con của họ, Brand của Amber sống cùng cô ta và con của Megan thì đã bị bỏ rơi từ ba năm trước. Nhân dịp ấy, hay có thể là sau đó, Megan đã đề xuất ý tưởng mang thai hộ. Có thể họ không có nhiều điểm tương đồng, họ thuộc hai tầng lớp xã hội khác nhau và có nền tảng giáo dục khác nhau, nhưng mỗi người bọn họ đều có một thứ mà Megan gọi là ‘năng lực’.”
“Để tìm hiểu thêm về việc mang thai hộ, họ phải học hỏi nhiều hơn và cách tốt nhất để làm điều này là thông qua Internet. Megan không có máy vi tính nhưng Amber thì có và cô ta đã dùng nó để truy cập. Cô ta đã nhờ John Brooks chỉ cho cách tìm một trang web. Phỏng đoán của tôi là John Brooks đã tìm thấy một vài trang web về mang thai hộ nói chung và SOCC nói riêng.”
“Chắc hẳn anh ta phải thắc mắc cô ta muốn tìm chúng để làm gì chứ?”
“Tại sao lại không nhỉ? Tôi nghĩ anh ta còn quá quan tâm ấy chứ vì đứng trên quan điểm của anh ta và vợ anh ta, Gwenda Brooks muốn có một đứa con. Và rồi có thể anh ta cũng muốn. Hãy nhớ rằng, việc này xảy ra từ rất lâu trước khi anh ta gặp gỡ bạn trai của mình hay thậm chí từ khi biết mình bị thu hút bởi người đồng giới. Anh ta kể với vợ, cô ta đã liên lạc với SOCC, sau đó là Norman Arlen và Du lịch Kỳ diệu. Chuyện về sau, như họ nói đó, đều là lịch sử rồi.”
“Amber và Megan đã đến Frankfurt”, Burden nói. “Họ tiến hành thụ tinh nhân tạo hay đại loại thế tại khách sạn Four Horses - hoặc họ không tiến hành việc đó nhưng có thể đã - bỏ túi “tiền đặt cọc” rồi về nhà. Nơi họ có thể đã lừa những người khác nghĩ rằng mình mang thai con của họ. Cái thai của Megan có thể do thụ tinh với sự góp sức của Konig-Hensel. Chỉ có xét nghiệm ADN mới biết được điều đó. Nhưng có khả năng đấy là kết quả của việc quan hệ theo cách thông thường với ai đó mà cô ta chọn lựa hoặc thậm chí với Prinsip ga lăng đã chiến thắng cuộc phẫu thuật triệt sản.”
Wexford uống nốt cốc cà phê của mình, nhìn một cách luyến tiếc vết mờ mờ của bã cà phê đậm đà dưới đáy cốc. Anh thở dài, nói, “Nhưng, anh biết đấy, Mike ạ, tất cả đều không liên quan. Tất cả chuyện đẻ thuê này, lừa đảo, lừa gạt một cách độc ác. Chúng ta đã tốn hàng tuần trời cho vụ này. Chẳng nghi ngờ gì chúng ta đã lãng phí tiền bạc của nhà nước vào nó. Anh quăng một mẻ lưới vào giữa tầng lớp hạ lưu trong xã hội, tìm kiếm manh mối về ma túy - và chẳng thấy gì cả”.
“Tôi biết được những ngày này, giá của cocaine đã giảm xuống rất nhiều và không cao hơn giá của một cốc cappucino.”
“Thật á?” Wexford im lặng một lúc, nghiền ngẫm điều đó. Rồi anh nói, “Sau tất cả chuyện này, điều duy nhất có ích cho chúng ta là những cô gái này biết nhau. Ngoài ra chẳng còn gì nữa. Chuyện mang thai lừa đảo của Amber và Megan là quả đắng lớn nhất mà tôi từng trải qua trong sự nghiệp của mình. Không ai trong số hai cô gái này bị giết bởi vì cô ta đã tự biến mình thành người mang thai hộ hay lừa đảo lấy tiền. Đây có thể là một tội ác, nhưng là một tội ác mà chúng ta không điều tra ra được”.
“Anh có thể nói Megan bị giết bởi vì cô ta biết Amber nhưng tại sao Amber lại bị giết?”
“Amber bị giết bởi vì cô ta đã chấp nhận lời đề nghị của nhà Hilland về căn hộ đó, căn hộ ở ngoại ô Luân Đôn. Nếu cô ta nói không, thì cô ta có thể vẫn sống đến giờ này, và nếu cô ta còn sống thì Megan cũng còn sống. Nhưng cô ta đã đồng ý. Dĩ nhiên là phải đồng ý rồi. Có cô gái nào ở vị trí của cô ta có thể từ chối được?”
