Longren, thủy thủ kì cựu mười năm trên tàu Orion trọng tải ba trăm tấn, gắn bó với con tàu còn hơn quấn mẹ, giờ đây buộc lòng phải thôi việc lên bờ.
Chuyện là thế này. Một bận trở về nhà trong một chuyến nghỉ phép hãn hữu, từ xa xa Longren không còn trông thấy bóng người vợ trẻ Mary đứng bên ngưỡng cửa đưa tay vẫy, rồi chạy gằn bước đến tức thở lại đón ông như thường lệ. Thay vào chỗ nàng là bà hàng xóm đang thổn thức đứng bên chiếc nôi bé tí tẹo đựng một vật lạ dưới mái nhà bé nhỏ của họ.
- Tôi trông nó ba tháng nay rồi đấy, ông bạn ạ, - bà bảo. - Hãy nhìn con gái ông đi này.
Sững sờ, Longren cúi xuống cái sinh linh tám tháng tuổi đang trân trân nhìn bộ râu quai nón xồm xoàm của ông, rồi ông ngồi phịch xuống, cúi đầu, vắt cặp ria mép ướt đẫm nước mưa.
- Mary mất khi nào? - Ông hỏi.
Bà hàng xóm kể lại câu chuyện thê thảm, chốc chốc lại ngừng để nựng nịu đứa nhỏ thường kia đối với người thiếu phụ đã vĩnh viễn đi vào cõi mịt mờ chẳng ai biết ấy sẽ vẫn và để quả quyết rằng lúc này Mary đang ở trên Thiên đường.
Khi nghe hết sự tình, Thiên đường đối với Longren xem ra chẳng sáng sủa hơn một túp lều gỗ là bao. Ông cho rằng, giá giờ đây ba người bọn họ được ở bên nhau, có lẽ ánh đèn dầu tầm thường cứ là một niềm hân hoan không gì thế chỗ nổi.
Ba tháng trước, tình cảnh người mẹ trẻ thật là cơ cực. Số tiền ông Longren để lại đã phải tiêu mất một nửa cho bệnh hậu sản, rồi còn phải nuôi nấng đứa trẻ mới ra đời. Cuối cùng, sự thâm hụt không thể bù đắp đã khiến Mary phải cất lời hỏi vay tiền của chủ quán rượu Menners, người được coi là khá giả trong vùng.
Khoảng sáu giờ chiều, Mary tìm đến nhà gã chủ quán. Gần bảy giờ, người kể lại chuyện gặp nàng gần nơi cổng thành Liss. Mary thẫn thờ, nước mắt lưng tròng. Nàng bảo phải vào thành phố để cầm chiếc nhẫn cưới. Nàng nói thêm rằng, Menners sẽ đồng ý cho vay tiền nếu nàng để cho lão yêu mình. Mary cầu khẩn mãi cũng vô ích.
- Nhà tôi chẳng còn gì mà ăn nữa,- nàng bảo bà hàng xóm, - tôi vào thành phố đây, mẹ con tôi sẽ tìm ra cách cầm cự cho đến khi chồng tôi trở về.
Buổi tối hôm ấy lộng gió và buốt lạnh. Người kể lại chuyện khuyên giải thế nào cũng không ngăn được nàng vào thành Liss lúc đêm hôm. “Chị sẽ bị cảm mất, Mary ạ. Trời đang mưa, lại gió nữa. Nhìn kìa, thế nào cũng có mưa rào mất thôi.”
Từ xóm duyên hải này vào thành phố, cả đi về phải mất ba tiếng đồng hồ đi bộ thật nhanh, nhưng Mary khăng khăng không chịu nghe. “Tôi làm phiền mọi người nhiều quá rồi - nàng nói - chẳng còn nhà nào là tôi không vay bột hay bánh mì. Tôi sẽ cầm cái nhẫn. Thế là ổn.”
Nàng ra đi, rồi trở về. Ngày hôm sau, nàng lên cơn sốt cao và chuyển sang mê sảng. Thời tiết xấu cùng gió ẩm đã làm nàng viêm phổi nặng, ông bác sĩ mà bà hàng xóm tốt bụng mời từ thành phố đến đã nói vậy. Một tuần sau, chiếc giường đôi của ông Longren còn lại trống không. Bà hàng xóm phải chuyển sang ở nhà ông để chăm sóc đứa nhỏ. Đối với kẻ góa phụ cô đơn như bà, điều này cũng không đảo lộn gì mấy. “Vả lại - bà nói thêm - không thì cũng buồn lắm.”
Ông Longren quay vào thành phố, lĩnh tiền công, chia tay với bạn bè thủy thủ để trở về nuôi nấng bé Assol bé bỏng. Khi cô bé còn đi chập chững, bà hàng xóm vẫn ở lại bên nhà họ, thay người mẹ chăm nom đứa con côi cút. Nhưng khi bé Assol đi vững, nâng được bước chân nhỏ xíu qua ngưỡng cửa, ông Longren quả quyết rằng, ông sẽ tự mình chăm lo được cho đứa con thơ. Sau khi ngỏ lời cảm ơn bà góa đã cảm thông, giúp đỡ cha con ông một thời gian dài vừa qua, ông khẳng định mình sẽ sống độc thân, dành hết tâm lực, tình yêu, hi vọng cùng hoài niệm cho cái sinh linh nhỏ bé kia.
