Cái con quái vật này rất thú vị, rất phiêu với cảm giác bay bổng trên xa lộ và hàng rào, đã tầm mắt đến nỗi Hannah ước gì mình không phải chỉ đi hơn mười một cây số. Thậm chí những bông tuyết rơi nhẹ nhàng và những bãi cỏ phủ đầy tuyết còn bồi đắp thêm vào niềm vui sướng, mang lại cho cô ảo ảnh như mình đang được rèn giũa giữa những vùng hoang vu của Nam Cực, giống như những nhà thám hiểm người Scott hay Amundsen (nhưng được trang bị tốt hơn) hiện nay. Cô phải nhắc nhở bản thân một cách nghiêm túc rằng những phương tiện như thế này đã bị xếp vào loại không thân thiện với môi trường. Để tham gia vào cuộc chiến chống lại thay đổi khí hậu và ấm lên toàn cầu, mỗi người cần sắm cho mình một chiếc ô tô điện.
Ngã rẽ ra khỏi Pomfret trên phố High Street đủ rộng cho hai xe tránh nhau không một chút khó khăn, mặt đường đã được giải tỏa và rải đá mạt, nhưng trong gần hai cây số kế tiếp cô phải tiến vào một con đường hẹp và sâu, với lớp tuyết còn nguyên. Con quái vật xử lý vấn đề một cách dễ dàng.
Cô đi thật chậm, gió trên cao tiếp tục thổi cho thấy một cảnh tượng mà các nhà dự báo thời tiết gọi là “giáng thủy1” từ con đường lên trên những cánh đồng. Vài nhân viên của Normal Arlen đã dọn dẹp con đường dài lái xe vào nhà của anh ta và cô lái thẳng đến cửa trước mà không vướng víu gì ngoài những bông tuyết mỏng manh rơi rải rác rồi tan chảy dưới ánh nắng yếu ớt.
1 Tên gọi chung các hiện tượng nước thoát ra khỏi những đám mây dưới các dạng lỏng (mưa) và dạng rắn (mưa tuyết, mưa đá, tuyết), nhằm phân biệt với các hiện tượng nước tách ra từ không khí (sương, sương móc, sương băng).
Nơi này đã khiến Burden thấy ấn tượng. Nó cũng dọa Hannah một chút. Ngoại trừ được thấy qua tranh ảnh hay ngắm nhìn từ xa, Hannah chưa bao giờ được chứng kiến những con sông rộng hay những ngọn đồi xanh bạt ngàn thế kia.
Hannah ra khỏi “con quái vật”, đặt chân lên những bậc thang bên tay trái và, sau khi trầm ngâm một hai phút để cân nhắc mục đích mình đến đây, cô kéo cái chuông cửa hình thanh kẹo đường.
Một người phụ nữ vận áo choàng và quần màu đen ra mời cô vào. Bà ta không nói gì khi Hannah cho biết tên mình là “bà Smithson” ngoại trừ gật đầu và dẫn cô đi qua một sảnh lớn, dọc theo một hành lang rộng hơn những căn phòng cỡ trung. Burden đã nói gì đó về cuộc gặp gỡ với Arlen ở nơi mà anh mỉa mai là “phòng khách màu vàng”. Do đó Hannah biết, khi cuối cùng họ cũng đến nơi - một căn phòng chất đầy sách, lộng lẫy với những đồ gỗ tối màu và bàn ghế da - là Arlen đã chọn một địa điểm khác cho cuộc hẹn với cô. “Thư viện”, có lẽ anh ta gọi nó như thế. Gwenda Brooks đã đến đây chưa nhỉ? Cả Sharon Lucas nữa?
Cô ngồi xuống và chờ đợi. Năm phút sau, Normal Arlen xuất hiện, nhìn rất khác so với lần gặp ở Luân Đôn, mặc một chiếc áo khoác vải tuýt bên ngoài áo len cashmere và quần dài. Anh ta bắt tay cô rồi ngồi xuống đằng sau một cái bàn gỗ gụ lớn. “Thực tế là”, anh ta nói, “tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu bà không đến, bà Smithson ạ. Bà lái xe đến đây trong thời tiết thế này ư?”.
“Xe của tôi là loại hai cầu”, cô nói.
“Chà, xin chúc mừng bà vì đã vượt qua các tuyến đường nguy hiểm này.”