“Điều mà tôi không hiểu”, Burden nói, “là tại sao George và Diana Marshalson lại không mua cho cô ta một căn nhà. George thì khá giả và Diana thì giàu có. Tôi nghĩ ít nhất họ cũng có được những gì như của nhà Hilland ở địa vị của mình”.
“Đúng, nhưng cho dù George có muốn tống khứ Brand đi thì ông ta cũng không muốn mất con gái. Nó không giống như chuyện cô ta sẽ đi xa để học đại học. Nếu mua cho cô ta một căn hộ, ông ta sẽ khó mà gặp lại con gái lần nữa. Giờ nỗ lực đầu tiên để khử cô ta là một tuần sau khi cô ta chấp nhận lời đề nghị của nhà Hilland. Đó là ngày Hai mươi tư tháng Sáu và khoảng một tuần sau thì cô ta bước sang tuổi mười tám. Điều này cũng chẳng liên quan, mặc dù trong suốt thời gian dài, tôi đã nghĩ điều đó là không thể.”
“Nỗ lực đó”, Burden nói trong lúc thanh toán hóa đơn, “được tiến hành bởi Rick Samphire, đúng chứ?”.
“Dĩ nhiên”, Wexford nói khi họ rời quán cà phê và ra ngoài dưới ánh nắng ấm áp không ngờ. “Dĩ nhiên. Nhưng đó không phải là ý tưởng hay động cơ của hắn. Hắn chỉ là lính đánh thuê, nhận việc và được trả tiền, bởi một ai đó. Có ba tên sát nhân trong vụ này, Mike ạ, chưa kể đến các nhân vật phụ khác như Arlen, Lawson và Fry khá ngây thơ; giờ chúng ta sẽ quay trở lại, vây bắt những tên trong nhóm chưa lộ diện để phục vụ công chúng và kể họ nghe phần còn lại.”
Họ tập trung tại văn phòng của anh, Damon Coleman cũng ở đó, nhìn anh ta như thể sắp ngủ đứng vậy. Anh ta hỏi liệu mình có thể ngồi xuống không và như vậy là đủ để Wexford bảo mọi người ngồi xuống. Trung sĩ Goldsmith và Sĩ quan Bhattacharya, mặc dù cư xử đúng với khuôn phép hoàn hảo; vẫn đứng gần nhau hơn bình thường dù trong mối quan hệ xã hội chứ không phải quan hệ công việc. Ngồi xuống rõ ràng chỉ thêm đúng ý họ vì họ có thể nắm tay nhau. Karen Malahyde cứ liên tục nhìn họ bằng ánh mắt đa cảm nhưng Barry Vine thì ngó lơ. Anh ta có lẽ không để ý, rất có thể đang hình dung trong đầu cảnh điên loạn từ Lucia di Lammermoor2. Những người khác ngồi phía sau, nhìn cả hai đầy hy vọng và e ngại.
2 Một trong những vở opera xuất sắc nhất của Gaetano Donizetti, nhà cách tân opera người Ý. Lời được sáng tác bởi Salvadore Cammarano, dựa trên tiểu thuyết The Bride of Lammermoor của đại văn hào người Scotland, Walter Scott.
“Tôi muốn cảm ơn tất cả các bạn”, Wexford bắt đầu, “vì đã làm rất tốt vụ này dù chúng ta không được nhanh lắm. Đã gần bốn tháng kể từ khi chúng ta đi tìm câu trả lời, nhưng sau khi làm việc một cách chăm chỉ và kỹ lưỡng chúng ta đã đi được đến cuối vụ án. Cảm ơn các bạn rất nhiều”.
Sau đó không một ai có thể xác định ai là người vỗ tay trước. Burden miễn cưỡng vỗ tay cùng những người còn lại nhưng trông không hài lòng, xì xầm phủ nhận mình đã tham gia vào bất kỳ phần nào trong đó. Theo quan điểm của anh ta, thái độ quá lịch sự, trìu mến này chỉ là vỏ bọc cho vẻ nhạt nhẽo bên trong. Đó là cơn bốc đồng khiến người ta đặt hoa trong giấy bóng kính lên mộ phần của những người lạ. Nếu Wexford đang có cùng suy nghĩ như vậy, thì anh ta không thể giải thích được vẻ mặt khó hiểu của ngài Chánh thanh tra.
Wexford im lặng chờ đợi, rồi nói, “Có ba kẻ giết người trong vụ này, không phải chỉ có mình anh em nhà Samphire. Nói tới câu chuyện vào ngày Hai mươi tư tháng Sáu, ngày Hạ chí, khi Rick Samphire đỗ xe trong rừng Yorstone và đi bộ xuyên qua rừng tới cầu Yorstone, mang theo chiếc ba lô có chứa tảng bê tông mà hắn nhặt từ một công trình xây dựng và mặc bên ngoài chiếc áo lông cừu màu xám có mũ trùm đầu. Trời không lạnh, vì thế tôi nghĩ hắn ta mặc như vậy để giả trang. Nhìn từ khoảng cách ngắn, một người đàn ông đội mũ trùm đầu trông sẽ giống những người khác”.
