Với sự xuất hiện của bóng tối, trời trở nên lạnh hơn và những mảng tuyết tan chảy một nửa đã đóng băng trở lại. Bal về tới căn hộ anh ở cùng với người bạn luật sư của mình, nghĩ rằng sẽ làm việc mình đã lăn tăn cả mấy tuần nay: gọi điện cho Hannah và mời cô ra ngoài đi uống chút gì đó sau chuyến đi kinh khủng kia, chuyến đi tới Taunton đã bị chết yểu, mà anh thấy ăn năn. Bal thích từ đó, nó diễn tả một cách chính xác nhất cảm giác của anh. “Ăn năn” - nhiều hối tiếc và ít hối hận hơn. Anh đã cư xử như một kẻ tự phụ. Không chỉ đạo đức và tự mãn, mà anh còn xử sự giống như một ai đó gấp đôi tuổi mình với hành vi và nguyên tắc của một người gấp ba tuổi mình. Và giờ anh không còn hiểu được tại sao anh lại làm những việc mình đã làm. Anh đã bị sao vậy nhỉ? Dám nói với một người phụ nữ thông minh rằng anh sẽ không quan hệ với cô cho đến khi họ chính thức quen nhau? Từ chối ngủ với người phụ nữ xinh đẹp nhất được biết đến dựa trên cơ sở các nguyên tắc của vài cô trinh nữ tuổi teen về gìn giữ mối quan hệ trong sáng cho đến khi họ hoàn toàn hòa hợp với sở thích và nhu cầu của nhau?
Có khả năng là cô sẽ không bao giờ nói chuyện với anh nữa trừ phi liên quan đến công việc nhưng anh có thể thử. Anh sẽ là tên ngốc nếu đến thử cũng không dám làm. Bạn cùng nhà của anh đã ra ngoài. Còn lại một mình trong phòng khách, anh quăng người lên chiếc sofa và quay số điện thoại của cô, chuẩn bị ứng phó với giọng nói của cô bảo anh những gì anh có thể làm và nơi anh có thể đến. Không trả lời. Chà, mới có bảy rưỡi. Anh gọi lại vào số di động của cô. Cô nhất định sẽ trả lời. Họ biết mình luôn phải trả lời. Chuông điện thoại cứ reo và reo, rồi đột ngột ngắt tín hiệu. Kỳ lạ.
Anh lấy cho mình một lon Coca từ tủ lạnh, quay trở lại và gọi tới đồn cảnh sát. Không, Trung sĩ Goldsmith đã đi rồi.
“Đi đâu?”
“Về nhà, tôi nghĩ vậy”, viên sĩ quan trực ban trả lời. “Tôi đã không thấy cô ấy kể từ khi đến đây lúc bốn giờ.”
Không, dĩ nhiên là không rồi, Bal nghĩ. Cô ấy đã đi gặp Norman Arlen. Tới Luân Đôn bằng tàu hỏa. Anh đã nghe Damon nói với Wexford khi họ quay trở lại sau nỗ lực sớm thất bại gặp được Lydia Burton. Anh lưỡng lự trong giây lát và gọi vào số của Damon. Khi Hannah nói cô ấy sẽ đến Luân Đôn, lúc đó là mấy giờ? Khoảng mười một giờ, Damon nói. Có thể cô ấy đã ở lại Luân Đôn một chút, Bal nghĩ, gặp một người bạn hay đi mua sắm gì đó. Không cần phải là người thông minh mới hiểu được, tất cả phụ nữ đều thích mua sắm. Dĩ nhiên cô có thể đã về nhà nhưng hiện lại không có ở nhà vì cô đã ra ngoài với một gã nào đó. Còn điều gì có khả năng hơn thế? Anh nghĩ rằng cô sẽ ở nhà đêm này qua đêm khác, mong mỏi anh sao? Họ có thể đang ăn tối ở đâu đó lúc này, cô sẽ trông thật tuyệt như những lần đi ăn tối cùng anh, và khi người mới của cô đưa cô về nhà, hắn ta sẽ không ngu ngốc đến mức mà bỏ cô ra về chỉ với một nụ hôn ngọt ngào.
Bal vào bếp, ủ rũ lấy cho mình một gói đồ ăn sẵn hiệu Marks & Spencer’s trong tủ lạnh.
Đã có điện ở Pauceley và Thatto đúng lúc Mary đỡ đứa bé của Sylvia ra đời. Sylvia đã hét lên một tiếng thật lớn và rặn nhát cuối cùng thật mạnh, rồi đứa trẻ xuất hiện một cách đầy bất ngờ khi căn phòng ngập tràn ánh sáng rực rỡ.