Cô nói với anh ta rằng cô đã nghiên cứu kỹ không bỏ sót chữ nào trong tờ gấp quảng cáo và bản cáo bạch, và vâng, cô không lăn tăn gì nữa mà muốn thực hiện kế hoạch này. Không dám đem theo thiết bị ghi âm, cô biết mình phải khiến anh ta mở miệng và tuyên bố một cách chắc chắn về những gì cô sẽ nhận được ở cuối chương trình. Bằng cách nào đó, cô phải khiến anh ta nói rằng cô sẽ quay trở về từ châu Phi với một đứa bé và hộ chiếu cho nó. Thay vào đấy, đến giờ, anh ta vẫn chỉ nói về việc cô nên bắt đầu chế độ ăn kiêng càng sớm càng tốt, tham khảo ý kiến với các cố vấn y tế của Du lịch Kỳ diệu và những phương pháp không phải ăn kiêng đa dạng khác mà cô cần tiếp nhận.
“Tôi muốn có một đứa con”, cô nói kiên quyết, đưa tất cả sự chân thành và khao khát có thể gom được vào giọng điệu của mình. “Tôi sẽ làm mọi thứ vì điều này. Sẽ không thành vấn đề nếu tôi phải tiến hành ăn kiêng hay bất kỳ điều trị nào, miễn là tôi có một đứa con vào cuối chương trình.”
“Phải có một mức độ tin tưởng thế nào đó giữa chúng ta, bà Smithson ạ”, anh ta nói. Anh ta nhìn cô chằm chằm và cô phải ngăn mình không bị bối rối dưới sự quan sát kỹ lưỡng này. Cô phải thú nhận với bản thân rằng anh ta là một người đáng gờm. “Nếu bà không thể chấp nhận những gì được nói đến trong tờ gấp quảng cáo là đúng hoặc sẽ đúng thì chúng tôi không thể tiến hành vụ làm ăn này được. Bà đã gặp bà Brooks. Ông Quickwood đã nói với bà về những gì được đảm bảo và những gì đáng mong đợi.” Anh ta chưa nói. Liệu cô có nên nhờ cậy anh ta trước? “Sự thật là, bà Smithson ạ, một khi bà đã trả tiền đặt cọc và bắt tay vào các kế hoạch khác nhau thì những lời hứa trong tờ gấp quảng cáo sẽ được thực hiện.”
Cô bắt đầu đảm bảo với anh ta rằng mình tin anh ta, cô thực sự tin, chỉ có điều là dường như chuyện này quá mức lý tưởng, rồi cánh cửa đằng sau cô mở ra và có ai đó bước vào phòng. Arlen nhìn lên và gật đầu. Có vẻ như anh ta đang mong đợi người này. Người mới đến đi về phía bàn làm việc, vòng qua nó tới bên Arlen và thì thầm điều gì đó với anh ta, rồi ngước lên nhìn cô. Cô đã ngăn mình thở hổn hển một cách đầy khó khăn.
Đó là Stephen Lawson, người đã cung cấp bằng chứng ngoại phạm cho Rick Samphire.
Những cơn gió mạnh, mà dường như không hơn một cơn gió lộng ở Kingsmarkham, thổi hơn một trăm mười kilomet một giờ trong các ngôi làng xa xôi. Nó thổi bay tuyết khỏi những cánh đồng, len lỏi vào những khúc cua sâu trong những con đường hẹp; nó đánh đổ một cây sồi cao mười lăm mét chắn ngang đường giữa Myland và Thatto, chặn tất cả các lối ra vào Hurst Thatto lẫn một số ít nhà cửa ở đó.
Vào lúc hai giờ chiều, Sylvia cảm thấy cơn đau đẻ đầu tiên. “Cảm ơn Chúa vì điều này”, cô nói. Cơn đau thứ hai kéo dài đến nỗi cô băn khoăn không biết mình có nhầm không. Nhưng không. Cô sẽ không gọi cho Mary. Không cần bắt bà ta ra ngoài trong thời tiết như thế này trước khi bà ta buộc phải làm thế. Hơn nữa, trận tuyết trái mùa kỳ lạ này, mà mọi người đều cho rằng sẽ không kéo dài, có thể sẽ ngừng lại. Nghiên cứu nó cực kỹ từ cửa sổ phòng ăn, cô nghĩ mình có thể nhận ra nó đang ngớt dần. Những bông tuyết đã nhỏ hơn. Sau đó cô thấy rằng một chiếc xe có thể đi xuyên qua nhưng rất khó khăn.