“Mục đích của Rick là thả tảng bê tông xuống cầu khi Amber Marshalson băng qua bên dưới trong chiếc Honda màu bạc của cô ta. Hắn không có động cơ nào cả. Hắn chỉ đơn giản là làm việc mà hắn được trả tiền để làm: giết Amber. Nhưng là một kẻ lóng ngóng và vụng về, một kẻ không làm nổi việc gì trót lọt, hắn đã khiến mọi chuyện rối tung lên. Hắn đã thất bại. Hắn nhận dạng nhầm chiếc xe, mắc phải một trong những lỗi điển hình là nhầm với chiếc Honda màu xám của James Ambrose. Mavis Ambrose đã chết vì bị thương quá nặng. Đây là vụ giết người đầu tiên.”
“Chậm rãi hiểu ra được vấn đề, Rick hẳn đã biết là mình nhận nhầm chiếc xe. Trước khi biến khỏi chỗ đó, hắn đã kịp nhìn thấy Amber còn sống và bị sốc nặng. Hắn quay trở lại con đường đã đi và khi về đến khoảng trống trong rừng, nơi hắn giấu chiếc xe của mình, hắn đã bị Megan Bartlow nhìn thấy lúc cô ta đạp xe về nhà từ chỗ bà cô ta. Hắn không nói mình có nhìn thấy cô ta không. Giờ điều tôi nghĩ là cô ta đã thấy một người đàn ông đội mũ trùm đầu và chỉ thấy bóng dáng của hắn nhờ ánh đèn từ chiếc xe đạp.”
Karen giơ tay lên như thể đây là một buổi họp báo. “Có chuyện gì, Karen?”
“Chắc chắn hắn đã nhìn thấy ánh đèn của cô ta, đúng không sếp? Trời lúc đó rất tối, lại còn là trong rừng.”
“Ý cô là, vốn đã cố giết một cô gái, thì hắn còn ngại gì mà không giết thêm một cô gái nữa nếu cô ta đã nhìn thấy hắn phải không? Phỏng đoán của tôi là điều đó không nằm trong sự chỉ dẫn dành cho hắn. Hắn được chỉ dẫn để giết Amber Marshalson. Giết thêm một ai đó mà chưa được đồng ý có thể gây ra rắc rối. Ross sẽ không thích điều này. Rick sẽ nghĩ như vậy. Tôi nghĩ phương thức gây án do hắn chịu trách nhiệm.
Nếu đó là trách nhiệm của anh trai hắn, Ross sẽ không bao giờ chọn cách thức liều lĩnh đến vậy. Thực sự cơ hội là năm mươi năm mươi, đúng chứ? Hắn đã nhắm trúng nhưng lại trượt mục tiêu.”
“Và đúng, Ross Samphire đứng sau vụ này. Hắn cử Rick đi làm vụ đó, mặc dù không định nhận tiền. Nghe thật kỳ lạ, Ross giao nhiệm vụ giết Amber cho em trai vì tình cảm anh em. Thực tế, hắn đã làm vậy rất nhiều lần trước đây: cho em trai mình một công việc. Công việc làm một lần nhưng hưởng hậu hĩnh. Tiền công là năm ngàn bảng. Nhưng dĩ nhiên, vì Rick từng làm vậy trước kia, Ross đã tính toán nhầm năng lực của em trai và bỏ qua sự vụng về của Rick. Tình yêu khiến người ta có xu hướng làm thế trong những mục đích có liên quan đến nó.”
“Ross chưa từng có rắc rối nào với pháp luật. Tức là, hắn chưa bao giờ bị truy tố. Hắn chưa từng bị bắt giữ. Nhưng tôi nghi ngờ phạm tội lặt vặt đã trở thành một phần trong cuộc sống của hắn cũng như của em trai hắn. Chắc chắn hắn đã cộng tác với Norman Arlen từ lâu. Rõ ràng là hắn và Rick học cùng trường với Norman Arlen. Vì thế chính Arlen là người bị lôi kéo vào việc cho Rick một chứng cứ ngoại phạm vào đêm Hạ chí đó. Hắn ta và Rick, như chúng ta đã được kể, đang ngồi uống với nhau và sau đó đi ăn ở nhà hàng Mermaid đúng vào khoảng thời gian có liên quan khi Rick thả tảng bê tông xuống cầu.”
