Nếu như Caesar nhận thấy rằng, thà làm số một ở nhà quê còn hơn đứng số hai ở thành Rome, thì Arthur Gray không thể suy bì gì được với ước nguyện thông thái ấy của Caesar. Chàng sinh ra để trở thành một thuyền trưởng, ước mong và đã trở thành thuyền trưởng.
Tòa lâu đài nơi chàng sinh ra, tối tăm ở bên trong và bề thế ở bên ngoài. Mặt tiền lâu đài là một vườn hoa nối liền với một phần của khu vườn lớn. Những giống uất kim hương quý hiếm nhất: Xanh ánh bạc, tím và đen ánh hồng, uốn mình thành luống, như những chuỗi hạt quăng xòa trên bãi cỏ. Cây lưu niên trong vườn mơ màng tỏa bóng râm nhập nhoạng xuống đám cỏ lác mọc bên cạnh con lạch nhỏ. Tường vây bao quanh lâu đài - một lâu đài thực sự - gồm những hàng cột gang xoắn, nối với nhau bởi những lớp hoa văn sắt. Trên đỉnh mỗi cột ngang là một cái chậu nhỏ xòe rộng hình hoa huệ tây lộng lẫy. Vào những dịp lễ tết, những cái chậu nhỏ này sẽ được đổ đầy dầu, thắp bừng lên những quầng lửa sáng rực rỡ giữa bóng đêm.
Cha mẹ Gray là những nô lệ hợm hĩnh, bắc bậc của chính địa vị, sự giàu sang và những lề luật trong xã hội đã sinh ra họ - một xã hội mà khi nói đến nó họ có thể xưng là “chúng ta” được. Một phần tâm trí họ bị chiếm lĩnh bởi cái gallery chứa đầy chân dung các bậc tổ tông, dù khó có thể gọi đó là một gallery; còn phần khác là những trăn trở làm sao để duy trì và phát triển cái gallery đó: Bắt đầu từ cậu bé Gray - người đã được định sẵn cả một kế hoạch sẽ phải nối gót cha ông như thế nào để khi được treo trên tường kia, chân dung của cậu sẽ không làm hổ danh gia tộc.
Trong kế hoạch đó lại để sót một lỗi nhỏ: Arthur Gray được sinh ra với một tâm hồn phong phú sôi động, tràn đầy nhựa sống, chẳng hề có thiên hướng kế tục hay làm rạng danh dòng dõi của gia đình.
Tính linh lợi của cậu bé đã bộc lộ từ năm thứ tám trong cuộc đời cậu, dưới dáng dấp một trang hiệp sĩ đầy những ý tưởng kì cục, kẻ kiếm tìm và là kẻ chuyên làm những điều khác lạ. Điều đó có nghĩa là luôn lãnh về mình hằng hà sa số những trách nhiệm khác nhau trong cuộc sống, trách nhiệm gian nguy và đáng xúc động nhất - vai trò tiên tri. Người ta có thể thấy ngay điều này khi cậu bé Gray đặt một chiếc ghế cạnh tường và leo lên hòng với tới bức tranh Chúa bị đóng đinh câu rút. Cậu bé nhổ chiếc đinh từ bàn tay thấm máu của Jesus - hay nói cho đơn giản là quét đè một lớp sơn xanh cậu lấy trộm được của ông quét vôi lên lớp màu đỏ. Xong xuôi đâu vào đó, cậu thấy bức tranh trông đã dễ nhìn hơn nhiều. Và mải mê công việc ấy, cậu bắt đầu quét phủ cả lên vết đinh ở chân Chúa. Nhưng cậu đã bị người cha tóm được. Ông xách tai, nhấc cậu khỏi chiếc ghế và cật vấn:
- Tại sao con phá hỏng bức tranh?
- Con không phá.
- Đây là tác phẩm của một họa sĩ nổi tiếng.
- Con chẳng quan tâm, - Gray nói, - con không thể để người ta đóng đinh vào tay và làm chảy máu người khác ngay trước mặt mình được. Con không muốn như vậy.
Nghe con trả lời, Lionel Gray giấu nụ cười sau bộ ria, biết rằng mình sẽ không trừng phạt cậu con trai.
Gray tìm hiểu tòa lâu đài không biết mệt mỏi và khám phá được vô số điều đáng kinh ngạc. Trên gác thượng cậu tìm thấy một bộ đồ hiệp sĩ bằng thép, những cuốn sách bện bằng sắt và da, những bộ trang phục đã mủn và từng bầy chim bồ câu. Trong hầm chứa rượu vang, cậu thu nạp những kiến thức kì thú về các loại rượu Laffitte, Madeira và anh đào. Ở đây, dưới làn ánh sáng đùng đục xuyên qua lớp ô kính cửa sổ nhọn hoắt cùng những cửa tò vò chéo hình tam giác, là những thùng tônô nhỏ to đủ loại. Cái lớn nhất, to bè, nhẵn nhụi, chiếm cả phần tường trước cửa nhà hầm, sẫm màu, gò bằng thứ gỗ sồi bách niên nên nước bóng loáng. Nằm giữa đám thùng tônô là những chiếc giỏ đan đựng các chai thủy tinh bụng phình màu xanh xanh. Xuyên qua kẽ đá và lớp đất nền là những đám nấm xam xám cuống khẳng khiu, chen chúc nhau mọc lên; mùi mốc meo, ẩm ướt, mùi chua nồng, ngột ngạt và mùi rêu ám khắp mọi nơi. Từ trong góc xa kia, những tia nắng cuối ngày dát vàng lên một tấm mạng nhện khổng lồ.
