Ra đến đường xe kéo, tôi đi dọc theo con kênh về phía nam. Thoạt đầu tôi bước rất nhanh, lo rằng biết đâu Arkwright sẽ đuổi theo mình; cố mà lôi tôi quay lại cối xay. Nhưng sau một đỗi, sự cảnh giác của tôi lắng xuống. Hẳn ông ấy sẽ mừng lắm khi tống khứ được tôi. Chắc chắn đấy là điều bấy lâu nay ông Arkwright đang cố làm – đuổi tôi đi cho khuất mắt.
Tôi cuốc bộ chừng một giờ đồng hồ, lòng vẫn tức tối, nhưng dần dà cả việc giận dữ lẫn cơn nhức đầu đều tan biến. Mặt trời đang lặn nơi cuối chân trời nhưng không khí vẫn khô hanh trong lành, bầu trời trong veo, chẳng có lấy một dấu hiệu nhỏ bé nhất của sương muối. Lòng tôi bắt đầu lâng lâng. Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ được gặp Alice; tôi sẽ quay lại khóa huấn luyện với Thầy Trừ Tà. Tất cả những chuyện vừa rồi dường như chỉ là một giấc mơ xấu.
Tôi cần chỗ nào đó ngủ qua đêm – trông có vẻ trước khi trời sáng sẽ có sương giá. Khi du hành trên đường, tôi và Thầy Trừ Tà thường qua đêm trong kho chứa cỏ hay chuồng bò, nhưng từ đây đến Caster có rất nhiều cây cầu nên tôi quyết định sẽ cuộn mình trong áo choàng và nghỉ tạm dưới cây cầu tiếp theo mà mình đi đến.
Khi cây cầu ấy hiện ra trước mặt, ánh sáng ban ngày đang nhanh chóng lụi tắt. Rồi một tiếng gầm gừ phía bên phải làm tôi dừng phắt lại. Dưới dãy hàng rào cây táo gai viền ngoài lối xe kéo, một con chó đen to tướng đang ngồi xổm đấy. Liếc qua một cái, tôi biết ngay nó là một trong hai con chó của ông Arkwright – con chó cái hung tợn mà ông gọi là con Vuốt. Phải chăng Arkwright đã phái nó đuổi theo tôi? Tôi phải làm sao đây? Lùi bước ư? Hay cố vượt qua con Vuốt để đi tiếp?
Tôi thận trọng di chuyển lên trước một bước. Vuốt vẫn ngồi im, chăm chú quan sát tôi. Thêm một bước nữa, tôi đứng ngang hàng nó và kết quả là một tiếng gầm gừ cảnh cáo khác vang lên. Cẩn thận quan sát con chó qua vai phải, tôi bước một bước, rồi bước nữa. Chập sau thì tôi đã sải chân bỏ đi, nhưng tôi lại nghe thấy tiếng con Vuốt chạy lon ton trên lối xe kéo và bắt đầu lững thững đi theo tôi. Tôi nhớ ông Arkwright từng bảo...
Đừng quay lưng lại với con này – nó nguy hiểm lắm.
Vậy mà giờ con Vuốt đang đi phía sau tôi! Tôi liếc ra sau, thấy nó đang giữ khoảng cách. Tại sao nó đi theo tôi vậy? Tôi quyết định sẽ không ngủ lại dưới chân cầu này. Tôi sẽ đi tiếp đến cây cầu tiếp theo. Tới lúc ấy, biết đâu con chó đã phát chán mà quay về nhà rồi. Khi tôi đến được chỗ vòm cầu, buồn thay, lại có thêm một con chó săn sói hiện ra và di chuyển về hướng tôi với một tiếng gầm gừ trầm trầm đầy đe dọa. Là con Răng.
Giờ thì tôi sợ rồi đây. Một con chó to tướng đang ở trước mặt tôi, một con khác sau lưng. Thật khoan thai, chậm rãi, tôi đặt túi đồ xuống và lăm lăm trượng trong tay. Bất cứ cử động bất chợt nào cũng có thể khiến bọn chúng xông vào ngay. Tôi không nghĩ là mình đối phó được cả hai con. Nhưng còn lựa chọn nào khác cơ chứ? Tôi nhấn vào hốc lõm trên trượng, một tiếng cách vang lên khi lưỡi dao bung ra.
