Sau bữa điểm tâm, người thầy mới của tôi bắt tôi dọn dẹp bàn ăn và rửa bát đĩa trong khi ông lên gác chừng một giờ đồng hồ. Khi trở xuống, ông mang theo một tấm bản đồ vẽ tay nho nhỏ, rồi trải bản đồ lên bàn.
"Chúng ta sẽ luyện lại trò đi săn, nhưng lần này là ở vùng địa hình khó khăn hơn nhiều. Thủy phù thủy thích đầm lầy và đôi khi chúng ta phải đi vào trong ấy đuổi chúng ra ngoài!
"Đây là con kênh và cối xay," ông chỉ ngón tay, "và ở phía tây nam kia là đầm lầy. Khu vực nguy hiểm nhất có thể nuốt chửng lấy cậu trong nháy mắt là hồ nước, nên cậu nhớ tránh xa ra. Người ta gọi nó là ‘Hồ Bé’. Hồ không lớn cho lắm, nhưng quanh đấy là một vũng lầy lan rộng – nhất là về phía nam lẫn phía đông. Những nơi còn lại có thể khó vượt qua nhưng cậu sẽ sống sót thôi.
"Có rất nhiều lối mòn băng qua đầm lầy, trên bản đồ này đánh dấu ba lối. Tùy cậu quyết định lối nào là lối thích hợp nhất. Một trong ba lối ấy thậm chí còn cho phép cậu chạy nhanh hơn hai con chó nữa kia..."
Thấy tôi há hốc mồm, ông Arkwright nhe răng cười. "Đây là nơi cậu sẽ đi đến," ông lại chỉ tay vào bản đồ. "Tàn tích của một tu viện nhỏ trên đồi Tu Sĩ. Bây giờ tàn tích ấy chẳng còn lại là bao ngoài vài bức tường và móng nhà. Chạy đến đó trước khi đám chó bắt được cậu thì cậu sẽ thắng. Như thế nghĩa là ngày mai cậu không phải tập lại trò này! Mà nhớ nhé, chuyện này là vì lợi ích của riêng cậu mà thôi. Tập làm quen với những vũng lầy như thế là phần huấn luyện rất quan trọng. Được rồi, cậu có vài phút nghiên cứu bản đồ rồi chúng ta bắt đầu."
Tôi bồn chồn một chút khi nhìn vào bản đồ của ông Arkwright. Lối đi trên mạn bắc là lối trực tiếp nhất và đám chó sẽ có ít thời gian nhất để đuổi kịp tôi. Lối này chạy sát qua Hồ Bé với vùng vũng lầy đầy cạm bẫy nguy hiểm quanh đấy, nhưng tôi cho rằng cũng đáng nên thử lắm. Thế là, với đường đi đã chọn, tôi bước ra vườn, sẵn sàng hoàn tất cho xong chuyện.
Arkwright đang ngồi ở bậc cấp trên hàng hiên, hai con chó nằm yên dưới chân. "Ái chà cậu Ward, cậu biết mình sẽ làm gì chưa vậy?"
Tôi mỉm cười gật đầu.
"Chúng ta có thể hoãn đến ngày mai nếu cậu thích," ông Arkwright đề nghị. "Đám sương mù lại sắp tràn xuống nữa rồi."
Tôi nhìn ra bên ngoài khu vườn. Sương mù đang từ phía tây lan đến, trôi nổi vô định qua đầm lầy tạo thành một bức màn xám xịt. Nhưng tôi vẫn thấy tự tin với lộ trình mình vừa chọn. Thôi thì làm cho xong cho rồi.
"Không ạ, cháu sẽ tập ngay bây giờ. Cháu được chạy trước bao nhiêu phút đây?" Tôi nhoẻn cười và hỏi. Tôi nghĩ việc tập đi săn và bơi lội đã làm mình khỏe hơn nhiều. Nếu lần này mà giành phần thắng thì sẽ rất tuyệt, và tôi thắc mắc liệu mình có cửa thắng không đây.
"Năm phút!" Ông Arkwright càu nhàu. "Mà tôi đã bắt đầu đếm rồi nhé..."
Tôi quay ngoắt người, dợm phóng thẳng qua con mương đầy muối.
"Ê!" Ông Arkwright quát. "Cậu sẽ không cần đến trượng đâu!"
Chẳng thèm ngoái đầu nhìn lại, tôi quẳng trượng đi và lội bì bõm qua mương. Tôi sẽ chứng tỏ cho ông ấy thấy! Hai con chó kia vừa nhanh vừa dữ đấy, nhưng với năm phút chạy trước thì bọn chúng sẽ không bao giờ bắt kịp tôi.
Một chập sau, tôi đang chạy theo lối mình đã chọn, đám sương phù dày đặc bao bọc quanh tôi. Tôi mới chạy chừng vài phút thì đã nghe thấy tiếng chó sủa. Ông Arkwright không giữ lời gì cả! Ông ấy đã thả chó ra rồi! Ông ấy đang làm hết sức mình để tôi tiếp thu được sự huấn luyện cần thiết, nhưng dù là vậy, ông ấy vẫn luôn thích chiến thắng. Bực bội vô cùng, tôi cắm đầu chạy nhanh hơn, hai chân lướt như bay trên lối mòn.