Có lẽ cô nên gọi cho Mary ngay bây giờ. Để nửa tiếng nữa xem sao. Người bạn đang đưa lũ trẻ từ trường về nhà sẽ giữ chúng lại với cô ấy nếu cô ấy không dám vượt qua màn tuyết này. Cô phải gọi thêm một cuộc điện thoại nữa cho người phụ nữ đó. Cô sắp sinh rồi. Chà, chỉ vài giờ nữa thôi, có thể là bảy hoặc tám giờ. Một sự liều lĩnh tuyệt vời - luôn là thế.
Mình sẽ phải đến bệnh viện Princess Diana để sinh, cô nghĩ, và sẽ không có ai ở đó biết cả Neil lẫn Naomi hoặc chuyện mình sẽ không được giữ đứa bé này. Họ sẽ chúc mừng mình. Họ sẽ nói, “Xin chúc mừng, bà Fairfax. Bà có một cậu nhóc hoặc một cô nhóc vô cùng đáng yêu”. Và mình thậm chí còn không dám bồng nó.
Nhưng họ sẽ dọn sạch các con đường. Họ đã làm rất tốt việc xúc tuyết trong năm nay. Mình nên gọi cho mẹ để thông báo mình sẽ đến bệnh viện trong một tiếng nữa hoặc hơn. Cô ì ạch đi vào phòng khách và nhấc điện thoại lên. Nó tắt ngấm như điện thoại đồ chơi, tắt ngấm như bị tháo phích cắm ra vậy. Cô có thể đi bộ đến chỗ Mary không? Quãng đường cũng chỉ khoảng gần hai trăm mét thôi mà. Trong trận tuyết thế này? Tuyết rơi không nhiều bằng tuyết đọng lại. Cô có thể tưởng tượng ra mình bị trượt chân ngã và không thể đứng dậy được nữa. Như thể muốn dạy cô một bài học, một cơn đau kéo đến khiến cô càng lúc càng không thể cử động được. Cô dựa vào thành bàn, bám chặt vào nó và hít thở chậm rãi. Cơn đau giữ lấy cô, dồn ép xuống, lấy hết sức lực của cô rồi buông tha cô. Thật tốt khi cơn đau ngừng lại, cô nghĩ, ngừng lại gần như rất tốt rồi. Trời bắt đầu tối dần. Cô cố gắng bật đèn nhưng nhà mất điện. Cô đứng trong bóng tối nhá nhem, cảm thấy dòng chất lỏng đang chảy xuống chân mình. Dịch ối của cô đã vỡ.
Một chiếc chìa xoay trong ổ. Cô hít một hơi thật sâu, rồi ra ngoài sảnh gặp Mary.
“Tôi bắt đầu rồi.”
“Được rồi tôi hiểu. OK, cô gái, dọn dẹp nơi này một chút và tôi sẽ xem cho cô trong một phút nữa. Không còn đường nào để tôi có thể đưa cô đến Princess Diana. Một cái cây bị đổ và con đường bị chặn rồi.”
Đôi mắt xám của Sylvia mở to. “Chúng ta phải làm gì đây?” Còn ai tuyệt vọng hơn một người phụ nữ đang đau đẻ? “Chúng ta phải làm gì, Mary? Nhà không có điện và điện thoại cũng không hoạt động.”
“Đúng, nhưng điện thoại di động của cô thì có thể, tình yêu ạ. Cô không nghĩ đến nó, đúng không? Vì vậy có hai việc chúng ta có thể làm. Tôi có thể gọi cấp cứu và xem họ có thể đưa một chiếc trực thăng đến đây hay không. Hoặc cô có thể có một ca đỡ đẻ ở nhà thật ngon lành, yên tĩnh với sự có mặt của một nữ hộ sinh lành nghề.”
“Ít nhất lúc này chúng ta cũng không bị mất điện”, Dora nói. “Em chỉ hy vọng trời sẽ không lạnh cóng và sau đó em có thể ghé qua Thatto. Sylvia đã bắt đầu đau đẻ. Con bé gọi cho em bằng điện thoại di động của nó. Cái điện thoại dù-anh- gọi-là-gì của nó không hoạt động.”
“Điện thoại bàn.” Wexford thở dài. “Anh không thể dành nhiều sự quan tâm cho đứa trẻ này, anh lo là vậy. Anh nghĩ mình đã rèn luyện bản thân không như thế.” Anh nhìn ra ngoài cửa sổ. “Em có thể đưa nó đến Princess Diana nếu em muốn. Anh phải ra ngoài lần nữa đây. Họ đang dọn dẹp các con đường rồi.”
