Vừa về đến cối xay, ông Arkwright tất tả đi mời thầy thuốc trong vùng đến chạy chữa cho cái tai bị thương của tôi. Mặc dù ngại không muốn để người lạ bước vào nhà mình, hẳn ông Arkwright đã suy nghĩ rất lâu để đưa ra ngoại lệ. Sự thật là, tôi không nghĩ vết thương tệ lắm đâu. Chắc chắn là không đau mấy. Nếu có gì phải lo lắng, thì đấy là khả năng vết thương bị nhiễm trùng mà thôi.
Ông Arkwright đứng quan sát chăm chú khi vị thầy thuốc khám vết thương cho tôi. Thầy thuốc này dáng dong dỏng, vóc người lực lưỡng, có nước da của dân hoạt động ngoài trời khỏe khoắn, nhưng như đa phần những người khác, ông ta lại bồn chồn lo lắng khi có sự hiện diện của thầy trừ tà. Ông chẳng hỏi tôi câu nào về việc làm sao tôi dính phải vết thương như vậy.
"Tôi sẽ lau sạch vết thương hết mức có thể nhưng vẫn có rủi ro bị nhiễm trùng," thầy thuốc lo lắng nhìn hai con chó đang gầm gừ đầy vẻ đe dọa với mình. "Tuy nhiên, cậu còn trẻ và tuổi trẻ luôn có khả năng phục hồi tốt. Có điều vết thương sẽ để lại chút sẹo đấy."
Khám tôi xong, thầy thuốc bắt tay vào chữa cho con chó, nó ư ử vì đau khi ông Arkwright giữ rịt nó xuống. Vết thương của nó không đe dọa đến tính mạng nhưng trên ngực và lưng nó thủng vài lỗ sâu do mấy móng vuốt cào vào. Thầy thuốc lau sạch những chỗ này, rồi bôi thật nhiều thuốc mỡ vào đấy.
Lúc xách túi ra về, thầy thuốc gật đầu với ông Arkwright. "Ngày kia tôi sẽ ghé lại để xem hai bệnh nhân của tôi như thế nào."
"Tôi sẽ không làm ông mất thời gian đâu," ông Arkwright vừa càu nhàu vừa đưa cho thầy thuốc một đồng tiền công. "Thằng bé kia khỏe lắm nên tôi tin chắc là nó sẽ không sao. Còn con chó này á, vài ngày nữa nó sẽ khỏe như vâm ấy mà. Nhưng nếu thật sự cần thiết, tôi sẽ liên lạc với ông vậy."
Nói như thế thì thầy thuốc đã được miễn trách nhiệm, và ông Arkwright đưa thầy thuốc băng qua mương.
"Con Vuốt đã cứu mạng cậu," khi quay trở về, ông Arkwright bảo. "Nhưng không phải vì nó yêu quý gì cậu đâu. Cậu sẽ phải luyện tập thật chăm với hai con chó. Chúng ta sẽ xem xem chúng có chịu để cậu cho ăn không, tuy nhiên, giờ chúng ta cần nói chuyện cái đã. Chuyện này xảy ra như thế nào? Làm sao mụ phù thủy có thể tới gần cậu đến thế?"
"Mụ ta đang đi trên lối mòn phía trước. Cháu đang chạy rất nhanh, cố gắng bỏ xa hai con chó, và cháu chỉ muốn qua mặt mụ ta thôi. Thế rồi mụ quay lại, mọi chuyện đã quá muộn. Mụ móc vuốt vào tai cháu trước khi cháu kịp nhúc nhích..."
"Không có bao nhiêu người sống sót sau khi bị móc như thế đâu, cậu Ward ạ, vậy nên có thể xem là cậu may mắn đấy. Quá may mắn là đằng khác. Phương thức tóm lấy con mồi như thế được mọi thủy phù thủy luyện tập. Có khi chúng thọc móng tay vào miệng rồi xiên vào trong má," ông Arkwright chỉ tay vào vết sẹo bên má trái mình.
"Phải, đấy là vết sẹo mụ ta để lại cho tôi – tôi may mắn thoát được. Cũng cùng một mụ phù thủy ấy! Chuyện xảy ra chừng bảy tuần trước. Sau đấy chất độc ngấm vào làm tôi nằm bẹp trên giường trong ba tuần và sém chết. Đôi khi mụ ta đâm xuyên qua bàn tay nạn nhân – thường là tay trái. Thỉnh thoảng mụ còn móc ngược hàm dưới lên rồi bấu tay quanh mấy chiếc răng. Nếu làm thế mụ ta sẽ nắm được chặt hơn. Còn làm như thế này, mụ ta không thể nào kéo quá mạnh, bằng không tai cậu rách ra mất. Nhưng nếu nắm chắc hàm cậu, mụ ta sẽ lôi được cậu xuống đầm lầy từ lâu rồi, trước khi con chó kịp cắn đứt ngón tay mụ ấy."