“Không nghi ngờ gì, một nỗ lực khác phải được thực hiện. Những người khác rất khó tính về việc thực sự giết người. Rick đã có hai tiền án về bạo lực. Không giống như Ross, hắn hiểu về bạo lực, vì thế Rick phải giết người một lần nữa. Hắn thực sự đã làm vậy. Vào ngày Mười một tháng Tám. Một thời điểm nào đó trước hai giờ sáng, Ben Miller đã thả Amber ở góc đường Mill, Brimhurst Prideaux. Rick, vẫn mặc chiếc áo lông cừu có mũ trùm đầu, lại đỗ xe ở một nơi khó thấy và đợi cô ta.”
“Làm sao hắn biết là cô ta sẽ về tới đó vào giờ ấy, thưa sếp?” Đó là Damon Coleman, vốn rất hiểu việc ngồi đợi một người trên phố và ở góc đường.
“Hắn đã được thông báo”, Wexford nói. “Bởi Ross, người có trách nhiệm tìm ra những điều như vậy, Ross đã nói với hắn - bởi vì Ross có thông tin chính xác - về thời gian Amber sẽ băng qua dưới cầu. Giờ Ross nói với Rick thời điểm Amber có thể về tới nhà từ câu lạc bộ Bling-Bling. Như chúng ta đã biết, lần này Rick đã thành công. Tuy nhiên, hắn đã bị nhìn thấy. Lydia Burton đã thấy một người đàn ông đội mũ trùm đầu đi bộ dọc theo vệ cỏ khi cô ta ra ngoài đi dạo với con chó vào giữa đêm. Các bạn có thể đang nghĩ cô ta hơi kỳ quặc khi đề cập điều này với chúng ta, trừ khi cô ta có lý do nào đó để không nói ra. Chúng ta sẽ biết thôi.”
Giơ tay lên, Damon hỏi, “Cô ta có phải kẻ giết người thứ ba không, thưa sếp?”.
“Ồ, anh đã nghĩ như vậy, phải không? Giờ sẽ đến phần ấy đây. Hãy tự hỏi bản thân rằng tại sao Rick lại không lấy mấy ngàn bảng từ túi áo khoác của Amber. Câu trả lời có thể là hắn chỉ làm những gì mà Ross bảo và chỉ dẫn không bao gồm việc lấy đi tài sản của Amber. Chúng ta không biết ai đã đưa tiền cho cô ta, chỉ biết đó là tiền công cho việc chấp nhận mang thai hộ. Có lẽ chúng ta chẳng cần biết nếu không nhận ra rằng đó là một thành viên của SOCC, nhóm người chống vô sinh được điều hành bởi Norman Arlen. Nhưng Arlen không trực tiếp liên quan đến chuyện này và cả việc Amber bị sát hại. Đây là lúc Stephen Lawson vào cuộc. Và, Damon, ông ta không phải tên sát nhân thứ ba - nghe giống như trích đoạn từ Macbeth3 vậy, đúng không?”
3 Vở bi kịch ngắn nhất của William Shakespeare được cho là viết vào khoảng 1603 và 1607. Cốt truyện dựa theo giai thoại về vị vua Macbeth xứ Scotland, Macduff, và Duncan trong cuốn sử biên niên của Holinshed viết năm 1587 về lịch sử Anh Quốc, Scotland và Ireland.
Khuôn mặt lịch sự trống rỗng của họ cho anh thấy họ chẳng biết tí gì về việc nó có giống cái gọi là trích đoạn từ Macbeth hay không. Chẳng ích gì khi xót xa cho sự mất mát của thơ ca từ nhận thức của quốc gia. Nó đã biến mất, anh cho là thế, và sẽ không bao giờ trở lại nữa. “Stephen Lawson có thể làm việc cho một tổ chức từ thiện với tư cách người huy động quỹ. Ông ta cũng đang làm việc hoặc đã từng làm việc cho Norman Arlen. Ông ta”, anh tiếp tục, “được trả công để sáng tác câu chuyện về cuộc gặp gỡ với Rick cùng chiếc xe bị hỏng trên đoạn đường từ Sewingbury tới Pomfret. Gặp gỡ Rick là một lời nói dối, mặc dù phần còn lại là sự thật”.
“Chúng ta phải giả định rằng Ross đã hài lòng với thành công của cậu em trai yêu quý. Lần kế tiếp hắn đưa nhân tình của mình đến gõ cửa nhà Fry, hắn chắc chắn đã có thể kể lể về thành tích của mình. Rất đáng tiền, tôi nghĩ hắn gọi nó thế. Tất cả mọi việc đã hoàn tất, cả bốn người bọn chúng đã có cái mình muốn - nếu hắn không còn việc gì khác, còn Arlen thì giả bộ bị ốm và thực hiện tội ác, công việc yêu thích của hắn ta. Tất cả mọi việc đã hoàn tất, ngoại trừ Megan Bartlow.”