Còn chỗ này chôn hai thùng rượu Alicante loại ngon nhất, cất từ thời Cromwell. Bác trông hầm rượu, khi chỉ các góc rỗng cho Gray, không bỏ lỡ cơ hội kể lại lần nữa câu chuyện về cái hầm mộ nổi tiếng - nơi toàn các thi hài còn sống động hơn cả đàn chó Fox Terrier đang sống kia. Mở đầu câu chuyện, người kể không quên kiểm tra xem cái vòi ở thùng rượu có vặn được trơn tru không. Khi rời khỏi đó với tiếng thở phào nhẹ nhõm, trong cặp mắt bác ta lấp lánh ánh mãn nguyện.
- Đấy, - bác Poldichoque nói với Gray, vừa ngồi xuống chiếc hòm rỗng, hít một hơi thuốc lá qua cái mũi nhọn hoắt, - cháu nhìn thấy chỗ này chưa? Ở đó chứa thứ rượu vang mà bất kì gã nghiện ngập nào ở trên đời cũng sẵn sàng chịu bị cắt lưỡi để được thưởng thức một ly nhỏ. Mỗi thùng chứa một trăm lít thứ chất lỏng đánh thức tâm can và biến thân thể con người ta thành thứ bột nhão mềm. Thứ vang màu anh đào sẫm và đặc quánh đến không chảy khỏi chai được. Nó đặc như kem sữa loại xịn, nó được chứa trong những thùng gỗ sẫm màu, rắn như sắt, đánh hai lớp đai đồng đỏ. Trên đai thùng có ghi dòng chữ Latin: “Ngài Gray sẽ uống tôi trên Thiên đường.” Dòng chữ này được diễn giải một cách bất nhất và dài dòng. Cụ tổ cháu - cụ Simeon dòng dõi cao quý - khi xây dựng khu nhà nghỉ, đã đặt tên cho nó là “Thiên đường”, và nghĩ bằng cách này cụ đã hài hòa được câu châm ngôn huyền bí với hiện thực bằng một sự dí dỏm vô hại. Nhưng cháu biết làm sao không? Cụ đã qua đời khi vừa bắt tay vào phá đai thùng rượu. Bị vỡ tim, cụ già hảo ngọt đó hồi hộp quá mà. Thế là cho đến tận giờ, chẳng ai dám đụng đến cái thùng đấy nữa. Có người cho rằng, thứ vang quý giá này sẽ mang đến điều bất hạnh. Thực ra, con nhân sư Ai Cập cũng chẳng đưa ra câu đố nào hóc hiểm như thế. Sự thật là nó đã hỏi một nhà thông thái. “Ta có nên ăn thịt nhà ngươi như đã xơi tất cả hay không, hãy nói cho thật thì sẽ được tha mạng.” Nhưng nếu nghĩ cho kĩ thì…
- Hình như, cái vòi lại rỏ giọt, - bác Poldichoque tự cắt ngang câu chuyện của mình, bước vội vào góc nhà, vặn chặt cái vòi lại, rồi quay trở ra cùng nét mặt rạng rỡ, hồ hởi.
- Phải, cứ nghĩ cho thật chín, nhưng cái chính là đừng có mà vội vàng, nhà thông thái lẽ ra phải bảo con nhân sư: “Ta cùng uống đi, anh bạn, rồi sẽ quên phứt những điều ngu ngốc kia!” “Ngài Gray sẽ uống tôi trên Thiên đường!” Phải hiểu thế nào nhỉ? Thế nghĩa là cụ sẽ uống nó trên Thiên đường à? Thế thì lạ thật. Vậy tức là cụ là Thánh, dĩ nhiên cụ không uống rượu vang, mà cũng chẳng uống loại vodka thường. Còn nếu cứ cho rằng “Thiên đường” có nghĩa là hạnh phúc đi, thì khi ấy lại đặt ra một câu hỏi, mọi hạnh phúc đều sẽ mất đi phân nửa cái lấp lánh của nó khi kẻ hạnh phúc lại còn tự hỏi mình: Có phải Thiên đường không nhỉ? Đấy, sự thể là thế đấy. Để uống thứ vang từ cái thùng này và vui cười một cách thoải mái, cậu bé của tôi ạ, vui cười rõ thỏa thuê, còn phải một chân dẫm trên mặt đất, còn chân kia thì lơ lửng giữa trời. Còn một giả thuyết thứ ba nữa, rằng đó là ám chỉ cái lúc ngài Gray uống rỗng cả thùng rượu và say bí tỉ như đang được tọa hưởng cái lạc thứ bồng bềnh ở nơi Thiên đường. Thế nhưng, cậu bé, đó lại không còn là điều tiên tri thành sự thật nữa, mà là màn lộn xộn ở quán rượu mất rồi.
Khẳng định lại một lần nữa, rằng cái vòi đã được vặn chặt chắc chắn, bác Poldichoque kết thúc một cách ai oán:
- Cái thùng này cụ tổ John Gray của cháu mang từ Lisbon về năm 1793, trên con tàu “Beagle”; tiền chi cho rượu mất tới hai ngàn đồng Piaster2 vàng. Dòng chữ trên thùng rượu do Benjamin Ellian - thợ rèn vũ khí bậc thầy ở Pondisherry - khắc. Cái thùng được vùi sâu tới sáu foot3 và rắc một lớp dày thứ tro đốt từ dây nho. Thứ vang này chưa ai từng được uống.
2 Tiền cổ Tây Ban Nha
3 Đơn vị đo của Anh, 1 foot = 30,5cm
- Cháu sẽ uống nó, - một bận cậu bé Gray dậm chân quả quyết vậy.
- Một anh chàng dũng cảm đây! - Bác Poldichoque nhận định. - Cháu sẽ uống nó ở Thiên đường hẳn?