Đến lúc ấy, từ bóng tối dưới vòm cầu, có ai đó lên tiếng.
"Nếu là tôi thì tôi sẽ không thử làm thế đâu, cậu Ward à! Chúng sẽ xé toạc cổ cậu trước khi cậu kịp nhúc nhích!"
Arkwright bước ra đối mặt với tôi. Ngay cả trong ánh sáng tù mù như thế, tôi vẫn nhìn ra vẻ khinh bỉ trên mặt ông.
"Đang bỏ về Chipenden sao, cậu nhóc? Cậu chẳng ở lại nổi ba ngày! Nhanh hơn bất cứ anh chàng học việc nào từng trốn đi đấy. Tôi cứ tưởng cậu gan dạ hơn thế kia. Chắc chắn cậu không phải là chân học việc thầy Gregory thêu dệt nên rồi..."
Tôi im im, vì bất kỳ điều gì tôi nói đều có khả năng làm ông ấy điên tiết. Chắc tôi sẽ có thêm một trận tơi bời; biết đâu ông ấy còn sai hai con chó tấn công tôi nữa ấy chứ. Thế cho nên tôi chỉ nhấn nút thụt dao về rồi chờ xem ông ấy làm gì. Ông ấy có định lôi tôi quay lại cối xay không nhỉ?
Arkwright huýt sáo, hai con chó quay lại vị trí sát bên ông. Lắc lắc đầu, ông bước về phía tôi, tay thọc vào bên trong áo choàng lôi ra một phong bì.
"Đây là thư thầy cậu gửi cho tôi. Đọc đi rồi hãy quyết định. Cậu có thể quay về Chipdenden hoặc tiếp tục khóa huấn luyện của mình tại đây!"
Nói đoạn, ông Arkwright đưa tôi lá thư rồi bỏ đi về hướng bắc, dọc theo lối xe kéo. Tôi nhìn theo cho đến khi cả ông lẫn hai con chó khuất hẳn tầm nhìn. Sau đó tôi lấy thư ra khỏi phong bì. Đúng là nét chữ viết tay của Thầy Trừ Tà. Đọc được thư cũng khó khăn lắm vì hiện giờ ánh sáng chỉ còn lờ mờ. Dù vậy, tôi vẫn đọc đến hai lần.
Gửi Bill Arkwright
Ta nhờ anh bắt đầu huấn luyện cho cậu bé học việc của ta, Tom Ward, sớm hết mức anh có thể. Cần kíp lắm đấy. Như anh đã biết từ lá thư trước, Quỷ Vương đã được phóng thích vào thế gian này và mối nguy từ thế lực bóng tối đang gia tăng cho tất cả chúng ta. Mặc dù ta đã giữ kín hầu hết chuyện với thằng bé, nhưng mối lo sợ của ta sẽ chóng thành sự thật, khi một lần nữa, Quỷ Vương sẽ cố gắng tiêu diệt thằng bé.
Ta phải nói thẳng ra đây. Sau cái cách đối xử tàn nhẫn của anh với cậu học việc trước của ta, ta từng nghĩ sẽ không bao giờ giao cho anh chăm sóc thêm một cậu nào khác. Nhưng việc này phải được tiến hành thôi. Mối đe dọa đối với Tom Ward lớn lên từng ngày một. Dù Quỷ Vương không thân chinh đến xử lý thằng bé, ta e rằng hắn vẫn sẽ phái một thần dân khác của thế giới bóng tối. Ngả nào đi nữa, thằng bé cũng phải được tôi luyện cho cứng cáp, được dạy dỗ những kỹ năng truy tìm lẫn tác chiến cần thiết. Nếu thằng bé qua ải, ta tin nó sẽ chứng tỏ mình là một vũ khí chống lại bóng tối đầy uy lực, có lẽ là người có khả năng nhất được sinh ra trên cõi đời này hàng bao thập kỷ qua.