“Con bé không thể đến Princess Diana. Một cái cây bị đã chắn ngang con đường. Mary Beaumont đang ở đó với nó.”
“Có thể sẽ tốt hơn nếu em không đến đấy”, anh nói. “Em không muốn chứng kiến việc cháu mình bị trao cho Naomi Wyndham đâu.”
“Và anh cũng không quan tâm, em nghĩ vậy.”
Wexford trở nên cao lớn hơn đến nỗi áp đảo cả cô. Đứng trước mặt Dora, nắm lấy bả vai cô, khiến cô trong khoảnh khắc trở thành tù nhân của mình, anh nói, “Dora, điều tồi tệ nhất đang đến. Nếu chúng ta chống lại nhau thì ai sẽ đứng về phía chúng ta? Chúng ta phải đoàn kết, thật lòng với nhau, chứ không phải xa lánh nhau. Giờ anh chuẩn bị đi đây. Hôn anh một cái nào”.
Cô hôn anh. Khi anh rời cô ra, anh thấy cô đang khóc.
Donaldson lái xe đưa Wexford tới Brimhurst Prideaux. Trận tuyết đã ngừng từ hai tiếng trước, nhiệt độ dần tăng lên và lớp tuyết dày mười phân đang bắt đầu tan chảy. Nước chảy vào trong các đường ống cống và một cơn mưa bụi bắt đầu rơi. Nhưng giờ không còn con đường nào bị chặn hay làn đường nào không thể đi qua nữa. Trận bão tuyết kỳ dị của tháng Mười một đã kết thúc đột ngột như vậy.
Mặc dù Wexford không mấy quan tâm đến những vụ bê bối tình ái của Ross Samphire nhưng anh vẫn định gọi cho Lydia Burton để lấy được bất kỳ thông tin nào cô ta có thể đã chuẩn bị kể cho anh về anh em nhà Samphire. Giống như tình trạng chuyến viếng thăm lần trước của anh cùng Sĩ quan Bhattacharya, không có ai ở nhà cả. Donaldson lái xe chậm rãi xuống đường Mill, xuyên qua những lằn tuyết tan được một nửa và các vũng nước. Hoàng hôn buông sớm và anh nhìn thấy căn nhà số ba dãy Jewel đã hoàn toàn chìm trong bóng tối. Có lẽ cô ta lại đi hẹn hò bí mật tại căn hộ của Colin Fry rồi. Anh vẫn phải quyết định, anh nhắc nhở bản thân, hành động như thế nào để xử lý chuyện này. Đưa hắn ra tòa vì mở nhà chứa hay chỉ đơn giản nói với hắn rằng những hành vi của hắn cần phải chấm dứt ngay? Đột ngột anh nhớ lại một điều gì đấy. Vào cái đêm Amber bị giết, Lydia Burton đã ra ngoài với một người đàn ông, ăn tối với anh ta ở đâu đó. Anh ta đã đưa cô ta về nhà bằng xe của mình lúc nửa đêm. Là Ross hay một ai khác? Giờ có vài thứ anh phải tìm ra, vì Ross đã tuyên bố mình đi chơi với Norman Arlen vào tối hôm đó…
Những ngọn nến được thắp trong sảnh và phòng khách. Ngọn đèn dầu đơn mà Sylvia và Mary có thể tìm thấy được để ở trong phòng ngủ của Sylvia. Mary đốt hai lò sưởi than nữa nhưng không có gì để đun.
“Bà sẽ làm gì để đun nước sôi đây?”
Điều này làm Mary bật cười. “Đun nước sôi chỉ có trong sách vở thôi, tình yêu ạ.”
Người bạn đón hai đứa trẻ của Sylvia từ trường về đã gọi điện lại cho cô và nói rằng cô ấy sẽ đem chúng về nếu có thể hoặc sẽ giữ chúng lại qua đêm. Khi chuông cửa vang lên, Mary đã nghĩ đến một người. Nhưng không phải. Đó là Naomi.
“Cô đến nhanh thật. Nhưng đứa trẻ vẫn chưa ra đời.” Naomi nhìn rất thê thảm. Với Mary, người chưa bao giờ thấy cô ta trong tình trạng ít chải chuốt hơn, ít nước hoa và son phấn hơn hiện tại, cô ta trông xuống sắc, giống như một sinh vật quẫn trí rối bời, tóc thả tung, nước mắt ròng ròng trên mặt, giầy và quần sũng nước. Mary bảo cô ta vào, theo sau và giải thích tại sao Sylvia lại không thể đến nhà hộ sinh.