- Tất nhiên. Đây Thiên đường! Nó ở chính trong cháu đây, bác nhìn thấy chưa? - Gray khẽ cười, xòe bàn tay bé nhỏ của mình ra. Bàn tay mềm nhưng đã có những nét rắn rỏi, hứng lấy nắng trời, rồi cậu bé nắm chặt tay lại thành nắm đấm. - Đây, nó đây! …Thoắt ẩn thoắt hiện…
Vừa nói, cậu vừa xòe bàn tay ra, rồi lại nắm chặt vào. Cuối cùng, khi đã thỏa mãn với trò đùa của mình, cậu chạy vụt lên trước bác Poldichoque, theo cầu thang tối om xuống hành lang tầng dưới.
Gray bị cấm chỉ không được xuống nhà bếp. Nhưng một khi đã khám phá ra cái thế giới kì lạ bốc hơi mù mịt bởi những cái bếp lò ngùn ngụt lửa, những lớp bồ hóng, những tiếng xèo xèo, tiếng ùng ục của món hầm đang sôi, tiếng dao thớt cùng những mùi vị ngon lành, cậu bé luôn tận tình thăm viếng cái cấm địa mênh mông ấy. Các đầu bếp chuyển động trong bầu không khí yên lặng khắc nghiệt như những vị tư tế đang hành lễ. Những cái mũ chụp trắng của họ nổi bật trên những tường xám xịt khiến cho công việc mang một màu sắc phụng sự thiêng liêng. Những bà rửa bát béo tốt, vui tính đứng rửa chén bát bên các chậu nước, tiếng đồ đạc và đồ sứ chạm nhau lanh canh, lách cách. Các cậu nhỏ gò lưng bê những giỏ đầy cá, sò, tôm và rau quả. Ở đằng kia, trên một cái bàn dài nằm la liệt những chú chim trĩ sặc sỡ, những chú vịt lông ánh bạc những gã gà trống diêm dúa trên đó còn có một chú lợn móc hàm với cái đuôi ngắn tủn và cặp mắt ngây ngô nhắm chặt. Lại còn xếp chật các loại củ cải, hạt dẻ, nho xanh và những quả đào chín rực.
Ở nhà bếp, Gray có vẻ khép nép hơn cậu cảm thấy một sức mạnh hắc ám đang điều khiển mọi thứ ở đây, uy quyền của chúng chính là động lực chủ yếu duy trì sự sống của lâu đài. Tiếng gọi vang vang giống như những câu thần chú, hành động của những người làm bếp được mài giũa qua nhiều năm đã hóa thuần thục chính xác - một sự chính xác tối đa cho cảm giác giống như một niềm hứng khởi. Gray chỉ đủ cao để nhòm vào được cái nồi to nhất đang sôi sùng sục, nhưng đối với nó cậu bé có một sự nể vì đặc biệt. Cậu run rẩy quan sát hai chị hầu gái khiêng nó ra khỏi bếp. Từ trong bếp lò tuôn ra từng cuộn khói và hơi nước bốc lên cuồn cuộn như những đợt sóng phủ kín cả gian bếp. Một bận hơi bốc lên từ cái nồi hầm ghê quá đến nỗi làm bỏng tay một cô gái. Làn da lập tức đỏ ửng lên, các đầu móng tay đỏ mọng bởi máu tụ, và Betsy (tên cô hầu gái đó) vừa khóc sụt sịt vừa bôi dầu lên những chỗ bị bỏng. Nước mắt tuôn lã chã trên khuôn mặt còn khiếp sợ của cô gái.
Gray lặng cứng người. Trong lúc các bà, các cô đứng xúm lại chăm sóc cho Besty, một cảm giác đau đớn ghê gớm - một cảm giác mà cậu không thể lí giải nổi - xộc thẳng vào tâm can cậu bé, khiến cậu như không chịu nổi.
- Chị đau lắm phải không? - Cậu bé hỏi.
- Cậu cứ thử đi rồi khắc biết, - Besty trả lời, giấu bàn tay vào trong tạp dề.
Nhíu mày, cậu bé trèo lên chiếc ghế cập kênh, vừa múc món gigi4 nóng bằng một chiếc thìa dài và đổ tóe lên khủy tay của mình. Ấn tượng xem ra chẳng phải là vừa nhưng sự kiệt sức bởi cái đau rát bỏng khiến cậu lảo đảo. Xanh như chàm đổ, Gray lại gần bên Besty, cánh tay bị bỏng giấu trong túi quần.
4 Món súp thịt cừu
- Em cảm thấy rằng chị rất đau, - cậu nói, cố quên đi cái đau của mình. - Đi nào, Besty, đi đến bác sĩ. Đi ngay đi nào!
Cậu xăng xái kéo vạt váy của cô gái lúc này đang lắng nghe đám gia nhân, nhân lúc nghỉ giải lao, bày cho cô cách trị bỏng. Besty đau quá liền đi theo Gray. Bác sĩ làm giảm cơn đau, băng bó lại vết bỏng. Chỉ sau khi Besty đi khỏi, cậu bé mới chìa cánh tay của mình ra.
Sự cố nho nhỏ đã gắn kết cô gái Besty hai mươi tuổi và cậu bé Gray mười tuổi thành đôi bạn thân thiết. Cô gái luôn nhét đầy túi Gray bánh nướng ngọt và những trái táo. Còn cậu bé thì kể cho cô gái nghe những câu chuyện cậu đọc được ở trong những quyển sách của mình. Một bận Gray được biết Besty không thể lấy chàng coi ngựa Jim chỉ vì họ không có tiền làm vốn liếng lập nghiệp, cậu đã dùng chiếc kẹp cời lò sưởi đập vỡ ống tiết kiệm bằng sứ của mình và nhặt tất cả số tiền trong đó ra, được khoảng gần một trăm bảng. Dậy thật sớm, nhằm đúng lúc cô gái không có của hồi môn ở dưới bếp, cậu lén vào phòng cô, nhét món quà vào rương để đồ của cô, đè lên đó một mẩu thư nhỏ: “Besty, đây là của chị. Thủ lĩnh lục lâm Robin Hood”. Câu chuyện gây xôn xao ở dưới nhà đến mức Gray đành phải thú nhận mình chính là kẻ giả danh. Cậu không chịu nhận lại số tiền và không muốn bàn cãi thêm gì về chuyện này nữa.