“Một bé gái đáng yêu nhỏ nhắn”, Mary nói; bế đứa trẻ trên tay khi nó khóc toáng lên mạnh mẽ. “Và không quá nhỏ nhắn. Tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu nó nặng chưa đến bốn cân.”
“Tôi không biết nó nghĩa là gì. Quy ra pound thì là bao nhiêu?”
“Tôi sẽ cân con bé bây giờ đây. Đây, giữ lấy nó.” “Không, không, tôi không thể! Nó không được phép đến gần hơn. Đem nó đi đi. Ôi, lạy Chúa, Chúa ơi, đem nó đi đi.”
Mary chưa nói gì với cô. Và bà ta đã kể lại, một cách nhanh chóng, khi những giọt nước mắt giàn giụa trên khuôn mặt Sylvia và cô với tay lên đỡ lấy con của mình. Mary nhìn họ bên nhau, rồi để họ lại với nhau. Đã có điện, vậy bà ta sẽ có thể pha trà. Khi pha xong, bà ta đặt một cái bánh mình tự nướng lên trên cái đĩa lớn, nhấc khay lên rồi quay trở lên lầu. Sylvia đang vuốt ve đứa bé, hạnh phúc lan tỏa trên khuôn mặt cô, một nụ cười nửa miệng và ánh mắt tràn đầy yêu thương.
“Có thật không”, Mary hỏi, “chuyện giữa cô và Neil ấy?”. “Cho tôi ăn ít bánh, được không? Tôi đang đói quá. Dĩ nhiên là thật rồi. Dù gì thì, anh ta cũng là chồng tôi nhiều năm rồi. Tại sao lại phải kể với cô ta chuyện ngu ngốc đó? Tôi sẽ không bao giờ làm thế. Nó không phải một cô bé xinh xắn sao? Tôi sẽ không từ bỏ nó, bà biết đấy, và điều đó sẽ giết chết tôi mất.”
“Cô định gọi nó là gì?” “Mary. Gì nữa không?”
Tin Mary được sinh ra đến tai Wexford khi Donaldson lái xe đưa anh về Brimhurst. Giọng hưng phấn của vợ anh ngày càng nồng nhiệt đến nỗi anh khó mà ngắt lời cô được, anh tắt điện thoại với một ấn tượng lộn xộn về việc chia tay của Neil và Naomi, sự ra đời đầy hứng khởi của đứa cháu gái nặng chín pound rưỡi cùng “hành động kinh khủng và vô đạo đức” không giải thích nổi của Sylvia.
“Tôi không bao giờ muốn thấy hay nghe thêm về bất kỳ một đứa trẻ nào cho đến khi chết nữa”, anh nói.
“Gì cơ, thưa sếp?” Donaldson nghe có vẻ khá sốc.
“Không gì. Tôi nghĩ mình đang hơi lớn tiếng.”
Ngày mai anh sẽ hạ lệnh bắt giữ và sẽ kể với họ tất cả. Không, kể cho Burden trước, rồi đến Cảnh sát trưởng, và đến những người đã làm việc chăm chỉ từ đầu đến cuối. Cái kết khủng khiếp này…
Mặc dù đã quyết định sẽ đến nhà Hannah, nhưng Bal vẫn cố gọi cho cô vài lần nữa trong buổi tối hôm nay. Anh cố gắng gọi vào điện thoại di động của cô và khi nhận ra nó đã tắt nguồn, anh bắt đầu cảm thấy càng lúc càng lo lắng. Hannah chưa bao giờ tắt điện thoại. Anh nhớ lại tất cả những bữa tối đơn thuần họ đã ăn cùng nhau, tất cả những lần đưa cô về nhà một cách đúng phép tắc. Có vài lần điện thoại di động của cô reo và cô luôn nhấc máy. Một lần anh đã cảm thấy phiền và đề nghị cô, vì Chúa, tắt cái thứ đó đi, giờ không phải lúc dành cho công việc. Nhưng cô không làm thế. Sẽ không. Vậy giờ, tại sao cô không bắt máy?
Mười giờ, anh gọi cho mẹ cô ở Myringham. Hannah đang ở cùng bà đúng không nhỉ?
Bà Goldsmith dường như không thấy câu hỏi này kỳ quặc. Hannah không ở cùng bà ấy. Bà ấy đã không gặp cô kể từ sáng nay khi con gái đến mượn xe của bà.
“Mượn xe của bác? Nhưng cô ấy định đi tàu đến Luân Đôn mà.”
“Nó bảo tôi rằng nó đến Pomfret”, mẹ của Hannah nói.
Có thể cô đã gặp vấn đề gì đó ở Pomfret, đúng không nhỉ? Lần đầu tiên anh đúng. Cô đã ra ngoài với một ai đó. Cô sẽ không cảm ơn anh vì cứ gọi tới nhà cô lúc nửa đêm, đặc biệt nếu gã kia còn đang ở cùng cô, nhưng có quỷ mới biết. Anh phải làm thế, nếu không anh sẽ chẳng ngủ được.