“Tôi không muốn thấy cô ta nữa”, Naomi nói. “Tôi không bao giờ muốn thấy cô ta nữa.”
“Vậy tại sao cô lại đến?”
“Tôi đã quyết định đến. Tôi thấy cái cây đổ, tôi phải bỏ xe lại bên kia đường và đi bộ. Đó là lý do tại sao tôi ướt nhẹp như thế này. Tôi phải đến. Giờ bà đã ở đây và tôi không phải nhìn thấy cô ta nữa. Để tôi kể cho mà nghe.”
“Naomi”, Mary nói, “cô nên cởi giầy và tất ra. Sylvia có thể cho cô mượn giày. Cô ấy đi cùng cỡ với cô”.
Naomi hất giầy ra và cởi tất. Đôi bàn chân dài nhỏ của cô ta trắng bệch vì lạnh và ướt đến nỗi khi cô ta nhấc chân bước đi thì nước nhỏ ra từ các ngón. Biểu hiện trong ánh mắt của cô ta đối với Mary là ánh mắt của người đã nhìn thấy một cảnh tượng khủng khiếp, ảo ảnh quá kinh khủng và tàn tạ đến nỗi không bao giờ quên được. Nhưng trước khi Mary hỏi chuyện, giọng Sylvia từ trên lầu vọng xuống, “Mary, Mary…”.
“Tôi sẽ quay lại ngay. Ngồi bên lò sưởi và sưởi ấm đi. Tôi sẽ rót cho cô một cốc nước nóng khi tôi quay trở lại.”
Trèo lên gác, Mary quyết định không kể cho Sylvia biết ai vừa tới. Nếu Sylvia nghe thấy giọng nói, cô ấy sẽ không thể nói đó là ai, căn nhà này quá lớn, quá nhiều ngõ ngách. Cho dù điều gì đã khiến Naomi trở thành như thế này, thì tốt hơn hết là một người phụ nữ đang đau đẻ không nên biết về nó. Mary đi về phía chiếc giường và kiểm tra Sylvia.
“Sẽ ổn thôi, cô gái ạ”, bà ta nói. “Mọi thứ sẽ diễn ra một cách trôi chảy nhưng cô còn cả một chặng đường phải đi. Cứ hét lên nếu cô muốn. Không ai để ý đâu.”
“Ai là không ai cơ?”, Sylvia nói trong hơi thở hổn hển. “Tôi nghe thấy giọng phụ nữ.”
“Chỉ có người hàng xóm nhà bên của tôi đi quyên góp cho Cứu trợ Trẻ em thôi mà.”
“Nghe giống Naomi.”
“Thật á?”, Mary nói, “tôi nghĩ có vài người nói nghe giống giọng cô ta đấy, tình yêu ạ. Tôi sẽ tống khứ người đó đi và sẽ quay lại sau”.
“Tôi không muốn uống nước nóng”, Naomi nói. “Tôi đến để kể cho bà chuyện gì đã xảy ra. Tôi nghĩ mình phải nói cho Sylvia nhưng tôi mừng là mình sẽ không phải làm thế Tôi không bao giờ muốn thấy mặt cô ta nữa.”
“Vậy cô nói đi.”
Naomi hơ đôi chân cạnh đống lửa, rướn người về phía trước, nhìm chằm chằm vào đầu gối. “Neil đi rồi”, cô ta bắt đầu. “Tôi đã tống khứ hắn đi. Tôi không biết hắn sẽ đi đâu và tôi cũng chẳng quan tâm. Hắn nói với tôi, Mary ạ, ‘Chúng ta sẽ kết hôn vào ngày mai và, chà, chúng ta cần thú nhận về quá khứ của mình. Ý anh là, những chuyện chúng ta đã làm và nghĩ rằng sẽ tốt hơn nếu cho người kia biết’.” Cô ta nức nở và trong chốc lát vục mặt vào hai bàn tay. Mary im lặng chờ đợi, nghĩ về người phụ nữ ở trên lầu. “Tôi chẳng có gì nhiều để nói với hắn”, Naomi nói với giọng tan nát. “Tôi đã nói cho hắn mọi thứ kể từ ngày đầu chúng tôi ở với nhau.” Cô ta ngẩng đầu lên và nhìn vào mặt Mary.
“Nhưng anh ta có thế không?” “Bà biết gì à?”