Mẹ Gray thuộc tuýp người rót cả cuộc đời vào mỗi một việc sửa soạn, sắm sanh trang phục. Bà mơ màng trong kiếp sống nhàn hạ, vương giả, với những ước muốn luôn được thỏa mãn. Vì thế bà chẳng kịp làm gì ngoài việc đi thăm viếng các chị thợ may, ông đốc tờ và các quản gia. Nhưng sự gắn bó đam mê pha sùng bái của bà đối với cậu con trai kì quặc có lẽ đã lấn át mọi thứ đam mê ở bà - con người đã chai mòn vì số phận và nền giáo dục. Những suy nghĩ của bà chẳng bao giờ rõ rệt mà chỉ lang thang vật vờ, khiến lí trí trở nên tê liệt. Quý bà quý phái này gợi nhớ đến hình ảnh của một con công mái ngồi ấp một tổ trứng thiên nga. Bà đau đớn cảm nhận sự cô độc đẹp đẽ lạ thường của cậu con trai, nỗi buồn, nỗi e sợ và tình yêu tràn ngập tấm lòng khi bà ôm ghì cậu bé vào ngực mình, trái tim bà nói điều khác hẳn với những câu chữ đã trở nên khuôn sáo trong giao tiếp và suy nghĩ. Như thể một tác động của áng mây do nắng trời đỏng đảnh tạo ra những thâm nhập vào khung cảnh hài hòa của tòa nhà khuôn sáo, làm mất đi những nét vô vị của khung cảnh này, để rồi ta nhìn mà không còn nhận ta tòa nhà ấy nữa. Vẻ mờ ảo huyền bí của ánh sáng trên cái nghèo nàn vô vị đã tạo nên một sự hài hòa tráng lệ.
Quý bà, mà gương mặt cũng như dáng hình tưởng như chỉ là hiện thân của sự câm lặng băng giá trước tiếng gọi hừng hực của đời sống, có vẻ đẹp mong manh khiến người ta muốn lánh cho xa hơn là bị cuốn hút lại gần, bởi ở bà, ta chỉ cảm nhận thấy một nỗ lực hợm hĩnh của lí trí làm mất hẳn nét lôi cuốn quyến rũ của nữ tính. Quý bà Lillian Gray ấy, khi ở một mình bên cậu con trai, lại trở về là một người mẹ bình thường, nói bằng một giọng nói đầy dịu dàng thương mến những điều thân thiết vụn vặt chẳng thể viết ra trên giấy tờ - những thứ mà sức mạnh của chúng nằm trong tình cảm người nói chứ không phải trong câu chữ của lời nói. Bà không thể cự tuyệt con trai bất cứ điều gì. Bà tha thứ cho cậu mọi điều: Xuống bếp chơi, trốn học, không vâng lời và vô vàn những trò tinh quái khác.
Nếu cậu bé không muốn cây cối bị xén, cây cối sẽ không bị động đến, nếu cậu bé xin tha lỗi hay ban thưởng cho ai đó - người được xin biết chắc ngay rằng sẽ là như thế, cậu bé có quyền cưỡi bất kì con ngựa nào, dẫn theo bất kì con chó nào trong lâu đài, cậu có thể chúi mũi trong thư viện, chạy chân đất hoặc nhét vào bụng bất cứ thứ gì cậu thích.
Người cha đôi lần cũng thử ngăn cản sự vô lối này nhưng rồi đành phải quy hàng - không phải vì nguyên tắc mà vì nguyện vọng của người mẹ. Ông chỉ giới hạn lại ở một điểm là tống tất cả con cái của đám kẻ hầu người hạ khỏi lâu đài, sợ ảnh hưởng của cái tầng lớp thấp kém kia sẽ khiến thói dở dở ương ương của cậu con biến thành thiên hướng, khó trừ bỏ được. Nói chung, ông muôn đời bận bịu thẩm tra việc tố tụng của gia tộc mở màn từ thời xuất hiện các nhà máy làm giấy và chỉ kết thúc khi tất cả các vị có tranh chấp đã chẳng còn trên đời này. Ngoài ra, công vụ, việc thái ấp, việc chép hồi kí, tham dự những cuộc săn bắn lớn, đọc báo chí cùng những ghi chép phức tạp tách ông ra khỏi đời sống của gia đình. Ông ít gặp con trai đến nỗi đôi khi quên mất nó đã bao nhiêu tuổi.
Vậy là, Gray sống trong một thế giới của riêng mình. Cậu chơi nghịch một mình - thường là ở sân sau tòa lâu đài, nơi xưa kia thường được dùng vào những mục đích mang tính chiến lược. Những khoảng sân rộng mênh mông đó, ngổn ngang vết tích các hào lũy cao, những cái hầm phủ rêu, mọc lan tràn cỏ dại, tầm ma, ngưu bàng, mận gai và những đám hoa dại thuần phác khoe đủ màu sắc. Gray ngồi hàng giờ xem xét những cái hang chuột chũi, chiến đấu với đống cỏ dại, rình bắt những chú bướm, hay xây thành quách từ những viên gạch vỡ rồi lại giội bom xuống chúng bằng gậy gộc và đá cuội.