Mười năm bôn ba chẳng đem lại cho ông mấy của cải. Ông lại bắt tay vào làm việc. Chẳng bao lâu sau, những món đồ chơi ông làm xuất hiện trong khắp các cửa hiệu thành phố, nào là tàu, ca nô, thuyền một buồm, thuyền hai buồm, rồi cả những tàu thủy, chiến hạm… Tóm lại, là những thứ mà khi làm chúng, ông cảm thấy công việc có thể thay thế phần nào cho cuộc sống ồn ào bên trên boong tàu cùng công việc biển khơi xiết bao ngoạn mục. Công việc này giúp ông Longren kiếm vừa đủ cho cuộc sống tằn tiện. Là người bản tính ít giao du, sau khi vợ chết, ông lại càng thu mình, và càng trở nên khép kín và ít giao du hơn. Vào các dịp lễ hội, thi thoảng ông cũng xuất hiện trong quán rượu, nhưng chẳng bao giờ ngồi lại, chỉ đứng uống vội một cốc vodka rồi đi luôn, ném ra xung quanh những câu “vâng”; “không”; “xin chào”; “tạm biệt”; “cũng tàm tạm”... Cụt lủn để đáp lại những câu chào, những cái gật đầu của hàng xóm láng giềng. Ông không chịu được khách khứa, thường đuổi khéo họ bằng những ám chỉ, lí do lí trấu tự nghĩ ra, khiến khách đến chơi chẳng có cách nào khác là phải tìm cớ để không nán lại lâu, bản thân ông cũng chẳng thăm viếng ai bao giờ. Do vậy, giữa ông và những người trong vùng duy trì một mối quan hệ lạnh nhạt. Và dù công việc của ông - làm đồ chơi - chẳng liên quan mấy đến mọi sinh hoạt trong vùng, ông cũng không thể không nhận thấy hậu quả của mối quan hệ này. Hàng hóa nhu yếu, đồ ăn dự trữ ông đều mua trong thành phố - Menners chẳng bán được gì cho ông, dù một que diêm nhỏ. Ông tự đảm đương mọi việc nội trợ và nhẫn nại mày mò cái nghệ thuật nuôi nấng đứa con gái nhỏ - thứ công việc chẳng phải là thiên chức của người đàn ông.
Assol đã lên năm. Người cha bắt đầu nở nụ cười ngày thêm dịu dàng mỗi khi ngắm nhìn gương mặt nhỏ nhắn linh hoạt và hồn hậu của đứa con gái khi nó ngồi lên gối cha, bận bịu khám phá chiếc áo gilê cài kín cúc của ông, hoặc cất tiếng hát một cách ngộ nghĩnh những bài hát thủy thủ, những khúc ca ầm ào hoang dã. Giọng con trẻ ngọng líu ngọng lô khiến những khúc hát giống như một chú gấu thắt những dải nơ xanh đang nhảy múa. Thời gian này đã xảy ra một chuyện mà bóng đen của nó phủ kín người cha, trùm lên cả đứa con.
Một hôm, thằng Hin - đứa con mười hai tuổi của Menners - trông thấy chiếc thuyền của cha nó bị nước cuốn đập vào chân cây cầu nhỏ và vỡ mạn thuyền nên lập tức chạy về mách cha nó. Cơn bão vừa kéo tới, Menners đã quên không kéo thuyền lên bãi cát. Lão chạy vội ra phía biển, còn kịp nhìn thấy ông Longren đang đứng hút thuốc ở rìa đập chắn sóng, quay lưng về phía lão. Trên bờ, ngoài hai người họ ra, chẳng có một ai. Menners đi dọc theo chiếc cầu, đến giữa cầu, lão tụt xuống dòng nước đang cuồn cuộn điên cuồng và cố tránh dòng xoáy của nó.
Leo được lên thuyền rồi, lão loay hoay tìm cách vào bờ, tay vẫn bám chặt vào một chân cầu. Lão quên không mang theo mái chèo, và chính vào khoảnh khắc khi lão rời tay khỏi chân cầu này để với sang chân cầu tiếp theo, một cơn lốc mạnh đã xoáy mũi thuyền của lão ra khơi. Giờ đây, dù thân hình dài nghêu, lão cũng chẳng làm sao với nổi tới cái chân cầu gần nhất. Sóng và gió vần vũ, dần đẩy chiếc thuyền ra khơi xa nguy hiểm. Hiểu rõ tình cảnh của mình, Menners toan nhảy xuống nước hòng bơi thoát thân vào bờ, nhưng lão quyết định quá muộn, bởi chiếc thuyền đã bị cuốn đến gần đập chắn sóng, nơi nước sâu đáng kể và những đợt sóng mạnh dẫn đến cái chết không tránh khỏi. Menners đang bị cuốn dần xa khơi xa giông gió còn cách Longren chừng mười sazhen1, ở khoảng cách ấy vẫn còn có thể cứu được bởi trên cầu có treo một cuộn dây neo bằng chão bện. Cuộn chão treo ở đó để phòng khi trời giông bão có thể quăng xuống cứu hộ từ trên cầu.
1 Sazhen = 2,134m
- Longren! - Menners đang sợ hãi đến chết khiếp gào gọi. - Sao anh đứng đực ra thế? Không nhìn thấy tôi bị cuốn đi sao? Quăng dây neo ra đây!
Ông Longren lặng thinh, bình thản nhìn Menners đang cuống quýt trên con thuyền, chỉ có chiếc ống tẩu của ông càng nhả khói tợn hơn và ông thong thả rút nó ra khỏi miệng để nhìn mọi sự đang diễn ra rõ ràng hơn.
- Longren! - Menners lại gọi. - Anh có nghe tiếng tôi không? Tôi sắp chết rồi đây, cứu tôi đi!
Nhưng ông Longren không đáp một lời, dường như ông không nghe thấy những tiếng gào thét tuyệt vọng đó. Ông chẳng thèm đổi chân chừng nào chiếc thuyền còn chưa bị cuốn ra xa, đến độ hầu như không còn nghe thấy tiếng gào thét của Menners nữa. Menners rền rĩ trong nỗi kinh hoàng, van nài người thủy thủ chạy đi cầu cứu đám chân dài, hứa hẹn tiền bạc, rồi đe dọa, rồi nguyền rủa, nhưng ông Longren chỉ tiến đến sát hơn nữa rìa đập chắn sóng cho tầm mắt khỏi bị khuất bóng con thuyền đang lăn lộn giữa sóng nước.
- Longren, - tiếng kêu cứu âm âm như từ trên mái dội xuống lòng nhà, - cứu tôi với!
Khi đó, hít một hơi thật sâu vào lồng ngực, Longren quát thật to để gió không thể cuốn bay một lời nào ông phát ra:
- Cô ấy đã van xin mày như thế! Mày hãy nhớ để đời và chớ có quên!
Khi đó, tiếng kêu cứu câm bặt và Longren quay trở về nhà. Khi Assol tỉnh giấc, nó thấy cha mình đang ngồi chìm đắm trong suy tư bên ngọn đèn dầu thoi thóp. Nghe tiếng con gái gọi, ông hôn con âu yếm và đắp lại chăn cho nó.