Điện thoại di động của cô nằm trong túi áo lông thú của mẹ cô. Và giờ nó thuộc sở hữu của Arlen. Chúng cũng lấy túi xách của cô. Hannah muốn biết bây giờ là mấy giờ. Đồng hồ của cô trên cổ tay nhưng cho dù cố hết sức có thể, vặn cổ tay đã bị còng cho đến khi có thể cử động sang trái, rồi sang phải, cô vẫn không thể xem được giờ. Thậm chí cô còn không thể thấy được cái đồng hồ vì tay áo len đã che mất nó. Cô nằm xuống giường vì không có gì khác để làm và suy nghĩ về hoàn cảnh khốn khổ của mình. Nhiệm vụ đầu tiên của một tù nhân là trốn thoát. Cô lặp lại điều đó và lẩm bẩm đến lần thứ ba. Thế một tù nhân bị còng tay thì sao?
Chúng sẽ giết cô, đặt cô vào trong xe của mẹ cô, lái nó đến cầu Yorstone và đẩy nó xuống ư? Điều này sẽ cần hơn hai người để thực hiện, nhưng nhỡ đâu Arlen có thể tập hợp được hơn hai người thì sao. Người phụ nữ mặc quần đen chẳng hạn. Damon sẽ kể với mọi người trước khi bất cứ điều gì như vậy có thể xảy ra. Anh ta sẽ kể với Bal hoặc Karen hoặc Wexford. Cánh tay trái của cô sắp tê rồi. Có phải Arlen đã chĩa một khẩu súng vào cô không nhỉ? Nhìn nó chẳng hơn gì một mảnh ống, thậm chí là một ống bìa cứng. Người ta sẽ làm thế nào khi óc phán đoán bị ảnh hưởng bởi nỗi sợ hãi?
Cô vào phòng tắm, cúi xuống bồn và uống một ít nước. Ngay lập tức cô có cảm giác nước này “có vị thật lạ”. Có vị hóa học trong đó, một chất gì đó có chứa sắt, kim loại, đại loại thế. Óc phán đoán của cô tìm đến trợ giúp cho cô, nói với cô rằng chính nỗi sợ hãi đã khiến cô nghĩ theo cách đó. Nước uống thường có vị như thế. Tại sao cô không nhét điện thoại di động của mình vào khe áo ngực hoặc thậm chí vào túi quần? Chúng đã không lục soát người cô. Cô nhận ra rằng chúng không lục soát người cô bởi vì chúng đã thấy chiếc di động qua nếp gấp trên chiếc áo lông thú.
Chúng sẽ giết cô theo kiểu nào đây? Không phải bắn chết. Không nếu chúng muốn cái chết của cô nhìn giống một tai nạn. Đẩy cô rơi khỏi cầu bên trong một chiếc xe hai cầu là quá đủ. Có thể chúng sẽ dựa vào đó… Cô ngồi trên giường và nghe ngóng. Nhưng khu vực bên dưới Tòa thị chính Pomfret lại hoàn toàn im lặng, không một tiếng bước chân, không một cánh cửa đóng. Cô nghĩ, một cách ngớ ngẩn, mình muốn có một đêm với Bal trước khi chết, mặc dù khi chết đi thì điều này không còn quan trọng nữa…
Trước khi mày hoảng sợ, Bal tự nhủ, sao không thử gọi di động cho cô ấy lần nữa. Anh đã thử gọi lúc nửa đêm, khi không thấy nhấc máy, anh liền cởi bỏ quần áo và lên giường. Dĩ nhiên anh không tài nào ngủ được. Giấc mơ mà anh gặp chắc bắt nguồn từ thời điểm anh và Hannah đi thẩm vấn Gwenda Brooks, người phụ nữ đáng thương ấy đã chỉ cho họ thấy nhà và vườn của Norman Arlen trong một cuốn tạp chí. Anh và Burden đã tới đó và anh đã thấy một vật mà giờ anh chắc chắn đó không thể là một khẩu súng. Anh mơ thấy mình nhặt cái thứ không phải khẩu súng đó lên và nó phát ra một tiếng nổ, làm anh tỉnh giấc. Ngay lập tức anh nghĩ đến Hannah và rằng cô có thể đang ở đâu. Không phải ở Luân Đôn mà là ở Tòa thị chính Pomfret. Đó là nơi cô đã đi, anh chắc chắn như vậy. Cô nên bảo anh theo cùng, Bal nghĩ, và có thể đã như vậy nếu không có cuộc tranh cãi vô lý của họ. Mặt khác, chắc chắn cô có nhiệm vụ gì đó khiến cô phải đi một mình, một phụ nữ đi một mình, một phụ nữ mặc áo khoác lông thú…
Anh sẽ không làm phiền người bạn cùng nhà, sẽ không lôi anh ta vào chuyện này. Gã này ngủ say như chết vậy. Bal quay số gọi Burden. Phải mất một lúc lâu Burden mới trả lời và ngay khi bắt máy, Burden liền gầm lên, “Có chuyện gì?”.