“Tôi không biết gì cả, cô gái ạ. Và tôi phải quay lại chỗ Sylvia trong một phút nữa.”
“Hắn nói với tôi rằng họ có được đứa bé này. Đó không phải là cái mà người ta vẫn gọi là AI - thụ tinh nhân tạo. Mà họ đã quan hệ với nhau. Họ đã quan hệ với nhau. Ngay tại đây. Một buổi chiều tháng Hai hắn đã đến đây để thụ tinh nhân tạo. Và hắn nói rằng cô ta bảo, ‘Chúng ta cũng có thể làm việc này. Theo một cách dễ dàng và chắc chắn hơn’. Đó là những gì hắn kể. Hắn đã không trung thực với tôi về cô ta và đây là hậu quả. Tôi không muốn đứa trẻ này. Tôi không bao giờ muốn nhìn thấy nó. Tôi không thể chịu được khi chạm vào nó. Bà hãy nói với cô ta như thế.”
Rõ ràng Stephen Lawson đã nhận ra cô trước khi cô nhận ra ông ta. Đó là điều mà ông ta hẳn đã thì thầm vào tai Norman Arlen. Họ sẽ tống khứ cô ra ngoài và điều đó sắp diễn ra. Cô đứng dậy. Arlen nói, bằng một giọng điệu khác hẳn những giọng điệu hắn ta đã từng dùng trước đó, “Ngồi xuống, bà Smithson. Hay tôi nên nói là Trung sĩ thám tử Goldsmith đây nhỉ?”.
Không còn gì để phủ nhận nữa. Cô gật đầu, nói, “Rất tốt, tôi sẽ đi”.
“Tôi không nghĩ vậy.”
Đây không phải lần đầu tiên Hannah nhìn thấy một người đàn ông đang lăm lăm khẩu súng. Trong những ngày đầu khi cô đi tuần tra, một tên “Yardie2” đã dùng một khẩu súng ngắn nòng bị cưa gần hết bắn cô và viên đạn đã sượt qua tai phải của cô. Một lần khác, một tên say rượu dính líu đến một cuộc ẩu đả trên phố mang theo súng hạng nặng khi cô và một sĩ quan khác xuất hiện, nhưng hắn chưa kịp khai hỏa thì đã bị khống chế. Hai tên đó đều cao to và ngông cuồng, nhưng Norman Arlen thì bình tĩnh khủng khiếp, hắn ta chỉ ngồi đấy, cầm thứ gì đó trong tay và nhìn cô chằm chằm. Nó giống một khẩu súng lục rất nhỏ, mặc dù bàn tay to bản của hắn ta đã che nó đi. Cô có thể nhìn thấy nòng súng đang hướng thẳng về phía mình. Hắn ta từ từ đứng dậy, bảo cô đứng lên, giữ khẩu súng hầu như lọt thỏm trong lòng bàn tay to bè. Cô đứng dậy, nhận thức được tình trạng của mình là nên làm theo những gì được bảo.
2 Thành viên băng nhóm tội phạm ở Jamaica.
Stephen Lawson đi về phía cô, trượt cái áo choàng lông thú ra khỏi vai cô và kéo hai cánh tay cô lại với nhau. Cô đã thấy lão ta rất đáng ghét từ lần đầu gặp ở đồn cảnh sát. Cần phải làm gì đó với đôi môi dày sưng vù của lão ta. Tay lão ta chạm vào da cô, làm cô nổi hết gai ốc. Và rồi đến một cái rùng mình co giật mạnh cô không thể giấu giếm.
“Sợ ư, cô Goldsmith? Cô đóng kịch giỏi lắm.”
Cô nghĩ Lawson sẽ trói hai tay cô lại nhưng lão ta đã sử dụng còng tay. Điều này làm cô hoảng sợ hơn là khẩu súng.
“Tôi không biết tại sao ông lại làm thế này”, cô nói, giận dữ với bản thân vì giọng cô nghe có vẻ đứt quãng và yếu ớt. “Anh ta đã không nói gì với tôi cả.”
Arlen mỉm cười.
“Họ sẽ đến tìm tôi.”
“Có lẽ vậy”, hắn ta nói. “Và họ sẽ tìm thấy cô. Trong chiếc xe bị trơn trượt trên băng và đâm vào bức tường chắn tại cầu Yorstone. Vụ tai nạn khủng khiếp thứ hai xảy ra tại đó. Không nghi ngờ gì chuyện này sẽ nhắc nhở về một số biện pháp an toàn nghiêm ngặt cần được áp dụng cho cây cầu và đường Yorstone.”