- Ngủ đi con yêu, - ông nói, - trời còn lâu mới sáng.
- Cha làm gì đấy?
- Cha vừa làm một thứ đồ chơi xấu xa, Assol ạ! Thôi ngủ đi con!
Ngày hôm sau, dân tình ở Kaperna bàn tán xôn xao về chuyện Menners bị bão cuốn đi mất tích. Đến ngày thứ sáu thì người ta đem được lão về, dở sống dở chết và tràn đầy cay cú. Câu chuyện về lão nhanh chóng bay đến mọi ngõ ngách thôn làng. Menners bị cuốn đi mãi đến tận chiều tối, đúng lúc chiếc thuyền bị những con sóng quật cho rách nát và thủng đáy chỉ chực hất lão chủ quán đang phát điên xuống biển khơi thì lão được chiếc tàu thủy Lucretia trên đường đến Kasset vớt lên. Cơn cảm hàn và nỗi kinh hoàng khủng khiếp đã giết chết Menners. Lão gắng cầm cự được khoảng bốn mươi tám tiếng đồng hồ, luôn miệng nguyền rủa Longren sẽ phải chịu mọi tai ương có trên đời cùng những hiểm họa lão còn kịp nghĩ ra. Câu chuyện của Menners - rằng thủy thủ Longren đứng xem lão chết mà không cứu - được minh họa hùng hồn thêm bởi hơi thở nặng nhọc cùng những tiếng rên rỉ của kẻ hấp hối đã khiến dân chúng ở Kaperna sửng sốt, kinh hoàng. Thôi nói đến chuyện ít người trong bọn họ còn có khả năng nhớ được sự lăng nhục nặng nề mà Longren phải chịu, phải mang nỗi đau khủng khiếp đến hết đời như Longren phải đau về người vợ Mary, - họ cảm thấy gớm guốc không thể hiểu nổi, họ sững sờ bởi Longren đã im lặng. Im lặng, đến những câu cuối cùng ông ném theo Menners. Longren đứng, đứng không động đậy, nghiêm khắc và lặng thinh, như một quan tòa, biểu thị sự khinh bỉ đối với Menners. Sự lặng thinh của ông còn hơn cả lòng căm hận, ai ai cũng cảm nhận được. Nếu như ông gào thét lên, biểu thị cử chỉ, hoặc làm ra vẻ hoan hỉ đầy ác ý, thậm chí là một hành động gì đó như sự đắc ý trước cảnh tuyệt vọng của Menners, đám dân chài còn có thể hiểu được. Nhưng ông lại làm khác hẳn những gì họ vẫn làm, ông đã hành động không cách gì hiểu nổi, khiến bản thân đứng cao hơn tất thảy mọi người. Tóm lại, Longren đã làm cái điều không thể tha thứ được. Chẳng còn một ai chào hỏi ông, bắt tay ông, thậm chí đánh cái nhìn quen biết về phía ông nữa. Ông vĩnh viễn bị bỏ lại hẳn trong mọi sinh hoạt của xóm làng. Đám trẻ con luôn kêu tướng lên theo ông mỗi bận nhìn thấy ông: “Longren dìm chết Menners!”. Ông chẳng thèm để tâm đến những điều đó. Cũng như ông chẳng hề nhận thấy nơi quán rượu, bên bờ biển, giữa các con thuyền, đám dân chài ngừng chuyện trò khi ông lại gần, rồi bỏ đi chỗ khác như tránh một con bệnh dịch hạch. Chuyện xảy ra với Menners càng củng cố vững chắc mối quan hệ lạnh nhạt trước đó giữa họ và Longren. Như chén nước tràn, lòng hận thù chắc chắn từ hai phía nảy sinh, trùm bóng lên cả bé Assol.
Cô bé lớn lên không có bạn gái. Hai, ba chục đứa trẻ cùng trà với cô ở Kaperna đã chịu nếp dạy dỗ khắc nghiệt từ khi còn đỏ hỏn, như miếng bọt biển, thấm nhuần triệt để rằng uy tín của các bậc sinh thành là bất di bất dịch. Chúng tuân phục điều đó như mọi đứa trẻ trên thế gian và đương nhiên đã gạt bỏ vĩnh viễn Assol bé nhỏ khỏi vòng quan tâm và che chở của mình. Định kiến ấy, tất nhiên dần dà được nhồi nhét vào đầu óc chúng bởi những tiếng quát nạt cùng với sự cấm đoán gắt gao của người lớn, rồi sau đó những điều ong tiếng ve, những lời đồn đại nhảm nhí bị thổi phồng lên quá đáng lại gieo vào đầu óc lũ trẻ một niềm khiếp đảm về ngôi nhà của người thủy thủ nọ.
Thêm nữa, cách sống khép mình của ông Longren càng như chắp thêm cánh cho miệng lưỡi ngông cuồng của sự đơm đặt. Dân tình xì xào rằng, gã thủy thủ đã phạm tội giết người ở đâu đó, vậy nên gã mới bị đuổi khỏi tàu, bản thân gã u ám và lánh đời vì rằng gã “đang bị lương tâm giày vò bởi tội lỗi đã phạm phải.” Bọn trẻ đang chơi đùa thường xua đuổi Assol mỗi khi cô bé mon men lại gần chúng, rồi còn ném rác bẩn về phía cô bé, chòng ghẹo rằng cha nó hình như từng ăn thịt người, còn bây giờ thì đang đúc tiền giả. Mọi cố gắng thơ ngây nhằm xích lại gần của cô bé luôn kết thúc bằng những giọt nước mắt cay đắng, những vết thâm tím, bầm xước và các biểu hiện khác của định kiến xã hội. Cuối cùng cô bé đã thôi giận hờn, nhưng đôi khi vẫn hỏi người cha:
- Cha ơi, vì sao mọi người không yêu cha con mình?
- Ồ, Assol ơi, - ông Longren nói, - họ mà biết yêu ư con? Phải biết yêu đã con ạ, mà cái đó thì họ đâu có biết.
- Thế là sao ạ, biết yêu ấy?
- À, là thế này đây!
Ông cầm tay cô bé và hôn chụt lên đôi mắt rầu rĩ của nó, đôi mắt lúc này đã nheo tít lại bởi niềm hân hoan dịu dàng.