"Mụ ta là ai thế ạ?" Tôi hỏi. Hình như ông Arkwright biết khá nhiều về mụ này.
"Mụ ta là kẻ thù cũ của tôi, cậu Ward ạ. Là kẻ tôi đã săn đuổi từ lâu – mụ già nhất và cũng là nguy hiểm nhất trong đám thủy phù thủy."
"Mụ từ đâu đến ạ?" Tôi hỏi.
"Mụ rất già," ông Arkwright bắt đầu kể. "Có người bảo mụ đã cả ngàn tuổi hay hơn nữa. Bản thân tôi không hẳn là đồng ý nhưng mụ ta đã loanh quanh ở xứ này lâu thật lâu rồi, trong những hạt khác cũng như trong hạt này. Những giai thoại về mụ ta có từ mấy thế kỷ trước. Những vùng đầm lầy sình lội là nơi mụ ưa thích ghé qua và mụ còn thích cả kênh đào sông nước nữa.Tôi không đặt tên nhằm đề cao những mụ thủy phù thủy bình thường vì chúng không giống những phù thủy trên cạn. Đa số bọn chúng đã mất khả năng nói chuyện và chẳng hơn gì đám súc vật. Nhưng mụ này thì đặc biệt: mụ có hai tên. Morwena là tên thật, còn Huyết Nhãn là tên vài người trong Hạt hay gọi. Mụ ta xảo quyệt lắm. Rất xảo quyệt. Mụ ta thường tấn công những con mồi dễ bắt như là trẻ con nhưng cũng có thể dễ dàng lôi một người đàn ông trưởng thành xuống nước, hút sạch máu trong lúc từ từ nhấn chìm anh ta. Tuy nhiên, như cậu đã biết bằng chính cái giá cậu vừa phải trả, con mắt trái của mụ ta mới là thứ vũ khí lợi hại nhất. Chỉ một cái liếc từ huyết nhãn kia là con mồi sẽ bị tê liệt."
"Làm sao ta đến gần mụ được ạ? Một cái liếc mắt thôi là ta đã bị chôn chân tại chỗ rồi."
Ông Arkwright lắc đầu. "Cũng không đến nỗi tệ như thế đâu, cậu Ward à. Có vài người như cậu đây này, từng đến gần mà vẫn sống sót để kể lại câu chuyện đấy thôi. Cậu thấy đấy, mụ phải để dành quyền năng cho lúc cần đến nhất. Con mắt bên trái kia thường nhắm lại, hai mí do một mảnh xương sắc gắn vào nhau, và nó cũng có hạn chế khác nữa – nó chỉ có thể trói buộc mỗi lúc một người mà thôi."
"Dường như ông biết khá nhiều về mụ ấy."
"Tôi đã săn lùng mụ ta mười năm nhưng chưa bao giờ mụ đến quá gần nhà tôi thế này. Mụ ta cũng chưa từng lai vãng lên những lối mòn trong đầm Tu Viện. Vậy thứ gì đã mang mụ đến đây? Đấy là câu hỏi chúng ta phải đặt ra. Mụ ta đang chờ cậu trên lối mòn ven đầm lầy nên tôi nghĩ lời cảnh báo của thầy Gregory có thể đúng đấy."
"Ý ông là..."
"Phải, cậu bạn trẻ à, hẳn là Quỷ Vương đã phái mụ ta đến xử lý cậu. Và việc này sẽ làm mụ trả giá đắt đây. Vì một khi tôi đã có ngón tay của mụ, ta có thể dùng nó mà lần ra hang ổ mụ ẩn náu. Sau bấy nhiêu năm công cốc, cuối cùng tôi cũng tóm được mụ ta rồi!"
"Hai con chó có khả năng lần theo dấu vết dẫn qua nước ư?" Tôi kinh ngạc.
