Ngày hôm sau, ngay sau lúc bình minh, với hai con chó chạy theo bén gót, chúng tôi thẳng tiến về Cartmel: lộ trình nhanh nhất là băng qua bãi cát ngoài vịnh Morecambe. Hôm ấy cũng là một ngày thời tiết rực rỡ, riêng tôi thì thấy vui mừng vì được đi khỏi căn nhà cối xay một thời gian. Tôi đang nóng lòng muốn trông thấy vùng Hạt phía bắc vịnh cùng những đồi núi ao hồ đẹp như tranh vẽ.
Nếu là đang đi cùng Thầy Trừ Tà, hẳn tôi đã phải vác hai túi xách, nhưng hình như ông Arkwright luôn tự mang túi đồ của mình. Chúng tôi đi bộ không bao lâu thì đã đến bờ Hest, điểm khởi đầu cho chuyến hành trình. Tại đây, chúng tôi nhìn thấy hai cỗ xe ngựa cùng ba người xà ích, còn có một số người đi bộ. Bãi cát trống trải dường như mời gọi chúng tôi băng qua, còn biển thì ở mãi tít ngoài kia; tôi thắc mắc mấy người này đang chờ gì, bèn hỏi ông Arkwright.
"Bây giờ trông an toàn, nhưng bãi cát ngoài vịnh này có thể gây chết người đấy," ông Arkwright đáp. "Một người hướng dẫn đi trên cát sẽ đi đầu cỗ xe phía trước – đấy là người am hiểu về thủy triều như lòng bàn tay mình vậy. Chúng ta phải băng qua hai lòng sông – lòng sông thứ hai, dòng Kent ấy, sau những cơn mưa nặng hạt thường rất nguy hiểm. Nó có thể trở thành cát lún. Hiện tại chúng ta đang chờ nước triều rút đến điểm cho phép những cỗ xe có đủ thời gian vượt qua an toàn.
Đừng bao giờ cố băng qua vịnh khi không có người dẫn đường nhé cậu Ward. Tôi đã sống ở đây gần cả đời mà ngay cả tôi cũng không dám thử làm thế. Đúng là có thể vì cậu chỉ mới học bơi thôi, nhưng thậm chí một người trưởng thành với bao năm kinh nghiệm cũng không sống sót nổi nữa là. Nước biển đổ vào các lòng sông nhanh đến mức nhoắng cái là cậu bị cô lập và chết chìm ngay!"
Một người đàn ông cao ráo đội mũ rộng vành tiến đến; ông ta đi chân trần và tay mang theo trượng. "Đấy là ông Jennings, người hướng dẫn đi trên cát," ông Arkwright bảo tôi. "Ông ta đã canh chừng mấy bãi cát gần hai mươi năm rồi."
"Một ngày đẹp trời nhỉ!" Ông Jennings gọi lớn. "Anh mang ai theo cùng đấy, anh Bill?"
"Chúc anh một ngày tốt lành nhé Sam. Đây là Tom Ward, cậu học việc với tôi trong sáu tháng tới."
Gương mặt rám nắng, dạn dày sương gió của người hướng dẫn nhoẻn cười khi ông bắt tay tôi. Ở ông toát lên dáng vẻ một người yêu thích công việc của mình. "Bill này, chắc anh đã cảnh báo cho cậu bé biết về những nguy hiểm từ mấy bãi cát rồi chứ?"
"Tôi đã nói hết rồi. Chỉ còn biết hy vọng là cậu ta nghe lời thôi."
"Phải, cứ hy vọng thế đi. Không phải ai cũng chịu nghe đâu. Chúng ta có thể khởi hành trong khoảng nửa giờ nữa đấy."
Nói đoạn, ông Jennings bỏ sang hàn huyên với những người khác. Cuối cùng chúng tôi cũng khởi hành, Sam Jennings sải bước trước mấy cỗ xe, những ai đi bộ thì đi đằng sau. Mặt cát phẳng vẫn còn âm ẩm in dấu vết ngoằn ngoèo khó hiểu của những lằn nước triều. Lúc nãy hầu như chẳng có chút gió nào, giờ thì một ngọn gió lộng từ hướng tây bắc đang thổi vào mặt chúng tôi, trong khi ở phía xa xa kia, mặt trời đang phản chiếu lấp lánh trên biển.
Mấy cỗ xe chầm chậm di chuyển nên khi đến lòng sông thứ nhất, chúng tôi bắt kịp được chúng. Ông Sam đi xuống lòng sông để kiểm tra, lội cho đến khi nước ngập ngang đầu gối. Ông lội ra chừng hai trăm sải về phía đông trước khi huýt sáo rồi vẫy vẫy cây gậy chỉ vào nơi mà chúng tôi phải từ đấy băng qua. Đoạn ông quay trở lại chỗ cỗ xe đầu tiên.