Trò yêu thích của Assol là vào các buổi chiều tối hay dịp lễ, khi cha nó đã gác các thứ hộp giấy, hồ dán, đồ nghề làm việc cùng những công việc còn dang dở sang một bên, tháo bỏ tạp dề, ngồi xuống nghỉ ngơi với chiếc tẩu trên môi, nó sẽ sà đến ngồi lên đùi cha, cựa quậy trong vòng tay ông, sờ mó từng bộ phận của từng món đồ chơi, hỏi cặn kẽ ý nghĩa của từng thứ đó. Thế là bắt đầu một bài giảng huyễn tưởng về cuộc sống và con người mà nền tảng chủ yếu dựa vào những sự kiện đã xảy ra đến trong cuộc sống trước đây của ông Longren, đều là những câu chuyện kì lạ, khác thường. Ông Longren dạy cho cô bé biết tên gọi của các loại chão thừng, cánh buồm, những đồ nghề đi biển; dần dần bị cuốn hút, ông chuyển từ giảng giải sang mô tả tỉ mỉ đủ kiểu các tình tiết, trong đó nhân vật chính khi thì bánh lái, lúc lại là cột buồm hay một kiểu thuyền nào đó, hoặc đang từ những minh họa riêng rẽ ông chuyển sang mô tả bức tranh toàn cảnh hùng vĩ của cuộc đời phiêu bạt nơi biển khơi, lẫn lộn giữa hiện thực với dị đoan, có khi hiện thực lại biến thành những huyễn ảnh trong trí tưởng tượng. Từ đây, xuất hiện giống mèo cọp mang điềm báo đắm thuyền; giống cá bay biết nói nếu không nghe lời tiên báo của chúng sẽ không tránh khỏi tiêu ma vì mất phương hướng; và truyền thuyết về người Hà Lan bay song hành cùng bộ sậu điên cuồng của nó, rồi thì những điềm báo, ma quỷ, tiên ngư hay cướp biển… Tóm lại là tất cả những chuyện hoang đường được bịa ra để giết thời gian của đám thủy thủ trong những ngày biển lặng hay nơi quán rượu họ ưa thích. Ông Longren còn kể về những kẻ đắm tàu, những người rừng quên cả tiếng nói, những kho báu bí hiểm, những cuộc nổi loạn của tù khổ sai và nhiều thứ chuyện khác nữa… Khiến cô bé chăm chú say sưa lắng nghe còn hơn cả khi người ta lần đầu nghe chuyện Comlumbus khám phá ra miền đất mới. “Nào cha, cha kể nữa đi!” - Assol đòi khi ông Longren mải nghĩ ngợi đến quên cả kể chuyện và rồi cô bé gối đầu lên ngực cha, ngủ thiếp đi cùng với những giấc mơ kì diệu.
Cuộc viếng thăm của người lấy hàng từ cửa hiệu đồ chơi trong thành phố cũng là một niềm vui rất đáng kể đối với bé Assol. Người này luôn sẵn lòng mua hết mọi thứ đồ chơi ông Longren làm. Để lấy lòng người cha và để việc mua bán được dễ dãi, ông này thường đem đến cho cô bé đôi trái táo, cái bánh nướng ngọt hoặc một nắm hạt dẻ. Longren vốn không thích cò kè, thường nói luôn giá bán, còn người lấy hàng lại luôn xin hạ bớt. “Ê cái nhà anh này, - ông nói, - tôi mất cả tuần để làm chiếc thuyền này đấy. (Chiếc thuyền dài đến năm inch). Nhìn đây, chắc chắn thế này, phần chìm thế này, chất lượng thế này. Có thể chở mười lăm người trong bất kì thời tiết nào.”
Cuối cùng, vẻ xăng xái của đứa bé, tiếng nó nhai táo rôm rốp đã đánh tan sự cứng rắn của người cha và ông Longren đành nhượng bộ. Rồi người lấy hàng ra về, xách theo một giỏ đầy những đồ chơi chắc chắn và tuyệt đẹp, giấu nụ cười mủm mỉm sau bộ ria mép.
Ông Longren tự làm mọi việc trong nhà: Bổ củi, lấy nước, nhóm lò, nấu ăn, giặt giũ, là quần áo, và ngoài những việc đó ra, ông vẫn kịp có thời gian để kiếm tiền. Khi bé Assol tám tuổi, người cha dạy cho nó biết đọc, viết. Thỉnh thoáng ông bắt đầu đưa nó đi cùng vào thành phố, sau đó thậm chí ông còn cho nó tự đi một mình nếu cần giật nóng tiền ở một cửa hiệu hay đưa hàng. Những dịp như thế không nhiều lắm. Dù Liss chỉ cách Kaperna có bốn dặm nhưng đường đi phải qua rừng, mà ở trong rừng thì thiếu gì thứ để nhát trẻ con, chưa kể những bất trắc, va vấp; thực ra khó mà xảy ra chuyện trong một khoảng cách gần như vậy, nhưng cứ phòng xa vẫn hơn. Vì thế, chỉ vào những buổi ban mai thật đẹp trời, đường rừng ngập tràn nắng, không gian yên ắng đầy hoa nở, không có mảy may một nguy cơ nào có thể đe dọa bé Assol mong manh, ông Longren mới cho bé tự đi vào thành phố.
Một bận trong những chuyến du hành ấy, Assol ngồi xuống bên đường để nhấm nháp miếng bánh nướng - bữa sáng bé mang theo trong chiếc giỏ xách tay. Vừa ăn bé vừa xem lại những món đồ chơi trong giỏ, có hai, ba thứ, gần như mới tinh đối với nó - ông Longren vừa làm xong chúng đêm qua. Một thứ mới đó là chiếc thuyền buồm xinh xắn, con thuyền trắng mang những cánh buồm đỏ thắm được cắt từ những miếng lụa ông Longren dùng để dán vào các buồng tàu thủy - một món đồ chơi dành cho những vị khách sẵn tiền. Rõ ràng khi làm chiếc du thuyền, ông Longren không tìm ra thứ vải thích hợp làm cánh buồm nên ông đành có gì dùng nấy - những mảnh lụa đỏ này vậy.