Wexford đưa cho những người khác - Burden phải nghe lại điều này - bản phác thảo về vụ lừa gạt được tiến hành bởi Amber và Megan. Anh tiếp tục, “Megan đã không nhận ra những gì cô ta nhìn thấy trong rừng Yorstone. Thậm chí nếu cô ta thấy trên báo những thông tin về tảng bê tông được thả từ trên cầu và cái chết của Mavis Ambrose, thì liên kết duy nhất tới Amber mà cô ta có thể nghĩ ra lúc đó là Amber đang lái chiếc xe kia. Nhưng khi Amber bị giết thì cô ta đã kết nối hai sự kiện lại với nhau”.
“Cô ta đã không nhận ra người đàn ông đội mũ trùm đầu ở trong rừng Yorstone nhưng một thời gian sau, có thể hai hoặc ba tuần sau, khi cô ta đang đi bộ dọc theo một con phố ở Sewingbury cùng cha mình thì họ thấy Ross Samphire ra khỏi xe và đi vào nhà. Megan thấy hắn ở góc nhìn nghiêng và có thể thấy hắn từ đằng sau. Giờ đến người đàn ông mặc áo có mũ trùm đầu trong rừng lúc chạng vạng tối. Ánh sáng duy nhất đến từ chiếc đèn xe đạp của cô ta. Tôi mới giả sử cô ta chỉ thấy Rick từ một phía. Cô ta cũng nhìn Ross từ một phía như vậy. Hắn có mái tóc xoăn dày tối màu và trông rất vạm vỡ, Rick thì không. Nhưng - hãy nhớ điều này - họ là anh em sinh đôi. Cặp song sinh giống hệt nhau. Một khi đã giống nhau y hệt như vậy, chẳng nghi ngờ gì rằng cả hai đều có tóc xoăn dày tối màu, mắt sáng và làn da khỏe mạnh. Thời gian, tù tội và thuốc lá, có thể cả chế độ ăn kém dinh dưỡng đã khiến Rick trở nên xơ xác, hậu quả tất yếu mà dù là anh trai cũng không thể cứu hắn thoát khỏi được. Người Megan nhìn thấy là Ross. Cô ta thấy cùng một bóng dáng nghiêng nghiêng với người đàn ông trong rừng nhưng khác là không mặc áo có mũ trùm đầu và trong ánh sáng ban ngày. Cô ta cho rằng hai người đó là một.”
“Làm thế nào cô ta liên hệ được thì tôi không biết nhưng cô ta biết địa chỉ của Ross. Có thể, ngay khi cô ta thấy hắn đi bộ ra ngoài, cô ta đã bám theo, nói với hắn rằng mình đã nhận ra hắn và đe dọa sẽ tố cáo hắn với cảnh sát. Ross có thể đã nói rằng đó không phải là mình, nhưng như thế sẽ làm lộ người em song sinh mà hắn yêu quý. Do đó Megan phải chết nhưng lần này Ross không dám để Rick ra tay nữa. Sẽ không có cơ hội thứ hai nếu Rick làm hỏng chuyện. Hắn đã tự mình làm điều này. Có lẽ hắn đã nói rằng họ phải gặp nhau một lần, đó là bước đầu tiên. Hắn đã sắp xếp để gặp Megan ở dãy nhà Victoria, nơi hắn sẽ sớm thi công xây dựng lại và tiến hành tân trang những ngôi nhà đó.”
Hannah giơ tay. “Tại sao lại ở đó, thưa ngài?”
“Tôi gần như có khuynh hướng nghĩ rằng để khéo xoay xở, tại sao lại không chứ? Nhưng hắn không thể gặp cô ta ban ngày ban mặt ở nơi họ có thể bị nhìn thấy. Cô ta sẽ không đến sau khi trời tối. Cô ta quá lo sợ. Hắn cũng không thể đến chỗ cô ta hay để cô ta đến chỗ hắn. Khi hắn gợi ý dãy nhà Victoria, địa điểm đó dường như chấp nhận được với cô ta. Hãy nhớ rằng, cô ta đã đến đó vào đêm hôm trước để kiểm tra và không nghi ngờ gì nữa, cô ta nghĩ ở đấy có đủ người để đảm bảo an toàn cho mình.”