Vậy nên, với hy vọng là mình đang không phạm một sai lầm to lớn, ta miễn cưỡng trao thằng bé vào tay anh trong sáu tháng. Hãy làm bất cứ điều gì cần làm. Về phần anh, Bill Arkwright ạ, vẫn là lời khuyên khi anh còn đảm đương vai trò người học việc của ta nhé. Đấu tranh chống lại thế lực bóng tối là nghĩa vụ của anh. Nhưng liệu trận chiến ấy có đáng không, nếu hậu quả là tâm hồn của chính anh sẽ héo mòn và chết lịm? Anh có rất nhiều điều để dạy cho thằng bé. Hãy dạy dỗ nó thật tốt như ta đã làm với anh. Nhưng bằng việc dạy người, ta hy vọng anh cũng sẽ tiếp thu vài chuyện. Hãy gạt chai rượu sang bên một lần và vĩnh viễn đi nào. Hãy bỏ lại sự cay đắng sau lưng để trở thành người mà số phận đã định sẵn cho anh.
John Gregory
Tôi nhét lá thư trở vào phong bì và bỏ vào túi quần. Xong xuôi, tôi bước đến góc tối dưới chân cầu, quấn mình bằng áo choàng, nằm xuống nền đất cứng, lạnh lẽo. Thật lâu sau tôi mới thiếp đi. Tôi có rất nhiều chuyện phải nghĩ đến.
Thầy Trừ Tà đã cố giấu tôi những mối lo sợ của thầy – nhưng lại không thành công cho lắm. Quả là thầy đã nghĩ Quỷ Vương sẽ quay lại tiêu diệt tôi. Đấy là lý do vì sao thầy nuông chiều, bảo bọc tôi. Thầy gửi tôi đến chỗ Arkwright để tôi được rèn luyện. Nhưng liệu có phải như thế nghĩa là tôi cứ bị một tay nát rượu đánh cho bầm dập? Thậm chí Thầy Trừ Tà hình như cũng dè chừng. Nghe như thể ông Arkwright từng đối xử tệ với những chân học việc khác của thầy. Ấy vậy mà, bất chấp điều này, thầy vẫn gửi tôi đến với người thầy mới tàn nhẫn. Hẳn Thầy Trừ Tà cho rằng việc ấy là quan trọng. Đến đấy, tôi nhớ ra điều Alice từng bảo với mình sau khi chúng tôi đối đầu với Mẹ Malkin và tôi ngăn không cho cô thiêu chết mụ phù thủy.
Hãy cứng rắn lên, bằng không cậu sẽ không sống sót! Chỉ làm theo những gì Lão Gregory bảo sẽ chẳng đủ đâu. Cậu sẽ mất mạng như những người khác thôi!
Nhiều người học việc khác của thầy tôi đã bị giết khi đang học nghề. Đây đúng là một công việc nguy hiểm thật, nhất là thời điểm bây giờ, khi Ác quỷ đã bước chân vào thế giới của chúng tôi. Nhưng trở nên cứng rắn hơn nghĩa là tôi phải tàn nhẫn như Arkwright sao? Phải để cho tâm hồn của chính tôi héo úa và chết lịm à?
Bao lời tranh cãi cứ quay mòng mòng trong đầu tôi thật lâu, nhưng cuối cùng tôi cũng thiếp đi, một giấc ngủ không mộng mị, và mặc cho trời lạnh, tôi vẫn ngủ say cho đến khi tia sáng mờ mờ đầu tiên của bình minh ló dạng. Lại là một buổi sáng mù sương nhưng giờ đây, đầu óc tôi đã thông suốt nhạy bén. Vừa tỉnh giấc, tôi nhận thấy mình đã đưa ra được quyết định. Tôi sẽ quay trở lại chỗ ông Arkwright mà tiếp tục kỳ huấn luyện.
Trước hết, tôi tin tưởng thầy mình. Dù có e dè đấy nhưng thầy nghĩ đây là việc đúng đắn cần làm. Thứ nữa, trực giác của chính tôi cũng đồng ý. Tôi có cảm giác nơi đây có chuyện gì đấy quan trọng. Nếu quay về Chipenden, tôi sẽ bỏ qua kỳ huấn luyện sẽ diễn ra tại nơi này. Và nếu lỡ mất thì tôi sẽ còn tệ hơn nữa. Dù vậy, việc này sẽ rất khó khăn, trong khi tôi tuyệt đối chả có hứng thú gì với ý nghĩ mình phải trải qua sáu tháng cùng ông Arkwright.
Khi tôi quay lại cối xay, cửa trước đã mở khóa và tôi còn ngửi thấy mùi thức ăn trước khi vào đến bếp. Ông Arkwright đang chiên trứng cùng thịt muối trên bếp lò bén lửa.