Arkwright lắc đầu và cười toe với tôi một lần hiếm hoi. "Chúng giỏi thì có giỏi thật nhưng không khéo đến mức ấy đâu, cậu Ward ạ! Nếu thứ gì đó từ dưới nước chui lên rồi bước lên cạn, thậm chí là băng qua một vũng lầy sâu, hai con chó có thể lần ra. Riêng nước thì không đâu. Chúng ta sẽ tìm ra hang ổ của Morwena bằng cách khác. Nhưng chỉ khi nào chúng ta sung sức nhất thôi. Ta sẽ đợi vài ngày, cho đến khi vết thương của cậu lẫn của con Vuốt lành lại đã."
Tôi gật gù đồng tình vì tai tôi đang bắt đầu nhức nhối.
"Còn trong lúc này," ông Arkwright bảo, "tôi có một cuốn sách về mụ ta đây. Tôi đề nghị cậu ngồi cạnh bếp lò mà đọc để biết chính xác chúng ta đang chống lại thứ gì."
Nói xong, ông Arkwright đi lên gác rồi chập sau trở xuống, tay mang theo một quyển sách bìa da và đưa cho tôi. Tựa đề in trên gáy sách là:
Morwena
Arkwright bỏ tôi lại và đi ra ngoài cùng hai con chó nên tôi bắt đầu kiểm tra quyển sách. Ngay lập tức tôi nhận ra sách do chính tay Arkwright viết. Ông ấy là tác giả! Tôi bắt đầu đọc.
Có rất nhiều giai thoại và chuyện kể về nguồn gốc của Morwena. Có người cho rằng mụ là con của một phù thủy. Những người khác lại tin bằng cách nào đó mụ ta đã được tác thành từ đất mềm, sinh sôi từ bùn sình, được thai nghén ngay trong lòng Đất Mẹ, nơi lỗ hổng sâu nhất. Lý lẽ đầu tiên là có khả năng nhất, nhưng nếu như thế, thì ai là mẹ mụ ta đây? Trong mọi truyền thuyết, chuyện kể dân gian, cả trong vô vàn những câu chuyện lịch sử còn nhiều hồ nghi mà tôi từng khảo cứu, không nơi nào đề cập đến tên của mẹ Morwena.
Tuy vậy, tất cả đều tán đồng một điểm – danh tính của cha Morwena. Tổ tiên của mụ ta là Quỷ Vương, còn được biết dưới cái tên "Ác Quỷ", "Satan", "Cha kẻ dối trá" hay "Chúa tể của bóng đêm".
Đọc đến đây tôi khựng lại, sốc vì những lời lẽ này. Quỷ Vương đã phái con gái hắn đến giết tôi! Tôi nhận ra mình đã may mắn thế nào khi còn sống sót sau cuộc chạm trán với mụ ta trên đầm lầy. Nếu không có con Vuốt, tôi đã chết chắc. Tôi đọc tiếp, bắt đầu lướt qua những đoạn khó hiểu hay không rõ. Chẳng mấy chốc, tôi thấy rõ rằng, mặc dù ông Arkwright đã dạy cho tôi đôi điều về mụ Morwena, vẫn còn lắm thứ tôi phải học hỏi.
Đến thời điểm này, Morwena là kẻ khét tiếng nhất trong mọi thủy phù thủy, các vụ giết chóc do mụ gây ra cũng vô số kể, không thể ghi chép hết. Mụ ta sinh tồn nhờ uống máu, và đấy cũng là gốc rễ cho quyền năng tà thuật hắc ám của mụ.
Chuyện xưa kể lại, những tế phẩm là con người thường được dâng đến chỗ mụ ta khi mặt trăng đang tròn dần, là lúc máu người có khả năng làm tăng sức mạnh cho mụ lên cao nhất. Trẻ sơ sinh là thích hợp nhất cho các nhu cầu tàn độc của mụ, nhưng nếu không tìm ra trẻ con thì người lớn đủ mọi lứa tuổi đều được. Người trẻ bị quẳng vào Huyết Hồ; những người lớn tuổi hơn thì bị xích vào một căn buồng kín dưới mặt đất cho đến thời điểm thích hợp.
Khi đặc biệt khát máu, thỉnh thoảng Morwena uống cả máu của những con thú lớn như trâu bò hay ngựa. Nếu bí bách lắm, những con thú nhỏ cũng có thể đáp ứng: vịt, gà, chuột cống hay thậm thí chuột nhắt cũng bị hút sạch máu.
Rất hiếm khi Morwena rời khỏi môi trường nước và người ta đồn là mụ không thể tồn tại quá một giờ hay hơn trên đất cạn, đó cũng là nơi mụ ta yếu sức nhất.