Bal nói với anh ta. “Tôi không tin”, Burden nói. “Arlen sẽ không làm thế đâu. Hắn ta không dám.”
“Anh có nhớ hôm chúng ta đến đó không, sếp. Hắn ta có một khẩu súng.”
“Ý cậu là cậu nghĩ mình đã nhìn thấy một khẩu súng.” “Vâng, ý tôi là vậy, nhưng chúng ta có thể liều một lần không?”
“Để tôi yên”, Burden nói với giọng gầm gừ khe khẽ, “nhưng hãy đến đồn cảnh sát và lôi Damon theo”.
“Tôi không muốn bất kỳ người nào có vũ trang”, Wexford nói. “Tôi không tin Arlen có súng. Một người đàn ông sẽ không để một khẩu súng tênh hênh trong phòng khách của mình. Không phải ở đây. Không phải ở đất nước này.”
“Chúng ta sẽ liều một lần xem.”
“Mike, chúng ta ngày nào cũng liều cả. Nên nhớ, Arlen là một kẻ ác nhưng hắn ta không phải một tên Yardie, hắn ta cũng không phải một tay côn đồ tuổi teen. Giờ thì, chúng ta có thể mang theo bao nhiêu người vào giờ này?” Wexford nhìn đồng hồ. “Hai rưỡi sáng đấy.”
“Bốn người thuộc lực lượng vũ trang”, Damon nói. “Ngài, thưa sếp, ngài Burden, tôi, Karen và Bal.”
“Được rồi. Chín người ba xe. Đi thành một đoàn. Bật đèn nhưng không hú còi.”
Có một đèn ngủ nhỏ ở trong phòng nhưng dù thử thế nào, Hannah vẫn không thể bật được nó lên. Cô chỉ có thể xoay xở bật được cái đèn tuýp bằng cách dựa vào tường và nhấn công tắc nằm ngang khuỷu tay mình. Chiếc đèn ngủ hoạt động nhờ phích cắm vào ổ trên bảng ốp chân tường dưới gầm giường. Mặc dù cô có thể thấy nó nhưng không thể với tới nó trừ phi dùng chân. Ngón chân của cô, có thể đã với tới công tắc trên ổ cắm, nhưng lại bị bọc trong tất, và cô không thể tháo ra được.
Cô lựa chọn cách ngồi đây giữa ánh đèn sáng chói hoặc bóng tối mù mịt. Ánh sáng thực sự lóa mắt, khiến cô nghĩ về điều mà những tù nhân ở quốc gia nào đó sẽ phải chịu đựng như một sự tra tấn. Mặt khác, bóng tối dường như đáng sợ hơn, có thể bồi thêm vào sự hoảng sợ cô đang cố gắng hết sức để dẹp qua một bên, và nếu cô buồn ngủ - điều khó mà xảy ra nhưng vẫn có thể - thì khi cô tỉnh dậy, có thể trong giây lát cô sẽ tưởng rằng mình đang ở trên chính chiếc giường của mình ở nhà. Cô để đèn sáng.
Nghĩ về sự tra tấn bằng ánh đèn sáng chói làm cô hồi tưởng lại, khi đọc trên báo hay xem ti vi, một con tin tội nghiệp nào đó đã cầu xin tha mạng như thế nào, cô đã quyết định rằng trong trường hợp bị bắt cóc, cô sẽ không bao giờ bắt bản thân phải làm điều đó. Đừng bận tâm nếu họ chặn họng cô trong khi cô đang đọc một bài diễn văn. Đừng bận tâm nếu họ đánh và đá cô, cô sẽ không hạ thấp bản thân bằng việc cầu xin Chính phủ Anh hay bất cứ ai khác cứu cô. Ngồi dưới bóng đèn một trăm năm mươi oát mà không có chụp đèn ở trên đầu, cô nói to, “Thực sự mình đã nghĩ thế à? Phải chăng mình nghĩ mình sẽ không đầu hàng khi những người can đảm đó không thể làm được? Mình bị điên chăng? Mình sẽ quỳ gối và cầu xin sự tha thứ, mình biết mình sẽ làm vậy. Cho mình chút cơ hội. Mình sẽ đưa họ bất kỳ thứ gì, bất kỳ thứ gì có thể làm hoặc từ bỏ hoặc hứa, để đổi lại mạng sống của mình”.