"Đói không cậu Ward?" Ông hỏi mà không buồn quay lại.
"Có, cháu đang đói lắm ạ!" Tôi đáp.
"Không nghi ngờ gì là cậu cũng lạnh và ướt nữa. Nhưng đấy là những gì cậu gặp phải khi qua đêm dưới một cây cầu tối đen, ẩm ướt bắc qua kênh trong khi lẽ ra cậu có thể ngủ khá êm ấm. Nhưng chúng ta sẽ không nói về chuyện này nữa. Cậu đã quay lại và đấy mới là điều quan trọng."
Năm phút sau, chúng tôi ngồi tại bàn, đánh chén những món được công nhận là một bữa điểm tâm hết sẩy. Ông Arkwright dường như nói nhiều hơn ngày hôm trước. "Cậu ngủ say quá," ông bảo. "Quá say. Và điều này làm tôi lo lắng..."
Tôi hoang mang nhìn ông. Ý ông là gì?
"Tối hôm qua, tôi phái con chó cái đến gác cho cậu. Phòng trường hợp có thứ gì từ dưới nước chui lên. Cậu đã đọc thư của thầy mình rồi đấy. Quỷ Vương có thể sai thuộc hạ đến tấn công cậu bất cứ lúc nào, nên tôi không thể liều lĩnh. Khi tôi quay lại, ngay trước khi trời sáng, cậu vẫn đang ngủ say sưa. Thậm chí cậu còn không biết là tôi có mặt tại đấy. Như vậy là không ổn đâu, cậu Ward à. Ngay cả khi buồn ngủ cậu cũng phải cảnh giác với nguy hiểm. Chúng ta cần phải làm gì đó với chuyện này mới được..."
Ngay sau khi dùng xong điểm tâm, ông Arkwright đứng lên. "Còn về tính tò mò của cậu ấy mà, tò mò có ngày bỏ mạng. Vậy nên, để ngăn cậu nhúng mũi vào nơi không phận sự, tôi sẽ chỉ cho cậu biết từng chốn một và giải thích tình hình ngôi nhà này. Sau đấy, tôi không bao giờ muốn cậu nhắc lại nữa nhé. Tôi nói rõ chưa hử?"
"Rõ ạ," tôi cũng đẩy ghế ra rồi đứng lên.
"Được rồi, cậu Ward, vậy hãy đi theo tôi..."
Ông Arkwright dẫn đường đi thẳng đến phòng có chiếc giường đôi đẫm nước. "Có hai hồn ma đang ám cối xay," ông buồn rầu bảo. "Là linh hồn của bố mẹ tôi. Abe và Amelia. Hầu hết mọi đêm họ ngủ trên giường này. Mẹ tôi chết trong nước. Đấy là lý do vì sao giường lại ướt đến thế.
"Cậu thấy đấy, họ là một cặp yêu nhau hết mực, và giờ đây ngay cả khi chết, họ cũng không muốn bị chia lìa. Bố tôi đang sửa lại mái nhà thì gặp phải một tai nạn kinh hoàng. Ông ngã chết. Mẹ tôi quá đau buồn vì mất ông nên đã tự vẫn. Bà không thể sống thiếu ông nên đã gieo mình xuống dưới bánh xe quay nước. Đấy là một cái chết đau đớn, khủng khiếp. Bánh xe nước lôi mẹ tôi xuống rồi quay gãy từng chiếc xương trên người bà. Vì tự kết liễu đời mình nên bà không thể siêu thoát, thế là bố tôi ở lại cùng bà. Ý chí bà rất mạnh, dù cho bà đã phải chịu đau đớn. Mạnh hơn bất cứ hồn ma nào tôi từng gặp. Bà giữ cho lửa cháy mãi, cố làm ấm lại bộ xương ướt sũng, lạnh ngắt của mình. Nhưng bà cảm thấy đỡ hơn khi có tôi gần bên. Cả bố mẹ tôi đều thế."
Tôi định mở miệng nhưng không một từ ngữ nào thốt ra nổi. Thật là một câu chuyện kinh khủng. Có phải điều ấy giải thích vì sao ông Arkwright lại tàn nhẫn và khắc nghiệt đến thế chăng?