Tầm nhìn nhanh chóng thu ngắn chỉ còn cỡ vài mét, buộc tôi phải giảm tốc độ. Dựa vào mùi đánh hơi được, hai con chó sẽ không gặp bất lợi giống tôi và tôi dần ngộ ra rằng, suy cho cùng thì mình cũng sẽ không chạy nhanh hơn chúng nổi. Tại sao ban nãy tôi không chấp nhận lời đề nghị của ông Arkwright mà chờ cho đến ngày mai chứ? Trong khi chạy, hai chân tôi bắt đầu giẫm nước bắn tung tóe và tôi nhận ra mình đã đến khu vực nguy hiểm nhất trong chuyến hành trình – vị trí gần hồ nước nhất.
Tôi vẫn còn nghe tiếng sủa nghẹt nghẹt của hai con chó đằng sau mình. Sương mù bóp nghẹt âm thanh khiến thật khó mà nhận định chúng đang ở gần đến đâu. Lúc này tôi đã giảm tốc xuống, chỉ chạy bước nhỏ lúp xúp – chậm hết sức.
Ngay khi ấy, tôi nghe có tiếng kêu ai oán kỳ lạ từ đâu đó bên trên. Gì thế nhỉ? Chim chóc gì đó chăng? Nếu là vậy thì đây là tiếng chim trước giờ tôi chưa từng nghe qua. Chập sau, âm thanh ấy lại vang lên, và không hiểu vì sao nhưng âm thanh ma quái nọ làm tôi mất tinh thần. Nó mang chút gì đấy thật không bình thường. Nhưng tôi vẫn chạy tiếp, ý thức được rằng hẳn hai con chó đang rút ngắn khoảng cách với mình.
Sau chừng ba bốn phút, tôi nhìn thấy một dáng người trên lối mòn trước mặt. Tôi chầm chậm dừng lại, trong giây lát quên đi chuyện hai con chó.
Cái gì kia thế? Tôi chõ mắt nhìn qua màn sương và trông thấy một người phụ nữ đang bước đi trước mình, mái tóc đen óng xõa xuống vai. Bà ta quàng khăn màu xanh lục, mặc váy nâu dài chạm đất. Tôi sải bước thật nhanh. Qua được người này rồi thì tôi có thể bắt đầu chạy tiếp. Thậm chí còn may hơn là, sự hiện diện của bà ta biết đâu sẽ khiến hai con chó lạc mất dấu tôi.
Tôi không muốn dọa người phụ nữ tội nghiệp phát sợ nếu mình đi sát đến sau lưng bà ta khiến bà ta bất ngờ, thế nên khi còn cách nhau chừng mươi bước, tôi hòa nhã gọi lớn:
"Xin chào! Phiền bà cho tôi đi qua nhé? Tôi biết lối mòn này rất hẹp nhưng nếu bà đứng yên, tôi có thể lách qua..."
Tôi những tưởng người phụ nữ sẽ né sang một bên hay nhìn quanh để xem ai đang nói. Nhưng bà ta chỉ dừng giữa lối đi, lưng quay về phía tôi. Lúc này, hai con chó nghe như đã tiến đến rất gần rồi. Tôi buộc phải vượt qua bà ta thôi, bằng không lũ chó sẽ nhảy xổ vào tôi và ông Arkwright sẽ thắng mất.
Đúng lúc ấy, tôi nhận thấy một cơn ớn lạnh bất chợt, một lời cảnh báo rằng thứ gì đó từ bóng tối đang ở gần bên. Nhưng lời cảnh báo này đã đến quá muộn...
Khi tôi chỉ còn cách đằng sau người phụ nữ kia vài bước, bà ta thình lình quay ngoắt lại nhìn tôi. Tim tôi nhảy thót lên cổ khi trông thấy cơn ác mộng đang đối mặt với mình. Miệng bà ta há ra, để lộ hàm răng nửa xanh nửa vàng, nhưng thay vì những răng nanh bình thường thì có tới bốn chiếc nanh to khủng. Tôi lợm giọng khi hơi thở hôi thối của mụ phả qua tôi. Mắt trái mụ đang nhắm, mắt phải thì mở – một khe chẻ dọc như con mắt lạnh lùng của loài rắn hay bò sát – còn mũi mụ ta là khúc xương khoằm sắc lẻm mà không có thịt, thậm chí chẳng có da bao phủ. Hai bàn tay mụ giống tay người, ngoại trừ móng tay là những chiếc vuốt nhọn hoắt cong cong.
Mái tóc mụ ta óng ánh vì ướt sũng nước, còn thứ mà tôi tưởng là khăn quàng thì thật ra là áo khoác phủ đầy thứ cặn xanh lè, trong khi nửa thân dưới mụ khoác vào chiếc váy tả tơi đóng đầy thứ nhớt đầm lầy nâu nâu. Hai bàn chân trần vằn vện những bùn của mụ giờ đang thò ra dưới mép váy, nhưng đấy không phải chân người; các ngón chân đóng màng nối với nhau, mỗi ngón có vuốt nhọn ngay đầu.