Chúng kéo cô ra khỏi phòng, dọc theo một hành lang khác và đi vào một căn phòng giống như phòng của người hầu cách xa nhà bếp. Ở đó có một chiếc giường đơn, một tủ quần áo, một cái bàn và một cái ghế. Cửa phòng tắm khép hờ. Cô thầm cầu nguyện rằng cuối cùng chúng cũng sẽ tháo còng tay cho mình nhưng chúng đã không làm vậy. Chúng hành xử thô bạo với cô cho đến khi cô ngồi lên giường, sau đó bỏ đi, khóa trái cánh cửa nhìn rất vững chắc.
Có một cửa sổ nhưng nó có cửa chớp và những cánh cửa chớp đều đã bị đóng. Phòng tắm không có cửa sổ, chỉ có một cái quạt có lẽ sẽ dùng được nếu bật đèn. Cô thấy mình có thể bật đèn lên bằng cách tì vai vào nút công tắc. Nước đã đầy một nửa bồn tắm. Cô nghĩ một trong số bọn chúng sẽ phải xả đầy nó từ vòi nước lạnh để cô không bị mất nước. Điều này khiến cô có chút cảm giác động viên. Nếu chúng định giết cô trong một tiếng nữa hoặc hơn thì chúng đã không thèm để nước lại cho cô.
Theo lý thuyết khi những kẻ giống như hai tên này nhốt ai đó làm tù nhân, chúng sẽ không bao giờ giết họ ngay mà giam họ ở đâu đó vài giờ thậm chí là vài ngày trước đã. Cô thường băn khoăn về vấn đề này. Liệu có thực sự là vậy hay việc trì hoãn chỉ là một công cụ cho phép đạo diễn duy trì sự hồi hộp và sau đó có thể quay cảnh một cuộc giải cứu thành công? Đôi khi, tất nhiên, nó được tạo ra để yêu cầu một khoản tiền chuộc. Nhưng một khoản tiền chuộc sẽ không được áp dụng với cô. Chúng không muốn tiền, chúng đã có tiền và muốn kiếm thêm nữa. Chúng muốn cô không ngáng đường bọn chúng. Cái chúng định làm ở châu Phi cũng như ở đây hẳn phải đủ sinh lời và khủng khiếp tới mức giết cô là cần thiết. Tuy Arlen nói rất ít, chỉ một vài từ hoặc cụm từ về một phòng khám và các bác sĩ…
Damon biết cô đã đi đâu. Bình tĩnh nào, cô nghĩ, bình tĩnh nào.
Wexford hiện đang đứng trước cửa và anh quên mất mình đến để hỏi gì. Chỉ có duy nhất một câu trả lời phải tìm ra lúc này và anh không có lý do gì để nghĩ rằng mình sẽ thấy nó ở đây. Mặc dù anh chưa bao giờ xác định được động cơ, nhưng anh đã tìm ra thủ phạm. Có lẽ anh đến căn nhà này nhằm làm dịu đi mối lo không ngừng về đứa trẻ Brand. Để trấn an mình rằng sau khi khép vụ án này lại, thì anh cũng có thể để lại đằng sau những lo lắng về đứa con trai nhỏ của Amber. Một lời hứa hy vọng từ người ông của Brand, có lẽ, một ánh mắt yêu thương từ người bà kế của Brand, sẽ giúp anh. Hoặc những tin tức từ một ai đó hay những người khác rằng nhà Hilland hay chị gái của Diana muốn nhận nuôi nó.
Anh đã đứng ở bậc cửa trong thời tiết giá lạnh được vài phút, nghĩ về các khả năng và làm thế nào hy vọng có thể thực sự kéo dài được mãi mãi. Cuối cùng, anh rung chuông cửa. George Marshalson ra mở, ông ta đã trở nên già nua, lưng gù xuống và đầu chúi về phía trước như thể đang nhìn chằm chằm vào một thế giới đầy tội ác. Wexford nghĩ ông ta đã già đi hai chục tuổi trong vòng bốn tháng qua. Ông ta không còn bước đi nữa, mà là lết. Giọng ông ta đứt quãng và the thé hơn. Những lời đầu tiên của ông ta đã giết chết hy vọng của Wexford.