Cậu bé đã sang tuổi mười hai. Đây chính là thời điểm mọi mách bảo của tâm hồn, mọi đường nét tản mát của tâm linh, mọi sắc thái của những cảm hứng bí ẩn được tụ vào một khoảnh khắc mạnh mẽ, kết hợp hài hòa thành một ước vọng không thể ngăn trở nổi. Trước đó, cậu chỉ như tìm thấy từng mảnh rời khu vườn của mình: Tia sáng, cái bóng, bông hoa, cành cây rậm rạp, sum suê…Trong những khu vườn khác, và bỗng nhiên, cậu trông thấy chúng - khu vườn của mình - rõ ràng, sáng rỡ, tất cả trong một tổng thể hoàn mỹ đến ngỡ ngàng.
Điều này xảy đến trong thư viện.
Cánh cửa cao lớn của thư viện với lớp kính mờ ở phía trên luôn đóng im ỉm, nhưng chốt thường được cài lỏng lẻo trên ổ khóa, chỉ cần đẩy mạnh là cánh cửa bật tung ra ngay. Khi óc tò mò ưa nghiên cứu nổi lên, nó xui cậu bé đột nhập vào thư viện. Cậu ngỡ ngàng bởi lớp ánh sáng vẩn bụi, nơi mọi uy lực và những nét đặc sắc đều nằm trong lớp họa tiết màu ở phần trên ô kính cửa sổ. Bầu tĩnh lặng của lãng quên đọng lại đây như mặt nước ao tù. Từng dãy tủ đựng sách màu sẫm sịt nằm sát nhau và nhô lên che khuất quá nửa chiều cao cửa sổ. Chen giữa các tủ sách là những lối đi, sách chất từng đống. Ở đó, một quyển album để mở với những trang đã bị bong ra; ở đó còn chất đầy những cuộn giấy buộc dây vàng, những chồng sách nhăn nhúm, những tập bản thảo viết tay dày cộp, từng tệp, từng tệp tiểu họa mà nếu lật mở ra, chúng sẽ kêu loạt soạt như vỏ cây và từng chồng các loại biểu đồ, bảng kê, các tấm bản đồ bao gồm cả loại mới được xuất bản cùng các loại khung bìa cứng - thô, mềm, đen, sặc sỡ, xanh lá cây, xám, dày, mỏng, ráp, nhẵn. Có cảm giác chúng là bức tường thành chứa đựng cuộc sống trong chính bề dày của chúng. Mặt kính tủ này phản chiếu bóng hình tủ kia, phủ đầy những vệt sáng không màu. Một quả địa cầu to tướng được đặt trong một thập giá hình cầu bằng đồng, tạo nên bởi hai đường kinh tuyến và xích đạo, đứng trên một cái bàn tròn. Quay trở lại lối ra, Gray nhìn thấy phía trên cửa ra vào có treo một bức tranh rộng mà nội dung của nó lập tức trùm lấn lên bầu không khí đờ đẫn, bức bối của thư viện. Bức tranh vẽ một con tàu đang nhả khói chồm lên đỉnh một ngọn sóng lừng. Dòng bọt biển chạy dọc theo thân tàu. Con tàu được vẽ vào khoảnh khắc cuối cùng khi nó sắp bay vút lên tới đỉnh ngọn sóng. Nó lao thẳng vào tầm mắt người xem tranh. Sóng táp lên che khuất chân cột buồm. Ngọn sóng bị thân tàu xé đôi, tung ra hai bên trông như sải cánh của một con chim khổng lồ. Bọt sóng tung đầy không gian. Những cánh buồm nhập nhòe từ sân boong, cao hơn ngọn sóng, chịu đựng sức mạnh cuồng nộ của cuộc tấn công, vừa ngả dạp dáng vóc kềnh càng ra phía sau để tránh ngọn sóng lừng, lại lập tức vươn thẳng dậy, rồi sau đó chúi xuống hõm sóng, vụt nâng con tàu sang một luồng sóng khác. Những đám mây tả tơi vật vã sà sát xuống mặt đại dương. Ánh sáng mờ đục chống chọi một cách tuyệt vọng với bóng đêm đang lừ lừ lấn tới dần. Nhưng trong bức tranh này, cái tuyệt vời hơn cả chính là vóc dáng của con người đang đứng trên mũi con tàu, quay lưng về phía người xem tranh. Cái hình vóc đó lột tả tất cả tình hình, thậm chí tất cả bản chất của khoảnh khắc. Tư thế con người đó (ông ta đứng dạng chân, vung tay) thực ra chẳng nói lên được cái điều ông ta đang bận tâm, nhưng nó buộc ta phải dự đoán rằng ông ta đang dành một sự tập trung chú ý cao độ cho thứ gì đó ở trên bong tàu, nằm khuất tầm mắt người xem tranh. Vạt chiếc áo kaftan5 bị lật lên của ông ta đang bay phần phật trước gió, bím tóc bạc và thanh kiếm đen tung thẳng đứng trong không trung; cách ăn mặc sang trọng chứng tỏ ông là thuyền trưởng; tư thế như bay lên để nương theo ngọn sóng, đầu để trần. Rõ ràng, ông bị hút vào khoảnh khắc hiểm nghèo và đang quát lên: “Kìa sao thế?” Phải chăng ông đã trông thấy có người bị rơi từ trên tàu xuống biển, hay ông đang ra lệnh cho quay tàu về hướng khác, hay cố quát lên át tiếng gió, gọi viên thủy thủ trưởng. Không phải là ý tưởng, mà là bóng dáng của ý tưởng ấy đã nảy ra trong tâm hồn cậu bé Gray khi cậu ngắm bức tranh. Bỗng nhiên cậu cảm thấy, từ phía bên trái có một kẻ tàng hình vô danh tiến lại gần và đứng sát ngay cạnh cậu; chỉ cần ngoảnh đầu lại là cái cảm giác dị thường ấy sẽ lập tức biến mất tăm mất dạng. Gray thừa biết điều đó. Nhưng cậu không dập đi sự hình dung ấy, mà lắng nghe nó. Một giọng nói không âm thanh bật ra một vài câu rời rạc ngắt quãng, không thể hiểu nổi như tiếng Mã Lai vậy rồi mỗi chuỗi tiếng động ầm ầm như tuyết lở, tiếng vọng và tiếng gió âm u tràn ngập khắp thư viện. Gray nghe thấy tất cả những thứ đó từ bên trong lòng mình. Cậu nhìn quanh; bầu im lặng đông cứng vụt tan ra thành tấm mạng nhện ngân nga của trí tưởng tượng; mối liên hệ với giông bão đã biến mất tăm.