Cô bắt đầu đi đi lại lại trong căn phòng. Cô đã ở đây bao lâu rồi? Năm tiếng? Mười? Hai mươi? Không có cách nào biết được trong cái nơi kín bưng này. Damon có thể biết cô ở đây, gã đó biết, Barry cũng có thể, nhưng liệu có ai trong số họ làm bất cứ điều gì không? Cô đã tới gặp Norman Arlen, ở đây hay ở Luân Đôn, làm việc mình phải làm và về nhà viết báo cáo. Đó là những gì họ sẽ nghĩ. Họ sẽ không làm gì cả. Bal thậm chí sẽ không nghĩ xem cô có thể đang ở đâu. Anh ấy có thể sẽ không bao giờ nghĩ tới cô nữa. Cô không hy vọng có ai đó sẽ gọi điện hoặc đến gặp cô, còn mẹ cô thì nói rằng cô hãy giữ xe của bà cho đến sáng ngày mai. Hannah bất chợt nghĩ, khủng khiếp làm sao, người mẹ tội nghiệp của mình rất tự hào về chiếc xe đó và chúng sẽ đẩy nó rơi khỏi cầu…
Bà hẳn sẽ phát điên khi nghĩ đến chuyện đó. Liệu cô có thực sự tin rằng mẹ cô sẽ buồn thảm về chiếc xe nát vụn khi con gái bà chết hay không? Cô lại ngồi xuống. Hàng tiếng đồng hồ đã trôi qua kể từ bữa ăn trước nhưng giờ cô không thấy đói bụng. Cô đã uống nước từ bồn tắm thêm một hai lần nữa. Cô lại đứng dậy và đi về phía cánh cửa để nghe ngóng. Dường như hoàn toàn không còn một tiếng động nào nữa. Cô có thể nghe thấy tiếng vang vọng từ xa giảm dần, có thể là tiếng bước chân. Hai hay ba bước? Bị mất tinh thần, cô thấy mình đang run rẩy.
Có lẽ sẽ không có ai đến cứu cô hoặc là đến khi đã quá muộn. Nhưng cô phải làm gì đó để báo cho họ biết rằng mình đã ở đây. Hai bàn tay run rẩy của cô vẫn đang bị khóa lại, cô nâng chúng lên quá đầu và buộc chúng hạ xuống sau gáy. Tập trung hành động làm cô thấy đỡ run. Cô gập ngón tay qua móc gài trên sợi dây chuyền vàng đang đeo, tháo nó ra và, nâng tay qua đầu, đặt trở lại trên đùi, nắm sợi dây thật chặt.
Chúng giờ đang ở ngoài cửa. Cô nghe tiếng chìa khóa xoay trong ổ. Sợi dây chuyền được nắm trong lòng bàn tay khiến cô cảm thấy thoải mái một cách kỳ lạ.
Bal đã không có cơ hội để nói với sếp về những thứ khác mà anh nhớ được. Dĩ nhiên anh biết rõ tại sao Wexford lại ngăn không cho anh vào đội đi giải cứu Hannah. Đó là bởi vì Wexford nghĩ Bal đang có quan hệ tình cảm với Hannah. Hoặc một “mối quan hệ”, như cô đã gọi thế. Anh nghĩ về sự dịu dàng của cô khi nhớ tới cô, nhẹ nhàng với một chút thú vị. “Mối quan hệ” là thuật ngữ giết chết đam mê nhất mà anh có thể tưởng tượng ra, đảm bảo làm người ta nghĩ về một cặp vợ chồng nghiêm chỉnh mặc áo khoác có mũ trùm đầu và giày đi bộ cắm trại ở Snowdonia.
Anh có thể thực sự nghĩ rằng những gì mình nhớ đã nghe được trong căn phòng màu vàng - satin kỳ cục đó có ý nghĩa nào chẳng? Tuy nhiên, tại sao Arlen lại nói về một con đường và một cây cầu, trừ khi hắn ta đã tìm được góc nguy hiểm nào đó có tiềm năng hữu ích cho mình? Hữu ích trong một ngày. Người ta không bao giờ biết được khi nào cần đến nó. Mặt khác, hắn ta có thể là một kẻ xấu - đúng là kẻ xấu - nhưng hắn ta cũng là một công dân. Hắn ta hẳn cũng phải quan tâm đến sự an toàn và môi trường như bất kỳ ai khác.