“Về phần Ross, hắn đến tòa nhà ngân hàng cũ cùng Rick và Colin Fry vào lúc tám giờ sáng. Colin được giao công việc sơn tường ở tầng trên và - điều này rất quan trọng - anh ta không thể bỏ dở việc giữa chừng. Một khi đã bắt đầu làm, anh ta sẽ làm xong cả bức tường. Ross để ý điều đó. Hắn làm ở tầng trệt với Rick. Vào lúc chín giờ kém mười, hắn lên chiếc xe đậu ở mặt tiền của ngân hàng, lái đến Stowerton, nhặt một viên gạch từ đống gạch xếp bên ngoài dãy nhà Victoria, gặp Megan và giết cô ta. Hắn nhét xác cô ta vào trong tủ và lái xe về. Toàn bộ sự việc chỉ làm tốn của hắn nửa giờ hoặc, cùng lắm, là bốn mươi phút.”
“Colin Fry chưa từng thấy hắn rời đi bởi vì anh ta phải tập trung vào công việc sơn tường. Tại sao Ross lại đặt cái xác vào trong tủ? Hắn chắc chắn không thể mang nó ra ngoài giữa thanh thiên bạch nhật - và hãy nhớ rằng, lúc đó đang là khoảng chín rưỡi đến mười giờ sáng. Tôi không biết tại sao hắn để cái xác lại đó nhưng tôi đoán hắn đã bảo Rick tiêu hủy nó và vì thế sau khi trời tối, Rick đến đấy một mình, đây chính là một mấu chốt quan trọng. Ross hiếm khi đi một mình. Hắn có vợ và hai con. Hắn điều hành doanh nghiệp.
Hắn còn có một cô bạn gái mà hẳn rất quan trọng với hắn vì hắn luôn làm bất cứ điều gì có thể cho cô nàng. Nhưng Rick hiện đang sống một mình. Không ai trông chừng hắn ta. Không ai nghi ngờ hắn ta lúc đó cả. Điểm yếu của Rick là hắn ta rất bất cẩn và vụng về. Có lẽ Ross đã nhấn mạnh với hắn ta về sự quan trọng của việc tiêu hủy xác Megan. Nếu xác cô ta được giấu hoặc chôn ở đâu đó, thì có thể sẽ mất vài tháng để tìm thấy hoặc không bao giờ liên hệ được tới Amber. Nhưng Rick đã không làm theo lời căn dặn.”
“Tại sao không? Chúng tôi không biết - chưa biết. Có thể Rick không biết làm thế nào hay ở đâu. Có thể vào lúc hắn ta quyết định được thời gian và địa điểm tiến hành, thời tiết vẫn đang rất nóng, nếu các vị nhớ được. Cái xác bắt đầu bốc mùi. Và phân hủy. Có lẽ đơn giản là hắn ta không thể đối mặt với việc chạm vào để lôi nó ra ngoài và bảo sẽ làm khi mùi đó giảm bớt, chính hắn ta, Ross và Colin Fry sẽ phải làm việc đó và có thể tự Ross sẽ di chuyển phần còn lại của xác Megan.”
“Giờ chúng ta có thể nghỉ một chút để uống cà phê rồi tôi sẽ tiếp tục trong mười lăm phút nữa.”
Wexford gọi điện tới văn phòng Trợ lý Cảnh sát trưởng và yêu cầu một cuộc hẹn với ông ta. Ngay hôm nay, nếu có thể. Cuộc hẹn được xác nhận vào lúc bốn giờ chiều. Anh uống cà phê một mình và im lặng, suy đoán những gì có thể sẽ xảy ra nếu Rick đã di dời và chôn xác Megan. Có thể không dễ dàng để tìm thấy. Trong trường hợp đó, họ có thể sẽ không bao giờ liên kết được hai cô gái với nhau, vụ lừa đảo đẻ thuê cũng không được mang ra ánh sáng, âm mưu của Norman Arlen cũng sẽ không bị phơi bày.
Trong khoảnh khắc, anh để suy nghĩ của mình dừng lại ở Sylvia và em bé mới sinh của cô. Mary Fairfax sẽ là tên của nó. Đó là một cái tên rất kêu dành cho nó. Dora đã cho phép mình hy vọng thêm một lần nữa rằng Sylvia và cha của Mary có thể quay lại với nhau. Và dĩ nhiên một đứa bé nên được sống cùng cha nó, mặc dù chuyện đó ngày nay không còn phổ biến lắm. Wexford cắt đứt dòng suy nghĩ của bản thân. Ưu tiên hàng đầu của anh bây giờ là vụ án này và giải thích nó một cách thật thỏa đáng cho toàn đội, sau đó là tới Trợ lý Cảnh sát trưởng, rồi xem xét những đứa trẻ có thể liên quan đến toàn bộ vụ kinh doanh đáng hổ thẹn này, những đứa bé châu Phi mồ côi - điều gì sẽ xảy ra với chúng? - đứa bé được nhận làm con nuôi của Megan, đứa bé mà Megan không bao giờ sinh ra, những đứa bé được khao khát bởi cặp vợ chồng người Đức và Gwenda Brooks, bản thân cậu bé Brand. Anh quay lại văn phòng với cả đội đang chờ đợi. Một bàn tay giơ lên trước khi anh kịp bắt đầu.