"Đây là nơi chúng ta sẽ ngồi xe!" Ông Arkwright bảo.
Ông đột ngột chạy đi và nhảy phóc lên phần sau của cỗ xe đi sau. Theo bước ông, tôi mau chóng hiểu ra lý do. Khi chúng tôi vượt qua lòng sông, mực nước dâng đến ngang bụng mấy chú ngựa. Chúng tôi vừa mới tránh cho mình bị ướt nước. Hai con chó có vẻ không màng đến chuyện đó và bơi rất khỏe, chúng đến được bờ bên kia trước mấy con ngựa rõ lâu.
Chúng tôi leo xuống cuốc bộ thêm một chập cho đến khi đến lòng sông Kent, trông như có cùng một độ sâu như con sông trước.
"Cháu chẳng muốn ở đây khi triều lên đâu ạ!" Tôi nhận định.
"Chắc chắn là không rồi, cậu Ward. Khi triều dâng thì mực nước có thể ngập gấp ba thân người cậu hay còn hơn ấy chứ. Nhìn thấy đằng kia không?" Ông Arkwright vừa hỏi vừa chỉ tay về phía đất liền.
Tôi trông thấy mấy sườn dốc đầy cây cùng mấy rặng đồi đá tia tía trồi lên bên trên ấy.
"Là rặng đồi đá nằm phía sau Cartmel – chúng ta đang đi đến đấy. Chẳng bao lâu nữa sẽ đến thôi."
Lộ trình băng qua lòng sông khoảng chừng chín dặm nhưng ông Arkwright bảo không phải khi nào cũng được như vậy. Dòng chảy sông Kent liên tục đổi chiều nên khoảng cách đến những nơi lội qua an toàn thường khác nhau. Quả là một nơi nguy hiểm, nhưng quãng đường lại ngắn hơn nhiều nếu cứ đi theo đường vòng uốn quanh vịnh.
Chúng tôi đến được nơi gọi là bờ Kent, ở đấy, sau khi trả công và cám ơn người dẫn đường, chúng tôi rời khỏi bãi cát phẳng rồi bắt đầu đi lên, tiến về Cartmel, việc này mất gần một giờ đồng hồ. Chúng tôi đi qua một tu viện, vài quán rượu cùng chừng ba mươi nhà dân. Nơi này gợi cho tôi nhớ đến Chipenden, với những đứa bé đói ăn đứng ở lối cửa nhìn ra chòng chọc cùng vùng đồng ruộng bao quanh tiêu điều chẳng có bóng dáng gia súc. Tác động của cuộc chiến tranh đang lan rộng và chắc chắn là sẽ bắt đầu tàn phá ghê gớm hơn. Tôi tưởng chúng tôi sẽ dừng chân nghỉ qua đêm tại Cartmel nhưng hình như công việc của chúng tôi lại ở nơi xa hơn thế.
"Chúng ta sẽ ghé thăm Judd Atkins, vị ẩn sĩ sống trên mấy rặng đồi đá kia," ông Arkwright nói mà không buồn nhìn sang tôi. Ánh mắt ông dán chặt vào sườn dốc dựng đứng trước mặt.
Tôi biết ẩn sĩ thường là một người mộ đạo thích sống một mình và lánh xa người trần, thế nên tôi nghĩ vị này sẽ không vui vẻ gì khi gặp chúng tôi. Nhưng liệu ông ấy có phải là người có khả năng dùng ngón tay đứt kia để định vị mụ Morwena không nhỉ?
Tôi định hỏi, nhưng khi chúng tôi băng qua căn chòi cuối cùng, một bà lão từ trong căn phòng khách âm u lệch xệch tiến ra, hướng đến chỗ chúng tôi trên lối đi đầy bùn.
"Arkwright! Ôi ông Arkwright! Tạ ơn Chúa, cuối cùng ông cũng đến," bà lão reo lên, túm lấy tay áo ông Arkwright mà giữ chặt.
"Thả tôi ra, kìa bà cụ!" Ông Arkwright quát lại, giọng rõ là bực bội. "Bà không thấy tôi đang vội ư – tôi có việc gấp phải làm đây này!"
Trong tích tắc, tôi cứ tưởng ông Arkwright sẽ đẩy bà lão ra và bỏ đi, nhưng ông chỉ quắc mắt nhìn bà ấy, mạch máu hai bên thái dương ông bắt đầu cộm lên.
"Nhưng tất cả chúng tôi đang sợ chết khiếp," bà lão nói. "Không ai được an toàn. Chúng lấy đi những gì chúng muốn, cả ngày lẫn đêm. Nếu tình trạng cứ thế này chúng tôi sẽ chóng chết đói hết thôi. Xin ông, hãy giúp đỡ chúng tôi, ông Arkwright..."