Bal không về nhà. Anh lái xe xuống phố High Street một đoạn và nhìn ba chiếc ô tô rời đi. Trời rất lạnh mà anh thì không muốn sưởi ấm xe bằng máy điều hòa trong khi đang đỗ. Dĩ nhiên, nếu anh khởi hành đến Yorstone, anh có thể sẽ bật máy sưởi. Đi đến đó cũng chẳng có hại gì. Nếu về nhà, anh cũng sẽ không ngủ được, sẽ nằm đó mà lăn tăn liệu có nên khăng khăng nói chuyện với Wexford, la hét trong suốt cuộc nói chuyện, theo Wexford ra xe thay vì làm cái mà anh được bảo là rời đi. Anh khởi động máy và bật lò sưởi. Như thường lệ, khí lạnh sẽ tràn ra ngoài trước khi nó ấm lên, một luồng khí như gió mạnh cấp tám. Bal không biết chính xác Yorstone ở đâu - nơi nào đó ở phía tây của rừng Cheriton và trên đường tới Sewingbury? Đất nước này chỉ đường quá kém so với các nơi khác. Những biển báo sẽ liên tục chỉ Sewingbury, Stowerton và Yorstone khi đã đi được khoảng một trăm mét. Ngay cả lúc đó, nó cũng không chỉ tới đường Yorstone. Anh biết rằng hẳn là thế bởi vì bên trái anh lờ mờ hiện ra bóng tối của rừng Yorstone. Anh quay xuống làn đường hẹp không có ánh sáng. Đèn pha được bật hết cỡ tạo nên màn sương xanh phía trước và trong lớp sương mù các thân cây ẩn hiện phía sau, tối tăm và giống hệt những nhân vật trong phim viễn tưởng.
Con đường quẹo trái đột ngột, gần như tạo thành một góc vuông. Nhưng dựa trên những mũi tên chỉ đường đen trắng bên tay phải, anh có thể đi thẳng, dò dẫm giữa những hình thù tối đen và cao lớn. Anh bắt đầu nhận ra sự liều lĩnh của mình thật ngu ngốc, chẳng dựa vào cái gì ngoại trừ một linh cảm không chắc chắn. Khi anh dừng lại và đỗ xe bên dưới những cái cây, lần đầu tiên anh thực sự cảm thấy khiếp sợ cho Hannah, một nỗi kinh hãi có thật về những gì khủng khiếp đã xảy đến với cô.
Khi họ đến Tòa thị chính Pomfret thì khắp các cửa sổ đã sáng đèn. Wexford ra khỏi xe, đi về phía cửa trước và kéo chuông, Burden và Karen theo sau, số còn lại đi cách sau vài mét, không ai tiến về phía cánh cửa. Wexford kéo chuông một lần nữa, nện nắm đấm lên tấm gỗ ốp. Anh bảo Barry và Damon đi vòng ra đằng sau. Tòa nhà lớn đến nỗi “vòng qua đằng sau” cũng mất đến vài trăm mét đi bộ. Đằng sau nhà, như Wexford nói, giống một “khu vườn phía trước” hơn, với dãy cầu thang đôi nối liền tới sân thượng và một cửa đôi khác. Thảm cỏ, những luống hoa, bụi cây và những đồng cỏ xa xa trải ra lấp lánh dưới màn sương giá từ ánh sáng chiếu rọi ra nơi các cửa sổ.
Rung chuông và gõ cửa cũng chẳng thấy gì. Chẳng có âm thanh nào ngoại trừ âm thanh do chính họ tạo ra.
“Chúng ta phải vào trong”, Wexford nói. “Phá cửa đi.” Họ không thể làm thế. Cả Burden, Barry Vine và Damon Coleman dù có hợp sức lại cũng không thể xê dịch được những cánh cửa gỗ sồi nặng nề. Damon đi xuống khu vực đằng sau những cầu thang, nơi đặt hai sọt đá lớn cùng một cái thang, và thấy một cánh cửa nhỏ trong tường. Nó đã chịu thua ở lần thứ hai anh xông vào nó, rung chuyển tấm gỗ và tách khóa ra. Tất cả đi vào, băng qua những căn phòng chất đầy chậu hoa, chổi và dụng cụ làm vườn, sau đó là một khu giặt giũ, vào những gian bếp vừa được tân trang lại với các thiết bị hiện đại nhất.
“Chỉ một gã mà sống ở đây một mình á?” Damon chưa bao giờ nhìn thấy điều gì tương tự.
Ánh sáng dường như có ở khắp mọi phòng. “Tại sao lại thế nhỉ?” Barry hỏi nhưng không ai biết câu trả lời.
“Có thể hắn sợ bóng tối”, Burden nói “Nghĩ lại thì, lúc Bal và tôi đến đây chỉ mới đầu giờ chiều nhưng hắn cũng đã bật hết đèn lên.”
Chính vì nơi này được chiếu sáng rực rỡ, không khí ấm áp như ngày hè có nắng vậy. Wexford thoáng nghĩ đến một ngày như vậy vào tháng Tám khi xác của Amber được tìm thấy.