5 Kaftan: Áo dài không cổ của đàn ông Nga
Gray thường tới xem lại bức tranh. Nó trở thành một thứ ngôn ngữ cần thiết cho cuộc chuyện trò của nội tâm cậu bé với cuộc đời, không có nó cậu khó hiểu nổi cả chính mình. Biển cả mênh mông dần chiếm lĩnh tâm trí cậu. Cậu quen dần có nó khi chúi trong thư viện, bởi tìm và đọc ngốn ngấu những cuốn sách mà sau cánh cửa vàng của chúng dần hiện ra vầng xanh bao la của đại dương. Ở đó có những con tàu lướt sóng tung bọt lại phía sau. Một vài con tàu đã mất cánh buồm, cột buồm kẹt vào sóng, để rồi lao mình xuống vực thẳm đen ngòm của biển cả - nơi lấp lánh ánh lân tinh của những cặp mắt cá. Những con tàu khác, làm mồi cho lớp sóng bạc đầu, va đập vào đá ngầm; những con sóng đã dịu lắc hay hăm dọa thân tàu, con tàu bị bỏ hoang vắng tanh bóng người, thừng chão tả tơi, thoi thóp trong cơn hấp hối kéo dài, đợi một cơn dông gió mới xé tung nó ra thành muôn mảnh. Còn những con tàu kia, đã kịp cập bến yên lành, đang dỡ hàng sang tàu khác; đoàn thủy thủ ngồi quanh chiếc bàn trong quán rượu tung hô nghiệp chèo lái và mải mê uống rượu vodka. Nơi đó còn có những con tàu cướp biển với ngọn cờ đen và băng cướp khủng khiếp huơ đao kiếm; những con tàu ma lập lòe ánh chết chóc của thứ dự cảm xanh lét; các chiến thuyền chất đầy thủy binh, súng thần công và tiếng quân nhạc; những con tàu của các đoàn thám hiểm khoa học, khám phá, nghiên cứu những hỏa diệm sơn6, những loài thảo mộc, động thực vật; những con tàu bí hiểm và các cuộc nổi loạn; những con tàu khám phá và những con tàu phiêu du.
Trong cái thế giới này, vượt trên tất cả đương nhiên là dáng vóc người thuyền trưởng. Ông là số phận, là linh hồn, là trí tuệ của con tàu. Phẩm cách của ông quyết định hoạt động của con tàu và của đoàn thủy thủ. Đoàn thủy thủ do ông đích thân lựa chọn và hưởng ứng nhiều cái từ những thói quen, những khuynh hướng của ông. Người thuyền trưởng biết rõ những thói quen và hoàn cảnh gia đình của từng thành viên con tàu. Trong mắt các thủy thủ, ông là người thông thái, nắm giữ một lượng kiến thức khổng lồ, nhờ những kiến thức này ông có thể vững vàng tự tin đi từ Lisbon (chẳng hạn) tới Thượng Hải, giữa một vùng không gian mênh mông. Ông đẩy lùi dông bão bằng sự ứng phó với một chuỗi những nỗ lực đa dạng, dẹp tan cơn hốt hoảng bằng những mệnh lệnh ngắn ngọn; ông lái tàu đi và cho tàu dừng lại ở nơi nào ông muốn; ông điều khiển tàu nhổ neo ra khơi hoặc bốc dỡ hàng, sắp xếp công việc sửa chữa cũng như nghỉ ngơi, khó mà hình dung hết cái quyền lực to lớn và sự đòi hỏi sự sáng suốt tỉnh táo trong công việc cụ thể, sống động, toàn diện, của sự chuyển động không ngừng này. Thứ quyền lực khép kín và toàn năng ấy, ngang bằng với quyền lực của Orpheus7
6 Núi lửa
7 Một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, con trai vua Oeagrus xứ Thrace và nữ thần thi ca Calliope
Quan niệm như thế về người thuyền trưởng, sự hình dung như thế và chứng thực đúng như vậy về địa vị của ông ta đã chiếm rất nhiền chỗ trong trí tưởng tượng xán lạn của cậu bé Gray. Không một nghề nghiệp nào ngoài cái nghề này có thể gắn kết trọn vẹn mọi báu vật của cuộc sống đến thế, mà vẫn giữ gìn nguyên vẹn được từng họa tiết tinh tế nhất của mỗi hạnh phúc đơn lẻ. Những nan nguy, mạo hiểm, quyền năng của thiên nhiên, ánh sáng của xứ sở xa xăm, sự cuốn hút của những điều chưa biết, tình yêu thấp thoáng hé nở, trổ ra những cuộc hẹn hò, chia li, cơn bùng say quyến rũ của những cuộc gặp gỡ, những gương mặt, những sự kiện, sự đa dạng vô biên của cuộc sống, trong khi đó, như thể ở tít trên bầu trời cao kia - kìa là chòm sao Thập Tự Nam, kìa là chòm sao Đại Hùng, Tiểu Hùng tinh cùng tất cả các châu lục đều nằm gọn trong một cặp mắt tinh tường, cho dù trong ca-bin tàu của bạn tràn ngập sự hiện diện của cái xứ sở không thể giã biệt với những cuốn sách, tranh ảnh thư từ với hoa ép, những búp tóc bông lên mềm mại, trong những túi hương trầm nằm trên một lồng ngực rắn chắc.