Assol rất đỗi trầm trồ. Mảnh sáng tươi rói cháy rực trên tay cô bé như thể cô đang cầm một ngọn lửa. Con đường cắt ngang qua dòng suối nhỏ bằng một cây cầu lênh khênh. Dòng suối đổ vào rừng từ cả hai phía phải, trái. “Nếu mình thả nó xuống nước, nó sẽ bơi được nhỉ, - Asslo thầm nghĩ, - nó sẽ không ướt đâu, rồi mình sẽ lau khô nó mà.” Cô bé xuống cầu, men theo dòng chảy của con suối rồi đi vào rừng. Cô thận trọng thả con thuyền đẹp mê hồn xuống làn nước ngay cạnh bờ. Những cánh buồm buông ngay những cái bóng đỏ thắm xuống mặt nước trong văn vắt. Ánh sáng xuyên qua lần vải phóng những khúc xạ hồng rung rinh xuống đáy nước trải đầy sỏi trắng. “Ngài từ đâu tới, thưa thuyền trưởng?” Assol nghiêm mặt trịnh trọng hỏi, rồi lại tự trả lời: “Tôi từ…từ Trung Hoa tới.” “Ông chở gì đến vậy?” “Thứ tôi chở đến, không thể tiết lộ được.” “Ồ, ông thật là, thuyền trưởng! Hừ, đã thế tôi cho ông trở lại cái giỏ này vậy.” Đúng lúc viên thuyền trưởng tính chuyện giảng hòa, trả lời rằng ông ta chỉ định đùa một chút thôi và sẵn lòng cho cô xem một chú voi, thì một dòng nước ngầm ở gần bờ xoay mũi chiếc thuyền, đẩy nó ra giữa suối. Như một chiếc thuyền thực thụ đã căng buồm, nó phăm phăm rời bờ, lao theo dòng chảy. Bỗng chốc, cảnh vật xung quanh đổi khác hoàn toàn: Dòng suối, với cô bé, giờ đây biến thành một con sông rộng, còn chiếc du thuyền biến thành con tàu khổng lồ xa tít mù tắp. Hấp tấp trong hoảng hốt, cô bé chìa tay ra, suýt ngã xuống nước: “Thôi thuyền trưởng, hỏng rồi,” - cô nghĩ bụng và vội chạy theo món đồ chơi đang trôi đi mất, lòng hi vọng nó sẽ tạt vào bờ ở đâu đó. Vội vã tha chiếc giỏ không mấy nặng nhưng khá vướng víu, Assol miệng nhắc đi nhắc lại: “Ôi trời, sao lại thế này…” Cô bé cố không để khuất bóng những cánh buồm xinh đẹp hình tam giác đang vèo vèo trôi đi, nó vấp dúi dụi, ngã nhào rồi lại vùng dậy đuổi theo.
Assol chưa bao giờ vào sâu trong rừng như lần này. Cô bé muốn vớt lại được cái đồ chơi thật mau nên chẳng ngó ngàng ra xung quanh; dọc con suối Assol đang chạy cũng đã có đủ mọi vật cản trở thu hút sự chú ý của nó rồi. Những cành cây đổ tua tủa chắn ngang những hố hốc, từng đám dương xỉ, tầm xuân, phi tử, nhài thi nhau cản bước, chạy qua được chúng, cô bé đuối sức dần nên chốc chốc lại phải tạm dừng để lấy hơi và gạt khỏi mặt những tấm mạng nhện dấp dính. Ra đến khoảng đất rộng hơn, nơi đầy cỏ lác và lau sậy, Assol đã hoàn toàn mất hút bóng dáng của những cánh buồm đỏ rực. Nhưng khi chạy đến khúc quanh của dòng chảy, cô bé lại nhìn thấy chúng đang phăm phăm trôi dần đến mất hút. Lúc này Assol mới đưa mắt nhìn ra xung quanh, cảnh rừng sặc sỡ ngút mắt đắm mình trong những cột sáng quẩn hơi nước xiên qua kẽ lá đang bị thay thế bởi những khoảng tối mơ màng khiến cô bé kinh hoàng. Thoáng ngại ngần, nó chợt nhớ đến cái đồ chơi, bèn hít hà mấy hơi thật dài: “Ph-phù-phù”, nó lại cắm đầu hối hả chạy.
Sau gần một giờ đuổi bắt vội vã đầy lo âu, Assol kinh ngạc rồi thở phào nhẹ nhõm khi thấy cây cối trước mặt cứ thưa dần, đưa nó tới bờ vịnh nước xanh biếc in bóng những quầng mây và một con dốc phủ cát vàng óng ánh. Cô bé gần như ngã nhào xuống vì quá mệt. Đây đã là cửa con suối; lòng suối nông và không rộng, có thể nhìn rõ những viên đá xanh lam nằm dưới đáy nước, dòng chảy đổ ra, hòa vào biển, từ trên đỉnh dốc cát thoai thoải, nhấp nhô, Assol trông thấy, trên một phiến đá lớn bằng phẳng bên suối, một người ngồi quay lưng về phía cô, tay đang cầm chiếc thuyền buồm vừa vớt được. Ông ta xem xét, ngắm nghía nó từ mọi phía, thích thú như một con voi vớ được một chú bướm nhỏ xinh. Tạm yên lòng vì cái đồ chơi vẫn còn nguyên vẹn, Assol trườn xuống dốc cát, đến gần người lạ mặt, chăm chú quan sát, đợi đến lúc ông ta ngẩng đầu lên. Nhưng kẻ lạ mặt này còn đang mải mê ngắm nghía cái tặng vật bất ngờ của rừng nên Assol có đủ thì giờ quan sát kĩ càng ông ta từ đầu đến chân và nhận ra rằng trước giờ nó chưa hề trông thấy ai như nhà ông này.