"Bà đang lải nhải gì thế? Kẻ nào lấy đi những gì chúng muốn?"
"Lũ bắt lính – nhưng chúng giống đám trộm cắp thông thường hơn. Không bằng lòng với việc lôi thanh niên trai tráng của chúng tôi tham gia chiến tranh, chúng cướp sạch những gì chúng tôi có. Chúng dựng sào huyệt trên nông trại Saltcombe ấy. Cả làng đang sợ điên đảo..."
Có phải là đám bắt lính từng bắt tôi không nhỉ? Chúng từng nói đến chuyện tiến lên phía bắc và cũng đã bỏ chạy theo hướng ấy khi Alice dọa chúng. Có vẻ là thế lắm. Chắc chắn là tôi không muốn gặp lại chúng rồi.
"Đấy là việc của đám cảnh vệ, không phải việc của tôi," ông Arkwright cau có.
"Ba tuần trước chúng đã đánh anh cảnh vệ thừa sống thiếu chết. Anh ta vừa hồi phục và giờ sẽ không ra tay nữa đâu. Anh ta biết chuyện gì có lợi cho mình. Nên xin ông, hãy giúp chúng tôi. Dẫu là bây giờ lương thực vừa đủ đấy, nhưng nếu bọn chúng cứ tiếp tục thì khi mùa đông đến, chúng tôi sẽ chết đói mất. Chúng lấy đi bất cứ thứ gì chúng quơ được..."
Ông Arkwright lắc đầu, giật tay áo khỏi tay bà lão. "Có lẽ lúc về qua lối này, tôi sẽ xem xét tình hình. Nhưng giờ tôi rất bận. Tôi có việc quan trọng không thể chờ được!"
Dứt lời, ông tiếp tục leo lên sườn đồi, hai con chó chạy lên phía trước. Bà lão buồn bã lệch xệch bỏ vào trong chòi. Tôi thấy tội cho bà lẫn người trong làng, nhưng việc bà cầu xin ông Arkwright giúp đỡ mới kỳ lạ làm sao. Dù gì thì đấy đâu phải là việc của kẻ trừ tà. Thật tình bà ấy nghĩ thầy tôi có thể đấu lại một đám người mang vũ khí ư? Phải có ai đó gửi tin đến ngài Chánh án ở Caster chứ – chắc chắn ngài ấy sẽ phái một viên cảnh vệ khác đến. Còn đám đàn ông trong làng thì sao? Họ không thể bắt tay nhau để làm gì đó à? Tôi thắc mắc quá.
* * *
Sau chừng một giờ leo lên rặng đồi đá, chúng tôi trông thấy khói tỏa trước mặt. Dường như là từ một cái lỗ trên mặt đất, thế rồi tôi nhận ra bờ đá lởm chởm mà chúng tôi đang băng qua đây lại là mái của một tu viện. Đến khi bước xuống những bậc cấp đá mòn nhẵn, chúng tôi đứng trước lối vào một chiếc hang khá lớn.
Arkwright lệnh cho hai con chó ngồi chờ cách đấy một quãng, đoạn dẫn đường đi vào khoảng tối âm u. Trong hang bốc lên mùi khói do củi đốt nồng nặc, khiến tôi chảy nước mắt. Nhưng tôi vẫn nhìn ra có ai đó đang ngồi xổm trước đống lửa, tay ôm đầu.
"Ông khỏe không, bạn già?" Ông Arkwright gọi lớn. "Vẫn còn đang sám hối cho tội lỗi của mình ư?"
Vị ẩn sĩ không đáp lại. Chả hề nao núng, ông Arkwright ngồi xuống bên tay trái vị ẩn sĩ. "Nghe này, tôi biết ông muốn ở một mình, nên ta hãy nhanh chóng làm cho xong việc rồi chúng tôi sẽ để ông yên. Hãy nhìn vào cái này và nói cho tôi biết nên tìm mụ ta ở đâu..."
Arkwright mở túi, lấy túm giẻ nhàu nát ra, trải trên nền đất giữa vị ẩn sĩ và đống lửa.
Trong lúc chờ mắt mình thích ứng với ánh sáng tù mù, tôi trông thấy ông Judd Atkins có hàm râu trắng cùng túm tóc bạc bù xù. Ông ấy không động đậy gì trong gần cả phút. Nói đúng ra dường như ông ấy không thở, nhưng rốt cuộc rồi cũng chịu nhặt lấy ngón tay của mụ phù thủy. Ông ấy dí sát ngón tay vào mặt mình lật qua lật lại vài lần, hình như đang chăm chú quan sát.