“Ai là tên giết người thứ ba, thưa sếp?” Đó là Barry Vine. “Sẽ sớm xuất hiện thôi”, Wexford nói. “Tôi muốn quay lại vụ Amber Marshalson”, anh tiếp tục. “Cô gái tội nghiệp Amber là một ví dụ điển hình của những gì có thể xảy ra khi bạn cho đứa con duy nhất của mình tất cả những gì nó muốn. Mọi thứ nó yêu cầu, gọi nó là cô công chúa nhỏ và kể với nó về những điều kỳ diệu xảy ra do sự thăng trầm của số phận.”
“Thưa sếp.” Lại là Barry. “Nhưng đó không nên là những chuyện ‘đỉnh của đỉnh’ đúng không?”
“Tôi hy vọng chúng ta không nói những điều sáo rỗng ở đây, Barry. Quay trở lại với Amber. Trong số các bạn, ai chưa có con cái, hay sắp có, thì cần chú ý. George Marshalson đã cho con gái mình mọi thứ cô gái muốn, mọi thứ ông ta nghĩ là cô ta muốn, bao gồm cả một bà mẹ kế. Diana không có con riêng, mặc dù bà ta vẫn còn trẻ để sinh lấy một đứa, nhưng George, dĩ nhiên là không muốn có thêm con nữa. Ông ta có một đứa duy nhất và nó hoàn hảo, không bao giờ có đứa thứ hai giống thế. Có thể, Diana đã cố gắng trở thành người mà một bậc cha mẹ nên trở thành, George thì chưa bao giờ như vậy: một người cố vấn cũng như một người mẹ, một tấm gương, một giáo viên hoặc có lẽ, tồi tệ hơn, một người chị lớn. Chẳng ích gì. Amber ghét Diana.”
“Cái thai của Amber hẳn đã khiến lòng tôn thờ, nếu không phải là tình yêu, mù quáng của George bị chấn động, Nhưng có lẽ là không. Trong mắt ông ta, Daniel Hilland sẽ hoàn toàn phải hứng chịu tội lỗi. Ông ta tự nhủ với bản thân rằng đây là kết quả của một vụ gần như hiếp dâm, chắc chắn là dụ dỗ. Tôi không nghĩ việc sinh ra Brand là vết thương lòng của Amber. Trong giới của cô ta, việc có một đứa con ở tuổi teen có vẻ thật thời trang. Tôi dám nói, là ‘chất lừ’, hoặc xấu xa.”
“Cứng đầu”, Damon nói.
“Vâng, cảm ơn anh, Sĩ quan Coleman. Amber thậm chí còn không nghỉ học. Diana đáng ghét, người mà cô ta hiếm khi nói chuyện cùng trong những ngày đầu, được tận dụng làm người trông trẻ hay vú em toàn thời gian. Tại sao Diana lại không đi? Tại sao bà ta không bỏ đi? Bà ta không còn yêu George nữa và bà ta chưa bao giờ yêu Amber. Bà ta có tiền riêng của mình, rất nhiều là đằng khác, thậm chí không cần làm việc. Nhưng bà ta vẫn ở lại. Bà ta ở lại và trông nom Brand. Như thể Amber và Brand sẽ ở đó mãi mãi. Chà, Brand sẽ ở đó bởi vì Amber rất muốn học lên đại học và sau khi tốt nghiệp đại học, cô ta sẽ kiếm một công việc. Brand sẽ ở lại, còn Amber có thể đến Luân Đôn hay Mỹ hoặc một nơi nào đó ở châu Âu - thậm chí cưới một người đàn ông không hề muốn đứa con của cô ta.”
“Sau đó nhà Hilland đã đề nghị cho Amber ở căn hộ của họ tại ngoại ô Luân Đôn. Không phải đề nghị mà là sự chấp thuận của cô ta để hoàn thiện cái mà anh sẽ gọi, Barry ạ, là ‘ký vào giấy xác nhận cái chết của cô ta’. Nếu nói không, cô ta có lẽ vẫn còn sống đến ngày hôm nay. Nhưng cô ta đã nói có.”
Anh nhìn những khuôn mặt bối rối đang đối diện với mình và một khuôn mặt không bối rối nhưng lại khó chịu vì ánh sáng ban ngày nên nhăn nhó. “Ồ, Chúa ơi”, Hannah khẽ nói.