Trước mặt cô bé là Egle - nhà sưu tầm nổi tiếng thường chu du khắp thế gian, sưu tầm các câu chuyện cổ tích, các bài ca, các truyền thuyết, giai thoại lưu truyền trong dân gian. Những chùm tóc bạc rủ xuống khỏi mũ rơm; chiếc áo ngoài xám nhét trong quần xanh lá cây, đôi ủng cao cổ khiến ông trông giống một bác thợ săn; cổ áo sơ mi trắng toát, cà vạt, thắt lưng khảm bạc; cây ba - toong và chiếc túi có khóa mạ kền mới toanh chứng tỏ ông là người thành phố. Khuôn mặt của ông, nếu có thể gọi là mặt, gồm mũi, môi và mắt ló ra từ đám râu quai nón sum suê, từ bộ ria mép rậm rạp vểnh lên dữ tợn, sẽ đượm vẻ xanh xao bơ phờ nếu như không có cặp mắt xám màu cát, sáng rực như thép nguyên chất với cái nhìn quả cảm và mạnh mẽ.
- Bây giờ thì trả cho cháu đây, - cô bé rụt rè đòi. - Bác đã chơi với nó rồi mà, làm sao bác vớt được nó thế ạ?
Ông Egle ngẩng lên, để rơi cái thuyền buồm bởi giọng nói lo lắng của bé Assol đột ngột cất lên. Ông già thoáng đưa mắt quan sát cô bé, mỉm cười và chậm rãi vuốt chòm râu bằng bàn tay to tướng và gân guốc. Chiếc váy vải hoa bợt màu vì giặt nhiều không phủ kín hai đầu gối gầy gò rám nắng của cô bé. Mái tóc dày sẫm nằm gọn dưới chiếc khăn chéo thêu ren buông chấm vai. Từng nét trên khuôn mặt cô bé đều toát lên vẻ nhẹ nhõm và trong trẻo như cánh én liệng. Cặp mắt sẫm phảng phất nét buồn có vẻ già dặn hơn khuôn mặt trái xoan mềm mại không cân đối với làn da trắng hồng nay phủ một lớp rám nắng tuyệt đẹp. Cặp môi thanh hé mở sáng rực bởi nụ cười dịu dàng.
- Thề có Grim, Aesop và Andersen, - ông Egle nói, hết nhìn cô bé lại nhìn cái thuyền buồm, - đây là một thứ rất đặc biệt đấy! Nghe này, nhánh cỏ xinh của bác! Cái này của cháu đấy à?
- Vâng, cháu phải chạy hết con suối này vì nó đấy. Cháu tưởng đến chết mất, thì ra nó ở đây.
- Ngay dưới chân bác. Nạn đắm tàu là nguyên nhân để bác với tư cách một cướp biển trên cạn có dịp trao tặng cháu phần thưởng này. Con thuyền rời bỏ đội hình đã bị một con sóng ba chóp ném lên bờ cát, giữa gót chân trái và mũi gậy của bác đây. - Ông đập đập cây ba-toong. - Cháu tên là gì vậy hả cô nhóc?
- Assol ạ, - cô bé trả lời, cất ngay món đồ chơi ông Egle vừa trao vào giỏ.
- Tốt thôi, - ông già lại tiếp tục cách nói khó hiểu, không rời khỏi cặp mắt cô bé đang ánh lên nét cười cợt của một người bản tính thân thiện. - Thật ra bác cũng chẳng nhất thiết phải hỏi tên cháu. Cũng may là cái tên ấy nghe lạ lắm, nhịp nhàng, giàu âm điệu, cứ như tiếng rít của mũi tên bắn, hay là tiếng ngân vang trong ốc biển ấy. Ta còn biết làm gì nếu không thừa nhận cháu có một trong những cái tên đến là du dương nhưng cũng lại thông dụng không chịu được, hoàn toàn khác xa với điều kì diệu chưa - được - biết - đến. Thêm nữa, ta cũng chẳng mong muốn biết cháu là ai, cha mẹ cháu làm gì, cháu sống ra sao. Làm mất đi sự hấp dẫn làm gì cơ chứ? Ta ngồi đây, nghiên cứu trên phiến đá này, lần lượt so sánh những cốt truyện cổ tích của Phần Lan và Nhật Bản… Rồi bỗng nhiên dòng suối đưa chiếc thuyền buồm này đến, còn sau đó cháu hiện ra…Như thế này đây. Cháu xinh xẻo ạ, tự tâm hồn ta chính là một nhà thơ đấy, dù ta chẳng làm thơ bao giờ. Cháu có những thứ gì trong giỏ thế?
- Những chiếc thuyền nhỏ thôi ạ, - Assol nói, lắc lắc cái giỏ, - rồi tàu thủy nữa, và còn ba cái nhà có cắm cờ. Những chú lính sống trong đó.
- Tuyệt quá! Cháu được dặn phải đem chúng đi bán. Nhưng dọc đường cháu lấy chơi thử. Cháu thả cho cái thuyền bơi, còn nó thì chạy đi mất. Đúng không?
- Chẳng lẽ bác nhìn thấy? - Assol băn khoăn hỏi, cố nhớ lại xem mình có kể gì cho bác ta nghe không. - Ai nói với bác phải không ạ? Hay bác tự đoán ra?
- Bác biết hết.
- Sao bác lại biết được nhỉ?
- Bởi vì bác là ông Tiên thần thông quảng đại nhất mà lị.
Assol bối rối, khi nghe những lời trên của ông Egle, sự căng thẳng của nó chuyển sang thành nỗi khiếp sợ. Bãi biển hoang vu, sự vắng vẻ, cuộc rượt đuổi mệt mỏi với chiếc thuyền buồm, những câu nói khó hiểu của ông già có cặp mắt sáng ngời, bộ râu quá cỡ và mái tóc ánh thép khiến cho cô bé cảm thấy một sự pha trộn của thực tại và siêu nhiên. Lúc này chỉ cần ông Egle nhăn mặt hay quát lên một tiếng là cô bé sẽ bỏ chạy thục mạng, òa khóc và lả đi vì khiếp sợ. Nhưng ông Egle, nhìn thấy cặp mắt trố lên của cô bé, đã làm ngược lại hoàn toàn.
- Cháu không việc gì phải sợ bác, - ông nghiêm trang nói. - Ngược lại bác muốn trò chuyện chân tình với cháu đấy mà.
Đến lúc ấy, ông mới nhận ra điều gì trên gương mặt cô bé lại có thể gây ấn tượng sâu sắc đến thế cho ông: “Sự chờ đợi tự nhiên một điều kì diệu, một số phận tốt lành, - ông quả quyết. - A, tại sao ta sinh ra chẳng phải là một nhà văn nhỉ? Một đề tài mới tuyệt làm sao?”