Họ trèo lên cầu thang dẫn tới phòng triển lãm và cánh cửa đầu tiên, khi họ đến chỗ cánh cửa đôi, Damon bất giờ nói, “Xe của Hannah đâu?”.
“Cô ấy không đi xe đến đây”, Burden nói. “Xe cô ấy đậu bên ngoài đồn cảnh sát. Nhưng khoan đã, thế thì cô ấy đến đây bằng gì?”
“Taxi?” Wexford mở cửa. Một phòng ngủ lớn với cái giường bốn chân hiện ra, toàn bộ nơi này gọn gàng như thể chưa từng có ai ngủ ở đây. “Cô ấy hẳn phải đi taxi. Về đồn cảnh sát đi, Damon, và bảo ai đó gọi điện đến mấy hãng taxi xem.”
Nếu thật sự Hannah đã đến đây, anh nghĩ. Tất cả những gì chúng ta biết là cô ấy định đi gặp Arlen. Cô ấy sẽ phải gặp hắn ta ở chỗ nào đó trung lập. Những người khác dường như cũng có cùng suy nghĩ và phát biểu ý kiến của mình khi họ đi ngang qua phòng ngủ.
Karen và Barry gần như đồng thanh nói, “Chúng ta không biết cô ấy đã đến đây”.
“Đúng vậy, nhưng chúng ta phải lục soát”, Wexford nói. Họ đi lên lầu ba, có nhiều phòng trống và nhiều đèn hơn. Rồi họ lại đi xuống, ngang qua phòng triển lãm, đi xuống cầu thang uốn lượn rộng lớn dẫn vào sảnh, phòng ăn, căn phòng sơn vàng mà Bal có thể đã nhìn thấy khẩu súng. Quay trở lại sảnh lần nữa, đi đi lại lại trong một căn nhà trống trơn, im ắng cho người ta cái cảm giác như thể không có ai sống ở đây nhiều năm rồi, như thể nó chỉ là một nơi trưng bày, mở cửa cho hướng dẫn viên và du khách tham quan vào những ngày cố định trong tuần.
“Giờ sao, thưa sếp?”, Barry nói.
Wexford không trả lời. Anh cúi xuống và nhặt từ trên sàn nhà một sợi dây mảnh bằng vàng, trông giống một sợi tóc. “Cô ấy đã tới đây”, anh nói. “Tôi đã từng thấy cô ấy đeo thứ này.”
“Tôi cũng thế”, Karen nói. “Đó là quà tặng từ Bal.”
Wexford xem xét. “Thật là sai lầm khi để Bal ở nhà. Anh ta có thể biết rõ hơn chúng ta. Tôi sẽ gọi anh ta.”
Từ đằng xa, anh nghe thấy âm thanh của động cơ hai cầu. Ánh sáng của nó rọi ra từ giữa những thân cây và khi nó xuất hiện, chậm rãi và thận trọng tiến xuống đường Yorstone. Tim anh nhảy dựng lên nhưng giờ anh nghĩ, đó chỉ là một chiếc xe. Ai đó đang trở về nhà từ một bữa tiệc hay có khi chỉ là một cuốc lái xe đường dài. Nhưng không, đó là một chiếc xe màu bạc - mẹ Hannah có một chiếc y hệt như thế. Nhưng cũng có hàng trăm chiếc khác giống vậy. Có thể đó chỉ là một loại xe phổ biến trong vùng. Họ sẽ đi qua cầu và tiến vào con đường phía bên kia, anh nghĩ. Nhưng cách tầm mười một mét ở bên này cầu, chiếc xe dừng lại và một người đàn ông bước ra. Đó là Rick Samphire.
Hắn đội mũ trùm như mọi khi. Hắn di chuyển lên cầu và nhìn xuống con đường bên dưới, mọi chuyển động đều rõ mồn một trong ánh đèn pha của chiếc ô tô hai cầu. Nếu chỉ có hắn, Bal nghĩ, thì mình có thể tự giải quyết, không thành vấn đề. Anh đang tự hỏi Arlen đâu thì hắn ta bước ra khỏi ghế lái. Còn có ai khác nữa không? Giật mình, điện thoại của anh bất thình lình reo lên.
Chỉ có thể là Wexford hoặc Burden. “Nếu anh nhấc máy, họ sẽ kể với anh… họ sẽ kể với anh gì đây? Một điều gì đó không chấp nhận được, anh chắc vậy. Anh để mặc nó kêu, cảm thấy chán ghét âm thanh của nó. Sau đó anh nhìn thấy khuôn mặt của Hannah xuất hiện trên cửa sổ bên ghế hành khách. Anh nhấc máy.
Giọng Wexford vang lên, “Anh đang ở chỗ quái nào thế?”. “Ở cầu Yorstone”, Bal trả lời, “thưa sếp. Chúng đã mang Hannah đến đây”.