"Ông làm được không?" Arkwright gặng hỏi.
"Cừu được sinh ra vào mùa xuân chăng?" Vị ẩn sĩ hỏi, giọng ông nghe chẳng khác tiếng khều khào. "Chó có tru lên khi trăng mọc? Ta đã thăm dò mạch nước ròng cả năm nay, và khi ta đặt hết tâm trí mình vào đấy, chẳng có gì đánh bại ta nổi. Tại sao chuyện ấy phải thay đổi?"
"Nói hay lắm!" Ông Arkwright la lớn, giọng đầy vẻ phấn khích.
"Được, ta sẽ giúp anh, William ạ," vị ẩn sĩ nói tiếp. "Nhưng anh phải trả một cái giá."
"Giá ư? Giá nào?" Ông Arkwright hỏi, giọng kinh ngạc. "Nhu cầu của ông rất ít ỏi, ông bạn già ơi. Đấy là cuộc đời ông đã chọn. Vậy thì ông có thể muốn gì từ tôi chứ?"
"Ta không đòi hỏi gì cho bản thân," vị ẩn sĩ đáp, cứ mỗi chữ phát ra giọng ông ấy càng thêm mạnh mẽ. "Nhưng những kẻ khác thì cần. Dưới làng kia, những người dân đói khổ đang sống trong lo sợ. Hãy giải thoát cho họ khỏi nỗi sợ ấy rồi anh sẽ có thứ anh muốn..."
Ông Arkwright nhổ toẹt vào đống lửa và tôi thấy hàm ông nghiến lại. "Ý ông là cái đám trên nông trại Saltcombe kia ư? Lũ bắt lính ấy? Ông muốn tôi giải quyết chúng à?"
"Đây là thời kỳ phi luật pháp. Khi mọi thứ đổ vỡ, phải có ai đó hàn gắn chúng lại. Đôi khi một anh đóng móng ngựa phải đi sửa một cánh cửa, hay bác thợ mộc phải đi đóng móng ngựa. Còn ai khác nữa đâu hả William? Còn ai khác ngoài anh ra cơ chứ?"
"Bọn chúng có mấy tên?" Cuối cùng ông Arkwright cũng hỏi. "Ông biết bao nhiêu về bọn chúng?"
"Tổng cộng có năm tên. Một trung sĩ, một hạ sĩ và ba tên lính. Chúng lấy đi những gì chúng muốn trong làng mà không trả tiền."
"Là một đám bắt lính đang bắt người gần Chipenden đấy ạ," tôi cau mày. "Chúng đã bắt cháu nhưng cháu may mắn chạy thoát. Chúng cũng có năm tên, nên nghe ra có vẻ là cùng một lũ. Cháu không muốn lại đụng độ bọn chúng. Một trong số ấy là một cậu bé không lớn hơn cháu bao nhiêu nhưng tay trung sĩ thì đáng ghét vô cùng. Chúng cũng được trang bị cả dùi cui lẫn gươm dao nữa đấy. Cháu nghĩ ông không có khả năng hạ chúng đâu, ông Arkwright ạ."
Ông Arkwright trừng mắt nhìn tôi, rồi gật đầu. "Bất lợi nghiêng về phía tôi rồi," ông phàn nàn, sau lại quay sang vị ẩn sĩ. "Bọn tôi chỉ có ba người rưỡi – tôi, hai con chó cùng cậu bé tay mơ gà mờ này. Tôi có nghề ngỗng của riêng tôi. Tôi không phải là cảnh vệ..."
"Anh từng có thời là lính mà, William. Và ai ai cũng biết là anh thích đập vỡ đầu người ta, nhất là sau khi đánh chén. Ta bảo đảm anh sẽ rất thích trải nghiệm này đấy."
Ông Arkwright đứng dậy và nhìn xuống vị ẩn sĩ, gương mặt ông bừng bừng phẫn nộ. "Cứ việc đảm bảo là tôi không đập vỡ đầu ông đi, bạn già ạ. Tôi sẽ quay lại trước khi trời tối. Trong khi đấy ông làm tiếp việc kia đi. Tôi đã bỏ phí lắm thời gian rồi! Ông có bản đồ vùng Lakelands không?"
Judd Atkins lắc đầu, thế là ông Arkwright lục lọi trong túi và lôi ra một bản đồ được gấp lại. Ông trải ra trước mặt vị ẩn sĩ. "Thử cái này xem sao!" Arkwright gắt. "Hang ổ của mụ ta sẽ ở đấy – điều này thì tôi đoan chắc. Đâu đấy gần một trong những hồ nước phía nam."
Dứt lời, ông Arkwright rời khỏi hang động, hầm hầm tức tối sải bước về hướng đông.