- Mà này, - ông Egle nói tiếp, cố gắng bình thường hóa cái hoàn cảnh khá khác thường này, (thiên hướng thích cổ-tích-hóa mọi vấn đề như một thứ bệnh nghề nghiệp - xem ra đã át được nỗi e ngại sẽ gieo một hạt mầm ước mơ quá lớn lao xuống một lớp đất hoang). - Này, Assol, chú ý nghe bác nhé. Bác đã ở cái làng, có lẽ là làng của cháu; tóm lại bác đã ở Kaperna. Bác rất yêu các câu chuyện cổ tích, những bài dân ca, bác đã la cà trong làng suốt ngày hôm qua, cố tìm nghe cho được một cái gì chưa ai nghe thấy bao giờ. Nhưng dân làng cháu không kể chuyện cổ tích, mà người ta cũng chẳng hát hỏng gì ráo. Còn nếu có kể hay hát, thì cháu biết không, toàn chuyện về những gã nông dân và đám lính tráng láu tôm láu cá, cùng sự tán dương không ngớt của những ngón bịt bợm, bẩn thỉu như bàn chân không rửa, thô thiển như tiếng bụng sôi òng ọc, lại còn cả những bài vè bốn câu ngắn tủn với những giai điệu thật khủng khiếp… Gượm hẵng nào, bác lại lạc đề rồi. Bác lại huyên thuyên rồi, để bác bắt đầu lại.
Nghĩ một thoáng, ông lại nói tiếp như thế này:
- Bác không biết bao năm nữa sẽ trôi qua, chỉ biết rồi đây khắp Kaperna này sẽ lưu truyền một huyền thoại dài lâu. Cháu rồi sẽ lớn lên Assol ạ. Một sớm mai ở nơi chân trời gặp bể, dưới ánh mặt trời sẽ cháy rực lên một cánh buồm đỏ thắm. Cánh buồm khổng lồ rực rỡ trên một con tàu trắng muốt đang phăng phăng rẽ sóng tiến thẳng đến với cháu. Con tàu này lướt đi trong yên lặng, không có tiếng reo hò cũng chẳng có tiếng súng chào; rất đông người đang tụ tập trên bờ biển, thi nhau trầm trồ vì kinh ngạc. Con tàu uy nghi tiến vào bờ trong tiếng nhạc tuyệt vời; một chiếc thuyền sang trọng, dát vàng, trải thảm và phủ đầy hoa rời con tàu bơi nhanh vào bờ. “Ngài đến đây làm gì? Ngài tìm ai?” Mọi người trên bờ cất tiếng hỏi. Khi đó cháu sẽ nhìn thấy một chàng hoàng tử tuấn tú và dũng mãnh, chàng sẽ đứng lên và chìa tay về phía cháu: “Chào Assol! - Chàng nói. - Từ nơi xa, rất xa, ta thấy em trong mơ và ta đến đây để đưa em vĩnh viễn rời đến vương quốc của ta. Em sẽ sống ở đó cùng ta, trong thung lũng hoa hồng xanh. Em sẽ có tất cả những gì em mong ước, chúng ta sẽ sống thuận hòa và vui vẻ bên nhau, lòng em sẽ chẳng bao giờ biết đến đắng cay hay muộn phiền”. Rồi chàng sẽ đưa cháu xuống thuyền, bơi ra tàu. Cháu sẽ đi luôn tới một đất nước rực rỡ, nơi mặt trời ló rạng và những ngôi sao lặn xuống chào đón cháu tới nơi.
- Tất cả là vì cháu đấy ư? - Cô bé hỏi nhỏ.
Cặp mắt cô sáng bừng lên ánh tin cậy. Một lão phù thủy nguy hiểm tất nhiên chẳng bao giờ nói như vậy; cô tiến lại gần hơn.
- Có lẽ, nó đã đến mất rồi…Con tàu ấy?
- Chẳng nhanh thế đâu, - ông Egle phản đối. - Đầu tiên, như bác đã nói, cháu phải lớn lên cái đã. Sau đó… Thế nào nhỉ? Điều đó sẽ tới, và thế là xong. Cháu sẽ làm gì khi đó?
- Cháu ấy à? - Cô bé nhìn vào giỏ, nhưng rõ ràng chẳng tìm thấy gì để làm phần thưởng cho xứng đáng. - Cháu sẽ yêu chàng - cô bé trả lời vội vàng và rồi có phần do dự, - nếu chàng không hay đánh lộn.
- Không, chàng sẽ không đánh lộn đâu, - ông già Tiên khẳng định, nháy mắt như một bí ẩn, - không đâu, bác đảm bảo về điều đó. Đi đi cô bé và đừng quên những gì ta đã nói với cháu giữa hai ngụm vodka thơm và những suy ngẫm về những bài ca của những người tù khổ sai đấy nhé. Đi đi! Và cầu cho cháu luôn được yên vui.
Ông Longren đang đào khoai tây trong mảnh vườn rau bé nhỏ của mình. Ngẩng lên, ông thấy bé Assol đang cắm đầu chạy về phía ông, vẻ mặt hân hoan nôn nóng:
- Cha ơi, cha… - Nó cất lời, ngồi phệt xuống lấy hơi và túm chặt cả hai tay vào tạp dề của người cha. Cha ơi, con kể cha nghe nhé… Ngoài bãi, tận đằng xa tít kia kìa, có một ông già Tiên đang ngồi…
Nó bắt đầu bằng câu chuyện về ông già Tiên và lời tiên tri của ông ta. Ý nghĩ nóng hổi, dồn dập khiến nó không kể được mạch lạc ra đầu ra đũa. Sau đó, nó tả lại hình dáng ông già ấy, đến tận cuối cùng nó mới kể cuộc đuổi vớt món đồ chơi bị trôi mất.
Ông Longren lắng nghe con bé không cắt ngang, không cười nhạo, và khi nó kết thúc ông hình dung ngay ra ông già kì lạ ấy - một tay cầm rượu Vodka thơm, tay kia nâng món đồ chơi nhỏ. Ông đã chực quay đi nhưng chợt nhớ ra rằng, những sự việc đặc biệt như thế bao giờ cũng được lũ trẻ con coi là nghiêm túc và lạ thường, nên ông trang trọng gật đầu và bảo rằng:
- Vậy à, vậy à… Xem ra thì đúng là ông Tiên rồi. Cha cũng muốn gặp ông ấy một lần… Nhưng mà con này, khi nào phải đi như lần này thì con chớ có rẽ ngang rẽ ngửa nữa nhé, dễ lạc vào rừng lắm đấy.