Thêm một điều khác đáng ghi nhớ. Nhưng làm sao để lừa mụ ta ra khỏi môi trường sống của mụ? Nếu hai người chúng tôi cùng hiệp lực tấn công Morwena, một người có thể không bị huyết nhãn ếm bùa. Đấy có thể là chìa khóa để đánh bại Morwena.
* * *
Sáng ngày hôm sau, tai tôi đã đỡ đau hơn, và trong khi tôi chuẩn bị điểm tâm, ông Arkwright dẫn hai con chó ra mấy lối mòn trên đầm lầy. Ông ra ngoài cũng phải hơn một tiếng.
"Ngoài kia tuyệt chẳng có lấy vết tích gì của mụ phù thủy!" Khi quay trở lại, ông Arkwright thông báo. "Thôi, sau bữa điểm tâm chúng ta sẽ tiếp tục bài học, nhưng trưa nay cậu có thể tự đi ra kênh nhé. Tôi đang chờ một đợt giao muối. Năm thùng. Chúng chẳng to lắm nhưng lại nặng, cậu sẽ mang từng thùng lên và phải tránh xa nơi ẩm ướt. Chúng ta dùng một ít để nấu ăn và ướp giữ thực phẩm nên tôi không muốn muối bị hỏng đâu."
Và thế là, khoảng một giờ trưa, tôi đi xuống bờ kênh đứng chờ ông Gilbert. Tôi không đi một mình. Ông Arkwright sai con Vuốt đi theo tôi, phòng trường hợp mụ Morwena đang lẩn khuất đâu đó dưới vùng nước lặng.
Tôi đã ở cối xay hơn một tuần và đây là dịp để tôi thông báo cho Alice cùng Thầy Trừ Tà biết mình hòa nhập thế nào. Vậy nên tôi mang theo viết, mực, phong bì và giấy viết. Trong lúc chờ người chở sà lan đến, tôi viết được hai bức thư ngắn. Bức đầu tiên là cho Alice:
Alice thân yêu,
Tớ đang rất nhớ cậu cùng quãng thời gian sống ở Chipenden của chúng ta.
Làm chân học việc cho ông Arkwright không dễ dàng gì đâu. Ông ấy nghiêm khắc, đôi lúc còn tàn nhẫn. Dù là vậy, ông ấy rất thông thạo công việc của mình và có rất nhiều điều cần dạy tớ về những thứ từ dưới nước chui lên. Mới đây bọn tớ đã chạm trán với một thủy phù thủy mà ông ấy gọi là "Morwena". Chúng tớ sẽ sớm đi tìm hang ổ của mụ ta để truy diệt một lần cho dứt điểm.
Hy vọng sớm được gặp cậu.
Thương mến,
Tom
Tiếp đến tôi viết cho Thầy Trừ Tà.
Kính thưa thầy Gregory,
Con hy vọng thầy vẫn khỏe. Con phải thú thật là mình đã không có một khởi đầu tốt đẹp với ông Arkwright nhưng giờ đây thì tình hình ổn định rồi ạ. Ông ấy sở hữu một lượng kiến thức dồi dào về những thứ từ dưới nước chui lên và con hy vọng học hỏi được nhiều.
Mới đây, trên lối mòn đầm lầy gần cối xay nước, con bị một thủy phù thủy tên "Morwena" tấn công. Hình như mụ là kẻ thù cũ của ông Arkwright, trước đây mụ ta chưa bao giờ bén mảng đến quá gần nhà ông ấy như vậy. Có lẽ thầy đã từng nghe qua về mụ này. Ông Arkwright bảo mụ ta chính là con gái của Quỷ Vương và ông ấy nghĩ mụ là do cha mình phái đến để xử lý con.
Con và ông Arkwright sẽ chóng đi truy lùng mụ. Con rất mong lại được làm việc với thầy vào mùa xuân.
Chân học việc của thầy,
Tom Ward
Viết xong hai lá thư, tôi niêm thư vào trong phong bì và đề địa chỉ đến:
Gửi thầy Gregory ở Chipenden
Xong xuôi, tôi ngồi xuống bờ kênh chờ ông Matthew Gilbert. Con Vuốt ngồi bên trái tôi, mắt liên tục đảo giữa tôi và mặt nước. Hôm đấy là một ngày hanh khô, sắc trời rực rỡ, và dòng kênh trông không có vẻ gì là đe dọa cả, dù vậy, thật an tâm làm sao khi có con Vuốt ở đây canh chừng cho tôi.