“Ross Samphire ngoại tình. Cuộc sống gia đình hạnh phúc được nhiều người ca tụng của anh ta chỉ là vẻ bề ngoài. Chúng ta đã thấy Ross lái xe đi ra từ đường Mill và rồi chúng ta đã thấy Lydia Burton ở cổng nhà cô ta. Biết rằng Lydia Burton ‘đã có ai đó’, như họ nói, chúng ta giả định rằng, hoặc chúng ta giả định trong một thời gian rằng, cô ta là bạn gái của Ross. Nhưng nếu là vậy, nó sẽ có nghĩa rằng thực tế Ross đã tới đường Mill vào lúc nửa đêm ngày Mười một tháng Tám, nơi mà hắn sẽ chẳng bao giờ mơ đến việc sẽ ở đó khi em trai hắn được điều đến đấy một giờ sau hoặc muộn hơn để tiến hành việc giết chóc. Bên cạnh đó, tại sao Ross và Lydia dùng căn hộ của Colin Fry để hẹn hò khi Lydia là một phụ nữ độc thân và lại có nhà riêng?”
“Không, bạn gái của Ross sống ở đường Mill nhưng không phải Lydia Burton. Bà ta là một phụ nữ giàu có và đã kết hôn, người không muốn chuyện ngoại tình của mình bị khám phá ra hoặc có lẽ bà ta đã ly dị. Diana Marshalson muốn chuyện tình bí mật của mình với Ross tiếp tục nhưng có vài thứ khác bà ta còn muốn hơn. Đủ để giết người và trả công cho kẻ giết người.”
Wexford ngừng lại, nhìn từ khuôn mặt hoảng hốt này sang khuôn mặt hoảng hốt khác, trừ Hannah. Anh tiếp tục, “Xuyên suốt vụ án này, chúng ta tìm kiếm lý do tại sao. Tại sao? Động cơ giết Amber là gì? Amber sẽ rời đi, cô ta sẽ đem theo đứa trẻ mà George và Diana coi là cục nợ, đem nó tới Luân Đôn, và có lẽ sẽ không còn nhìn thấy nó nữa. Vậy thì tại sao lại phải áp dụng biện pháp kinh khủng là giết cô ta? Có thể Diana không nghĩ đến điều này. Mà có thể là Ross. Nhưng Diana đã trao số tiền để chuyển qua cho người em trai tội nghiệp của Ross và bị vận rủi của anh ta đeo bám”.
“Tại sao? Diana đã đóng rất đạt trong việc coi Brand là một mối phiền toái, có chút đau thương xung quanh đó.
Không ai đoán được bà ta cảm thấy thế nào, mặc dù bà ta không có con với người chồng trước, và bà ta đổ lỗi việc này lên đầu ông ta. George thì không muốn có con. Bà ta đang già đi, hiện đã quá già để sinh con. Nhưng Amber có một đứa và vô tình bà ta lại là người được chọn để chăm sóc nó, nuôi dạy nó. Đầu tiên, Diana có thể đã coi việc chăm sóc cho Brand là việc vặt trong nhà. Nhưng không lâu. Bà ta dần dần yêu mến nó. Bà ta yêu nó, nâng niu nó như thể nó là con của chính mình. Không nghi ngờ gì việc bà ta không muốn thuê người trông trẻ. Và Brand đã gần như là của bà ta. Bà ta trở thành người quan trọng nhất trong cuộc đời nó. Mẹ nó không dửng dưng với nó nhưng cô ta còn quá trẻ và lại cẩu thả. Nếu không có Diana, thì thằng bé sẽ thế nào đây? Bà ta cưng chiều nó - cũng nhiều như chồng bà ta cưng chiều Amber vậy.”
“Nhưng Amber sẽ đi. Cô ta sẽ tới Luân Đôn và đem theo đứa trẻ đáng yêu đó đi cùng. Đó là một tình huống kỳ lạ, phải không? George muốn Amber và Brand ở lại bởi vì ông ta muốn Amber, còn Diana muốn Amber và Brand ở lại bởi vì bà ta muốn Brand. Và Amber thì muốn đi bởi vì một căn hộ ở Luân Đôn đồng nghĩa với tự do, cuộc sống và sự thoải mái.”
“Vì vậy Diana đã đưa tiền cho Ross để thuê Rick giết Amber, như vậy bà ta sẽ có thể giữ lại Brand, đứa trẻ mà bà ta yêu thương”, Wexford nói. Anh bước ra sau bàn làm việc và ngồi xuống, cưỡng lại sự cám dỗ chống tay lên cằm, nói những lời giải thích cuối cùng. “Tình yêu không thể biện hộ cho tất cả. Nó không biện hộ cho bất kỳ điều gì. Đây là động cơ tồi tệ và xấu xa nhất - và ý tôi là xấu xa theo đúng nghĩa đen của nó, Damon ạ - cho việc giết người mà tôi từng biết. Độc ác chính là như thế này. Chứ chẳng cần tìm đâu xa.”