Vào mùa thu năm Gray bước sang tuổi mười lăm, cậu lặng lẽ rời bỏ gia đình, tiến bước vào cánh cổng vàng của biển. Sau đó, chiếc tàu buồm “Anselm” rời bỏ cảng biển Dubelt và bơi về cảng Marseilles, đem theo một thủy thủ trẻ măng có đôi cánh tay nhỏ nhắn và gương mặt như của một cô bé mặc giả nam. Gã thủy thủ trẻ măng đó chính là Gray - chủ nhân của một chiếc xắc du lịch trang nhã, một đôi ủng đánh véc- ni da mỏng như găng tay và chiếc áo may bằng vải batit quý phái. Trong vòng một năm, trong khi chiếc “Anselm” cập bến cảng các nước Pháp, Mỹ, Tây Ba Nha, Gray phung phí một phần tiền nong mà cậu coi là dành cho dĩ vãng, còn phần còn lại - dành cho hiện tại và tương lai - cậu đều đã nướng cả vào bài bạc. Cậu muốn không hổ danh là một tay thủy thủ “quái kiệt”. Cậu nín thở nuốt Vodka; còn khi tắm, sẽ là những cú nhảy dốc đầu từ độ cao hai sazhen xuống nước. Dần dà cậu đã thay đổi hoàn toàn, ngoài một thứ chính yếu - cái tâm hồn lãng đãng kì quặc của mình. Cậu không còn cái vẻ yếu ớt ngày trước nữa, cơ thể cứng cáp hơn, bắp thịt rắn chắc, nước da nhợt nhạt được phủ một màu rám nắng nâu sậm, những cử chỉ vô ưu tao nhã biến thành vẻ uyển chuyển, tự tin của bàn tay quen làm việc, còn cặp mắt suy tư giờ đây, sáng lấp lánh như nhìn vào lửa cháy, cách nói năng đã mất đi vẻ cao ngạo, thất thường, trở nên ngắn ngọn, chính xác như cú lao của con hải ấu xuống luồng ánh bạc lung linh của bầy cá mối.
Thuyền trưởng tàu “Anselm” - một người đàn ông phúc hậu, nhưng là một thủy thủ khắc nghiệt - đồng ý cho cậu bé lên tàu với sẵn một ác ý nào đó. Nguyện ước mãnh liệt của Gray ông chỉ coi là một sự trái nết ngông ngáo và thầm biết trước rằng, chỉ đôi tháng sau, Gray - tránh nhìn vào mắt ông - sẽ bảo với ông rằng: “Thưa thuyền trưởng Hop, cháu trầy hết cả cùi tay, leo trườn trên thừng chão cháu đau hết cả sườn cả lưng, ngón tay trở nên cứng đờ, đầu đau nhức nhối, còn chân thì đang run lẩy bẩy đây này. Tay thì phải bê những cuộn thừng ướt nặng đến hai put8, rồi những thứ thừng chão, cột buồm… Này sinh ra như chỉ cốt để hành hạ thân thể non yếu của cháu. Thôi cháu muốn về với má cơ”. Lắng nghe kĩ hết lời tuyên bố này trong tâm tưởng, thuyền trưởng Hop dằn từng tiếng - cũng là trong tâm tưởng: “Hãy cứ đi đâu mà cậu muốn, con chim nhóc của ta ạ. Nếu đôi cánh tay đa cảm của cậu bị dính tí nhựa cây, có thể về nhà mà rửa nước thơm “Hoa hồng - trinh nữ”. - Cái thứ nước thơm do ông tự nghĩ ra đấy làm thuyền trưởng thấy khoái hơn cả. Và để kết thúc bản phán quyết tưởng tượng đó, ông nhắc lên thành tiếng: “Phải, về với cái thứ nước thơm ‘Hoa hồng - trinh nữ’ ấy đi”.
8 1 put = 16,38 kg
Tuy nhiên, cuộc đối thoại quan trọng đó ngày càng ít có dịp hiện về trong trí óc của vị thuyền trưởng, bởi Gray tiến tới cái đích của mình với hàm răng nghiến chặt và gương mặt tái bợt. Cậu vượt qua các công việc nhọc nhằn và phiền toái bằng ý chí của một nỗ lực quả quyết, tự thấy mình ngày một nhẹ nhõm hơn, bởi lẽ cơ thể cậu đã quen dần với con tàu khắc nghiệt này, còn sự vụng về đã được thay thế bởi sự quen tay. Có khi, những vòng xích neo quật ngã cậu xuống sàn tàu; rồi cuộn dây thừng lớn tuột khỏi tay làm trầy da bàn tay; rồi gió quật góc vải buồm ẩm ướt cùng với những vòng khóa sắt vào mặt cậu…Tóm lại, mỗi công việc là một lần thử thách, đòi hỏi một sự chuyên chú cao độ. Thế nhưng, dù phải thở đến hồng hộc nhọc nhằn, nụ cười ngạo ngễ vẫn không một giây rời bỏ khuôn mặt cậu bé. Cậu lặng lẽ chịu đựng những cười cợt, nhạo báng, những lời chửi mắng không tránh khỏi cho bằng đến khi trưởng thành “người đằng mình” trong môi trường mới. Rồi cũng từ đây, cậu luôn trả miếng mọi sự sỉ nhục mình bằng nắm tay và những cú đấm.
Một lần, thuyền trưởng Hop, vừa nhìn cậu bé thành thạo buộc cánh buồm vào trụ buồm, vừa tự nhủ với mình: “Cậu đã thắng rồi đấy, cậu cả láu ạ”. Khi Gray tụt xuống sàn tàu, ông Hop gọi cậu vào ca-bin và giở một cuốn sách đã sờn nát ra, nói:
- Chú ý nghe này. Bỏ hút xách đi! Bắt đầu sửa sang cho chú cún con trở thành thuyền trưởng thôi!