Tôi sắp sửa quay người lại, chuẩn bị co giò bỏ chạy thì mụ ta sờ hai ngón tay vào mi mắt trên bên trái, thế là con mắt ấy đột ngột mở lớn.
Con mắt đỏ ngầu – mà không chỉ có tròng mắt thôi đâu! Cả con mắt trông như thể đang tràn những máu. Tôi hóa đá theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: lòng tràn ngập kinh hoàng và trở nên bất động tại chỗ, như thể tôi biến thành rồi đá vậy. Tôi bắt đầu vã mồ hôi vì sợ khi con mắt đỏ quạch đang mỗi lúc một to và sáng quắc.
Thậm chí dường như tôi đang ngừng thở: một cảm giác co thít, bóp nghẹt thít chặt cổ họng và ngực trên. Mà tôi cũng không thể rời mắt khỏi mụ ta nữa chứ. Giá như tôi có thể nhìn đi chỗ khác, nói không chừng quyền năng mụ ta đang phong tỏa lên tôi sẽ bị phá vỡ chăng? Tôi gồng hết mọi cơ bắp trong người mình, nhưng chẳng ích gì. Tôi không thể nhúc nhích.
Như một con mãng xà, cánh tay trái của mụ vươn về phía tôi. Ngón tay trỏ mang vuốt nhọn tiến thẳng đến tai phải, tôi cảm thấy đau nhói khi ngón tay ấy uốn cong chọc ngay vào đấy.
Mụ ta bước ra khỏi lối mòn để đi vào khu đầm lầy, đồng thời xềnh xệch lôi tôi theo. Thêm hai bước nữa và chân tôi bắt đầu chìm xuống vũng lầy. Tôi vung tay loạn xạ vào mụ nhưng cơn đau cực kỳ vì móng vuốt kia đang đóng cọc trong tai khiến tôi chẳng thể làm gì ngoài việc buộc phải theo bước mụ. Chúng tôi mỗi lúc một chìm sâu hơn vào đầm lầy.
Ôi, tôi ước gì mình mang theo trượng. Nhưng tôi biết dù có nó cũng vô ích vì tôi đang dính bùa từ con mắt ngập máu, không cử động được. Mụ ta là gì thế? Một loại thủy phù thủy nào đó chăng? Tôi cố gào lên kêu cứu, tuy nhiên, âm thanh thoát ra khỏi môi tôi lại là tiếng kêu rền rĩ vì đau đớn và kinh hoàng không giống tiếng người.
Ngay sau đấy, từ lối mòn đằng sau vang lên tiếng gầm, một thứ gì đấy màu đen phóng thẳng vào kẻ đang bắt giữ tôi. Tôi nhác thấy răng nanh con Vuốt nhe ra, rồi móng vuốt của mụ phù thủy xé toạc tai tôi làm tôi ngã ngửa. Trong thoáng chốc, đầm lầy phủ ngập đầu tôi. Theo bản năng, tôi ngậm miệng nín thở, nhưng dù có làm vậy thì bùn lầy nhầy nhụa vẫn xộc vào mũi và tôi thấy mình đang chìm. Có biết bơi cũng chả giúp ích mấy. Tôi đang ngụp lặn, cố ngóc đầu lên khỏi mặt bùn, thì khi ấy tôi cảm nhận được hai bàn tay tóm lấy vai mình, bắt đầu kéo ngược tôi lại.
Loáng sau, tôi đã nằm ngửa trên lối mòn, ông Arkwright đang quỳ bên tôi, chăm chăm nhìn xuống với vẻ mặt gần như là lo lắng. Đoạn ông cho mấy ngón tay vào mồm huýt lên một tiếng huýt sáo nhức óc, và hai con chó quay trở lại, mùi sình lầy thối um, mình bốc hơi nước. Con Vuốt đang rên ư ử vì đau nhưng mồm còn ngậm vật gì đó.
"Mang lại đây!" Ông Arkwright ra lệnh. "Thả xuống! Thả xuống ngay!"
Gầm gà gầm gừ, con Vuốt thả vật đó vào lòng bàn tay ông Arkwright.
"Giỏi! Giỏi lắm! Mày rất cừ! Rốt cuộc, sau từng ấy năm!" Ông Arkwright la tướng, giọng chứa chan niềm vui chiến thắng. "Giờ thì chúng ta sẽ bắt được mụ! Lần này mụ ta sẽ không thoát..."
Tôi nhìn vào thứ ông Arkwright đang cầm trên tay, không thể tin vào mắt mình.
Là một ngón tay. Một ngón tay trỏ dài ngoẵng với sắc da xanh lục. Và thay vào chỗ móng, ngón tay này lại có vuốt cong cong. Con Vuốt vừa cắn đứt một ngón tay của mụ phù thủy.