Quẳng chiếc xẻng qua một bên, ông ngồi xuống hàng dậu gỗ thấp và đặt con gái lên đầu gối mình. Mệt bã người mà con bé vẫn cố kể thêm những chi tiết khác của cuộc gặp gỡ; nhưng nóng bức cùng nỗi hồi hộp rã rời đã khiến nó thiếp đi. Mắt nó ríu lại, đầu gục xuống bờ vai rắn chắc của cha, bỗng nhiên - lẽ ra nó đã chìm vào sứ xở của chiêm bao rồi - nhưng bỗng nhiên, một nỗi bất an chợt vụt đến, khiến nó bật thẳng dậy, mắt vẫn nhắm, cánh tay dựa vào áo gilê của cha, nó nói to:
- Cha bảo sao: Con tàu thần thông ấy có đến đón con không cha?
- Đến chứ, - bác thủy thủ điềm đạm trả lời, - ông già ấy đã bảo con như thế có nghĩa mọi chuyện sẽ đúng là như thế đấy.
“Lớn lên nó khắc quên đi, - ông nghĩ bụng, - còn bây giờ… Việc gì phải lấy đi của nó một thứ đồ chơi như thế. Rồi con sẽ phải nhìn thấy nhiều thứ cánh buồm, chẳng hề đỏ đắn gì đâu, mà bẩn thỉu, ác thú: Nhìn xa thì đoàng hoàng, trắng trẻo; lại gần thì sao: Rách bươm, và đểu giả. Một kẻ qua đường đã bỡn cợt với con bé của tôi. Thì sao nào?! Chỉ là trò đùa vô thưởng vô phạt mà thôi! Không sao - đùa ấy mà! Xem này, lả cả người đi này, - nửa ngày ở trong rừng còn gì. Còn về những cánh buồm đỏ thắm, cứ nghĩ như cha đây: Sẽ có những cánh buồm đỏ thắm cho con.”
Bé Assol đã ngủ. Ông Longren đưa cánh tay còn rỗi lấy thuốc hút, gió đưa mùi thuốc bay qua hàng rào và đám bụi cây mọc bên ngoài vườn rau. Trong bụi cây, một gã hành khất đang ngồi dựa lưng vào hàng rào, gặm bánh nướng. Câu chuyện giữa hai cha con nhà nọ khiến gã hứng chí, mùi thuốc lá thơm khiến gã nổi cơn thèm.
- Ông chủ ơi, cho kẻ khó này xin điếu thuốc với nào, - gã hỏi vọng qua đám cành lá. - So với thuốc của ông, thuốc của tôi chẳng phải là thuốc mà là cỏ độc.
- Tôi cho anh thôi, - Longren khẽ trả lời, - nhưng thuốc của tôi nằm ở túi bên này. Mà tôi, anh thấy đấy, tôi không muốn làm con bé thức giấc.
- Gớm thế kia à! Trẻ con thức rồi lại ngủ, còn kẻ qua đường lại có thuốc hút.
- Ồ, - ông Longren phản đối, - anh đâu đã hết thuốc, còn con bé đang mệt quá. Nếu muốn, ghé lại đây sau nhé.
Gã hành khất nhổ phì phì khinh bỉ, chọc cái gậy vào tay nải và tuyên bố:
- Rõ rồi, nàng công chúa kia mà! Ông nhét vào đầu nó cái ý nghĩ về con tàu cổ tích! Ê, ông, đồ rồ. Thế mà cũng là ông chủ cơ đấy!
- Nghe này, - ông Longren thì thào, - ta sẽ đánh thức nó nhưng là để chẹt cứng cái họng to của anh thôi đấy, cút ngay đi!
Nửa giờ sau, gã hành khất đã ngồi bên bàn trong quán rượu, cạnh cả tá dân đánh cá. Ngồi đằng sau bọn họ, lúc thì giật khuỷu tay chồng, lúc quàng qua vai họ mà với lấy li rượu - để mình uống, tất nhiên rồi - là đám đàn bà đẫy đà, lông mày rậm và những cánh tay mập tròn như đá cuội. Gã hành khất, lòng đầy bực dọc, đang kể lể:
- …Và chẳng cho tôi thuốc hút. “Khi nào con đến tuổi trưởng thành, - lão nói, - sẽ có riêng một con tàu rõ đẹp… đến đón con. Vì đó là phận của con - lấy một chàng hoàng tử.” Lão bảo hãy tin vào cái tay thầy pháp ấy. Tôi thì bảo: “Đánh thức, đánh thức con bé dậy đi, lấy cho tôi ít thuốc lá.” Thế là lão tống cổ tôi đi.
- Ai thế? Cái gì thế? Đang nói về chuyện gì vậy? - Xôn xao những câu hỏi tò mò của đám đàn bà.
Những tay dân chài, cựa quậy đầu, giải thích vẻ giễu cợt:
- Lão Longren với đứa con gái lánh đời ấy mà, có lẽ bị mất trí rồi. Đấy, nhà anh này đang kể đấy. Thế nào nhỉ, có ông già Tiên đã ở nhà họ. Họ đang chờ - các mụ ạ, lẽ ra các mụ cũng đừng có mà bỏ lỡ cơ hội! - Một chàng hoàng tử hải ngoại, và lại còn dưới những cánh buồm đỏ thắm nữa cơ chứ.
Ba ngày sau, từ một cửa hiệu ngoài thành phố về, Assol lần đầu tiên nghe thấy:
- Ê, con mộng du! Assol! Nhìn xem những cánh buồm đỏ thắm đang bơi tới kia kìa!
Cô bé giật mình, bất chợt nhìn ra vịnh biển. Rồi nó cố quay lại tìm nơi phát ra âm thanh, ở đằng kia, cách nó chừng hai chục bước, một đám trẻ con đang đứng. Chúng nhăn mặt, thè lưỡi ra giễu cợt nó. Con bé thở dài chạy về nhà.