Rồi anh tắt điện thoại, biết rằng chuyện này có thể khiến anh bị mất việc.
Chúng đang định làm gì thế nhỉ? Một cơn rùng mình ớn lạnh như bị dội nước đá vào người chạy dọc sống lưng anh. Cô sẽ không ở đó nếu không phải chúng đang ép cô làm cái gì đấy. Và, cùng lúc ý nghĩ ấy bật ra, cô cũng không còn ngồi đó nữa. Cánh cửa mở ra và cô bước xuống từ khoang ghế hành khách, như thể cô tự nguyện. Sau đó anh thấy kẻ nào đấy đứng sau cô và anh đã nhận ra gã, kinh ngạc vì gã chính là Lawson, người đã chứng minh ngoại phạm cho Rick vào ngày Mười một tháng Tám. Lão ta đang cầm cái gì đó gí vào thắt lưng cô - khẩu súng mà anh đã nhìn thấy hôm ở trong phòng khách màu vàng chăng?
Rick đã băng qua bên kia cây cầu và Norman Arlen theo sau hắn. Chúng đang nhìn xuống qua lan can thấp và khi chúng làm như vậy, một chiếc xe đi ngang bên dưới chúng. Y hệt như khi chiếc xe của Amber Marshalson băng qua lúc Rick thả tảng bê tông xuống. Hannah vẫn đang đứng đó, có vẻ gần như dựa hoàn toàn vào thân thể mập lùn vạm vỡ của Lawson.
Chúng kéo cô vào lại trong xe, anh nghĩ, và - ném cô qua cầu chăng? Nhưng chúng không làm thế. Rick vẫn đứng bên kia cầu và Arlen thì đang quay lại. Bất kể thứ gì đang được dùng để bắt Hannah đứng im và nghiêng về phía sau, Arlen cũng đã lấy nó đi. Lawson quay trở lại trong xe, ngồi vào ghế lái, lùi xe lại với tiếng động cơ gầm rú và lái thẳng về trước, xuống dốc tới cây cầu.
Nhìn thấy chiếc còng khiến Bal nhảy dựng lên. Anh thấy Arlen, rõ ràng cầm một khẩu súng trong tay, cùng một tên nữa mở khóa còng tay và rồi Hannah đưa tay lên che mặt mình. Bal nhảy ra khỏi xe, không kịp suy nghĩ, cũng chẳng hề sợ hãi hay thận trọng. Sau đó anh nghĩ, cảm giác khi đánh nhau như thế nào nhỉ, cảm giác khi họ từng “vượt bờ công sự”, khi adrenalin dâng lên và khiến tâm trí sợ hãi của họ chìm vào giấc ngủ.
Anh lao vào Arlen như một con thú lao vào con mồi của nó. Đòn tấn công của anh dữ dội đến nỗi hắn gần như không để ý vụ va chạm khi chiếc ô tô hai cầu lao qua lan can, Lawson nhảy ra cầu vào phút cuối cùng. Arlen khuỵu gối, lảo đảo, sau đó ngã về phía trước. Vào khoảnh khắc Bal nhận ra khẩu súng đó là gì, một món đồ chơi trẻ em bằng nhựa đồng thau nhẹ. Rick giờ đang chạy lại nhưng Hannah, sau khi hai tay được thả tự do, đã xoay một vòng và triển khai một cú đá cao, kẹp hắn giữa hai chân khiến Rick phải gập đôi người lại. Lawson ngay lập tức chạy về phía cô, hai tay vươn ra định bóp cổ cô. Lúc này đến lượt Bal tung cú đá, khiến lão ngã sõng soài và nhìn thấy vẻ mặt lão đau đớn trong ánh đèn pha của những chiếc xe cảnh sát rọi xuống mặt đường.
Rick xoay người chạy về hướng khác khi bị Hannah truy đuổi. Chạy được nửa cầu, hắn quay lại để đối mặt với cô nhưng cơn đau từ cú đá của Hannah dường như đã khiến hắn khựng lại. Hắn gập đôi người, tay nắm chặt bắp đùi khi Hannah tiến về phía hắn lần nữa. Như thể hắn khiếp sợ một cuộc tấn công dữ dội khác, đầu tiên hắn nao núng và khi tay cô vươn ra tóm lấy hắn, hắn đi giật lùi giống như ai đó bị co thắt cơ vì trúng độc ankaloid. Hắn ngã nhào qua lan can về phía sau, rên rỉ gì đó, kêu ca gì đó và cố gắng gượng dậy. Nhưng chân hắn trượt trên mặt băng ẩm ướt, tay hắn vung lên và quơ quơ trong không khí, rồi khi thét lên một tiếng, hắn đã rơi xuống con đường bên dưới.