Chừng một giờ sau, chiếc sà lan từ phía nam hiện ra. Sau khi neo thuyền, ông Gilbert tháo cương ngựa rồi cột chúng lại để chúng ăn cỏ.
"À, việc này giúp tôi khỏi phải kéo chuông đây!" Ông Gilbert vui vẻ gọi lớn khi trông thấy tôi. Tôi phụ ông nhấc những thùng muối ra khỏi khoang thuyền và mang lên trên bờ.
"Tôi sẽ nghỉ tay năm phút trước khi lên đường," ông Gilbert ngồi xuống đuôi thuyền, hai chân gác lên đường xe kéo. "Cậu thấy làm việc cho Bill Arkwright như thế nào? Trông như cậu bị thương rồi đấy." Ông khoát tay chỉ vào tai tôi.
Tôi tươi cười ngồi xuống bên ông. "Vâng, khởi đầu cũng tệ lắm, như bác đã đoán ấy," tôi bảo ông. "Tệ đến mức cháu suýt quay về với thầy Gregory rồi. Nhưng giờ thì cháu với ông Arkwright hòa thuận lắm. Cháu cũng đang bắt đầu làm quen với hai con chó ," tôi hất đầu về phía con Vuốt.
"Chắc chắn là mấy con chó như thế này cũng phải mất công một tí mới làm quen được," ông Gilbert bảo. "Cả với chủ của chúng cũng vậy. Vài cậu học việc đã từng cúp đuôi chạy về Chipenden, nên cậu sẽ không phải là người đầu tiên. Nếu có khi nào cậu quyết định quay về, thì tôi luôn đi qua nơi này vào mỗi thứ Tư nhé. Đấy là chuyến chở muối mà tôi thường phải chạy thẳng đến cuối con kênh ở Priestown. Nếu nói về tốc độ thì sẽ không nhanh hơn đi bộ đâu, nhưng làm vậy cậu sẽ đỡ phải cuốc bộ và đưa cậu đến Caster theo lối trực tiếp nhất. Cậu cũng có thể có thêm bạn đồng hành nữa. Tôi có một đứa con trai cùng một đứa con gái trạc tuổi cậu. Thỉnh thoảng chúng thay phiên nhau giúp tôi trên thuyền."
Tôi cảm ơn lời đề nghị của ông Gilbert, đoạn đưa cho ông bì thư cùng đồng xu để trả tiền cước bưu điện. Ông Gilbert hứa sẽ bỏ thư tại Priestown. Khi ông thắng lại cương ngựa, tôi nhấc một thùng muối lên. Dù trông khá nhỏ nhưng thùng này nặng khiếp. Tôi cố xoay sở, tìm cách ôm thùng dưới cánh tay.
"Đặt lên trên vai ấy! Đấy là cách tốt nhất!" Ông Gilbert vui vẻ gọi lớn.
Lời khuyên của ông quả là hay. Một khi được đặt đúng vị trí, thùng muối tỏ ra rất dễ mang vác. Thế là, với con Vuốt theo sát gót, tôi đã làm năm chuyến đi về đến nhà trong vòng chưa đến nửa giờ đồng hồ.
Sau đấy, ông Arkwright dạy tôi một bài học lý thuyết khác.
"Mở tập ghi chép ra nào, cậu Ward..."
Tôi mở ra ngay rồi nhìn lên, chờ đợi nghe những gì ông sẽ nói.
"Đầu đề của cậu là ‘Morwena’," ông bảo. "Tôi muốn cậu viết lại mọi thứ từ bấy đến nay tôi dạy cậu và cậu đã đọc được. Những kiến thức như thế này sẽ có lúc hữu dụng. Sẽ chóng đến lúc đi săn mồi thôi. Chúng ta đã có ngón tay của mụ và sẽ dùng nó thật đúng cách."
"Chúng ta sẽ dùng nó thế nào ạ?" Tôi hỏi.
"Cậu sẽ sớm biết thôi, thế nên kìm hãm sự nôn nóng của cậu lại nào. Vết thương của con chó không có vẻ gì là sẽ nhiễm trùng, còn đến bây giờ tai cậu cũng chưa rụng mất. Cứ cho là ngày mai không có gì thay đổi, chúng ta sẽ khởi hành và đi băng qua bãi cát để đến Cartmel. Nếu phát hiện ra điều chúng ta cần biết – à khi đấy thì, có thể còn lâu chúng ta mới quay về đây. Chỉ về nhà khi chúng ta xử lý mụ Morwena một lần dứt điểm cái đã!"