“Vợ tôi cho thằng bé đi ngủ rồi, cảm ơn Chúa. Tôi không thể chịu được, anh biết đấy, không thể, ở độ tuổi của tôi. Tất cả những năng lượng đó; tất cả những tiếng ồn đó. Thằng bé không biết mệt là gì. Chỉ trừ phi nó đi ngủ. Nó sẽ gào lên ngay khi bà ấy xuống.”
Wexford nhún vai. Anh không có ý kiến gì về chuyện này. Anh theo Marshalson vào trong phòng khách được thiết kế nội thất và ngồi ở cái ghế theo phong cách phương Đông. Mũi, trán và tay các vị thần được sơn chọc vào lưng anh.
“Chúng tôi gần như đã đi đến cuối vụ này, ông Marshalson ạ.” Có lẽ đó là điều mà anh tới để nói với ông ta. Anh nghĩ có thể người đàn ông này sẽ hứng thú. “Tôi sẽ tiến hành việc bắt giữ sớm thôi.”
“Thành thực mà nói, tôi không quan tâm”, Marshalson nói. “Tìm thấy kẻ đã giết con gái tôi cũng không làm nó sống lại được. Tôi thường nghe người ta nói thế trên ti vi và tôi chế nhạo họ. Tôi chế nhạo Chánh thanh tra.” Nước mắt chảy ra từ đôi mắt ông ta. Chuyện thường tình, Wexford nghĩ. Những người đàn ông cao tuổi yếu ớt khóc lóc rất dễ dàng và Marshalson lại càng có nhiều lý do để khóc. “Giờ thì tôi đã biết nó có nghĩa là gì. Tôi không quan tâm. Tôi không quan tâm đến cái gì nữa. Con bé không phải là một người hoàn hảo, anh biết đấy. Vâng, dĩ nhiên là anh phải biết rồi. Con bé vô đạo đức, theo tiêu chuẩn cũ của tôi. Nó tham lam, lười biếng và vô trách nhiệm, nhưng tôi nguyện làm tất cả mọi thứ để nó quay về với mình.”
“Tôi hiểu được cảm giác của ông.”
“Vì thế đừng nói với tôi về chuyện đó nữa. Đừng nói với tôi là anh sẽ bắt ai và tại sao. Đi lên và nói với vợ tôi ấy. Anh sẽ tìm thấy bà ấy trong phòng ngủ của thằng bé. Anh không thể không tìm thấy bà ấy, tiếng ồn là do hai người họ tạo nên.”
Wexford rất mừng vì được bỏ lại người đàn ông bất hạnh, có nỗi buồn gợi lên trong anh lòng thương hại gần như khiến những giọt lệ phải dâng trào trong mắt. Chuyện xảy ra với nhà Marshalson mà anh đã chứng kiến cũng đang lặp đi lặp lại với những bậc cha mẹ mất con khác. Sau cú sốc khủng khiếp ban đầu, họ dường như đã chỉnh đốn, cân bằng lại bản thân và tập quen với nỗi mất mát của mình. Nhưng sau một thời gian, nhiều tuần hay thậm chí nhiều tháng, toàn bộ hiện thực về những gì họ đã phải chịu đựng lại kéo đến bao vây họ.
Một sự phiền muộn đau thương, ngu si đần độn, lãnh đạm, cay đắng và không còn hy vọng có thể khuây khỏa được, cuốn họ vào trong vòng xoáy tàn nhẫn của nó, sự giam cầm mà họ không bao giờ tự mình thoát ra được trong suốt cả cuộc đời. Những người không còn khóc kể từ khi họ là những đứa trẻ sẽ bật khóc nức nở khi nhắc đến tên của một người đã khuất.
Anh bắt đầu bước chầm chậm lên lầu. Anh đã từng lên đây trước kia nhưng chỉ để lục soát phòng của Amber. Cánh cửa căn phòng đó đã đóng nhưng một cánh cửa khác ở phía cuối hàng lang đang mở, ánh sáng từ bên trong chiếu rọi ra. Có một cái gì đó ngập tràn hy vọng và ấm áp đến kỳ lạ bắt nguồn từ thứ ánh sáng hắt ra từ cánh cửa đang mở vào khoảng không tăm tối. Những giọng nói lọt vào tai anh, là của bà ta và Brand, giọng cười đùa vui vẻ, giọng trẻ con hân hoan. Anh đứng im lặng ở lối vào, nhìn họ và khi thấy khuôn mặt của họ, anh đã hiểu.
Điều này làm anh cảm thấy sốc đến nỗi trong chốc lát anh khó thốt nên lời.