Và ông bắt đầu đọc, đúng hơn là nói rồi quát tướng lên những ngôn từ cổ kính của nghiệp biển cả được ghi lại trong sách. Đó là bài học đầu tiên cho Gray. Trong vòng một năm cậu được làm quen với các môn hàng hải, thực hành, đóng tàu, luật hàng hải, bản đồ hoa tiêu và cả nghề kế toán. Thuyền trưởng Hop chìa tay ra với cậu và nói: “Chúng ta”.
Ở Vancouver, Gray nhận được thư mẹ cậu, đẫm nước mắt và tràn ngập nỗi khiếp sợ. Cậu viết trả lời: “Con biết chứ. Nhưng nếu mẹ nhìn thấy con như con đã được nhìn: Bằng chính mắt mình. Nếu mẹ nghe thấy, như con đã nghe: Đặt vỏ ốc vào bên tai - trong đó vang lên những tiếng sóng vỗ vĩnh hằng; nếu mẹ yêu, như con: Yêu tất cả, thì trong thư của mẹ con đã tìm thấy, ngoài tình yêu, đã còn có cả con người và nụ cười.” Và cậu tiếp tục bơi theo con tàu cho đến khi “Anselm” cập bến trả hàng ở Dubelt, từ đó nhân lúc nghỉ chân, cậu bé hai mươi tuổi Gray mới quay về thăm lại lâu đài.
Cảnh vật xung quanh vẫn thế: Vẫn ấn tượng không gì phá vỡ nổi, nói chung và trong từng chi tiết, như năm năm về trước, duy chỉ có những cây du non tơ là đâm cành rậm lá hơn. Bóng chúng um tùm phủ lên mặt tiền của tòa nhà.
Đám người làm tươi tỉnh chạy ùa đến đón chào cậu, bỗng sựng lại trong niềm kính cẩn, như vừa mới hôm qua đón chào cái cậu Gray ấy. Họ chỉ cho cậu chỗ mẹ cậu. Gray bước vào gian phòng cao, lặng lẽ mở cánh cửa, lặng lẽ dừng lại nhìn người đàn bà trong bộ đồ đen, tóc đã ngả bạc. Bà đang đứng thẫn thờ, cầu nguyện bên ảnh Chúa, tiếng thì thào mê mỏi vang lên như nhịp đập của con tim: “Chúa đoái thương những ai đang chèo lái, những ai đang viễn du, những ai bị ốm đau, đày đọa, giam hãm” , Gray lắng nghe, thở gấp gáp. Và tiếp theo đó là: “Và về cậu bé của tôi…”. Khi đó cậu cất tiếng: “Con đây…” nhưng không thể nói thêm một lời nào nữa. Người mẹ quay lại. Bà gầy rộc. Gương mặt mỏng manh, kiêu kì ánh lên những tia khác lạ, như sự trở về của tuổi thanh xuân. Bà lao về phía con, một tiếng cười dội lên từ lồng ngực, một tiếng kêu ghìm nén, nước mắt ứa ra - chỉ có thế. Nhưng giây phút ấy bà đã sống, mạnh mẽ hơn, hạnh phúc hơn cả cuộc đời mình cộng lại.
- Ta biết ngay là con mà, cậu bé đáng yêu của ta!
Và Gray không còn là người lớn nữa. Cậu nghe kể về cái chết của cha, rồi cậu kể chuyện mình. Bà mẹ chăm chú nghe không hề trách móc hoặc phản đối, nhưng trong thâm tâm, bà lại chỉ coi tất cả những gì Gray khẳng định là chân lí cuộc sống của mình là những món đồ chơi làm vui lòng cậu con trai mình. Những đồ chơi ấy là các châu lục, các đại dương và những con tàu.
Gray ở lại lâu đài bảy ngày, sang ngày thứ tám cậu đem theo một khoản tiền lớn, trở lại Dubelt và nói với thuyền trưởng Hop:
- Cảm ơn bác. Bác là một chiến hữu tốt bụng. Xin vĩnh biệt nhé, ông bạn già của cháu.- Đến đây, cậu khẳng địnhh lời nói của mình bằng một cái bắt tay như gọng kìm siết chặt. - Từ nay cháu sẽ đi riêng, trên con tàu của cháu.
Ông Hop lồng lên nhổ bọt, giật tay ra và bỏ đi. Nhưng Gray đuổi theo và ôm lấy ông. Và họ kéo nhau vào nhà hàng, tất cả đoàn thủy thủ gồm hai mươi bốn con người cùng nhau uống rượu, hò hét, hát và uống sạch, đánh nhẵn tất cả những gì có trong quầy ăn nhà hàng.
Ít lâu sau, trên cảng Dubelt, những vì sao đêm tỏa ánh xuống bóng thẫm đen của hàng cột buồm mới. Đó chính là “Điều bí mật”, con tàu ba buồm trọng tải 260 tấn, do Gray vừa mới mua. Vậy là, thuyền trưởng kiêm chủ tàu Arthur Gray còn ra khơi ba năm nữa, trước khi số phận đưa cậu tới Liss. Nhưng cậu đã vĩnh viễn ghi nhớ tiếng cười ngắn hắt lên từ lồng ngực, khúc nhạc của một trái tim tràn đầy, chờ đón cậu nơi quê nhà, và một năm hai lần cậu ghé thăm lâu đài - nơi cậu để lại người mẹ tóc ánh bạc và niềm tin phấp phỏng, rằng cậu bé lớn đến thế của bà, có nhẽ giờ đây đang vẫy vùng với những cái đồ chơi của mình.