"Được rồi, cậu Ward, còn nhiều chuyện cần xem nữa. Theo tôi nào..."
"Cháu đã chứng kiến đủ rồi ạ, cảm ơn ông," tôi nói. "Cháu rất lấy làm tiếc về chuyện của bố mẹ ông. Ông nói phải, đấy không phải là việc của cháu..."
"Chúng ta đã bắt đầu thì sẽ phải biết cho trót. Cậu sẽ chứng kiến tất cả!"
Ông Arkwright dẫn đường đi lên dãy cầu thang tiếp theo hướng vào phòng riêng của mình. Dưới đáy bếp lò chỉ còn than hồng nhưng trong phòng vẫn ấm. Cây kẹp than và cời lò đang nằm trong giỏ than. Chúng tôi đi qua ba chiếc ghế và tiến thẳng đến chỗ hai cỗ quan tài trong góc phòng.
"Cả bố mẹ tôi đều bị trói buộc vào xương cốt của họ," ông bảo tôi, "nên họ không thể rời đi đâu xa ngoài phạm vi cối xay. Tôi đã đào rồi mang họ lên đây, nơi họ thấy dễ chịu nhất. Còn tốt hơn là đi ám cái bãi tha ma lộng gió ngoài mép bãi lầy kia. Họ không có ý làm hại ai. Đôi khi ba người chúng tôi ngồi đây trò chuyện. Đấy là lúc họ vui vẻ nhất..."
"Ta không thể làm gì sao ạ?" Tôi hỏi.
Arkwright quay sang tôi, gương mặt bừng bừng giận dữ. "Cậu nghĩ là tôi chưa từng thử à? Đấy là lý do ban đầu vì sao tôi đã trở thành kẻ trừ tà đấy chứ! Tôi tưởng khóa huấn luyện sẽ giúp tôi có kiến thức để giải thoát cho bố mẹ tôi. Nhưng rồi chẳng được gì. Thầy Gregory cũng đến đây để xem có giúp gì được không. Thầy ấy đã làm hết sức nhưng cũng vô ích. Vậy giờ cậu biết cả rồi, phải không nào?"
Tôi gật đầu rồi cụp mắt xuống, không thể nào nhìn thẳng vào mắt ông ấy.
"Này," ông Arkwright bảo, giọng đã dịu đi nhiều, "tôi cũng đang phải đấu tranh chống lại con quỷ trong chính tôi đây – con ‘Ma Men’ ấy, gọi chính xác là vậy. Nó khiến tôi khắc nghiệt và tàn nhẫn hơn khi tôi tỉnh táo, nhưng lúc này đây tôi không sao trụ nổi mà không có nó. Nó xóa đi nỗi đau – cho phép tôi quên đi những gì mình đã mất. Chắc chắn tôi đã hơi quá đà một chút nhưng tôi vẫn còn nhiều thứ phải dạy cậu, cậu Ward ạ. Cậu đã đọc thư rồi: nhiệm vụ của tôi là tôi rèn cậu, giúp cậu chuẩn bị để đối phó với mối đe dọa từ Quỷ Vương đang ngày một gia tăng. Và tại đây có bằng chứng cho thấy thế lực bóng tối đang trỗi dậy nhanh hơn trước đấy. Từ khi tôi biết tin cậu sẽ đến, công việc của tôi đã trở nên khó khăn hơn. Tôi chưa khi nào trông thấy quá nhiều hoạt động của thủy phù thủy đến thế. Có lẽ là nhắm đến cậu đấy. Nên cậu phải sẵn sàng thôi. Tôi nói rõ chưa nào?"
Tôi lại gật.
"Chúng ta đã khởi đầu không hay ho cho lắm. Tôi đã huấn luyện ba cậu học việc cho thầy Gregory nhưng chưa có cậu nào lì mặt đến mức dám lên đến đây. Giờ khi cậu đã hiểu tình hình, tôi mong là cậu tránh xa căn phòng này. Cậu có hứa với tôi như thế không, cậu Ward?"
"Vâng, có chứ ạ. Cháu vô cùng xin lỗi."
"Tốt, thôi được, thế thì chuyện này đã giải quyết xong. Giờ đây chúng ta có thể bắt đầu lại rồi. Từ đây đến hết ngày sẽ là những bài học trong nhà để bù lại khoảng thời gian chiều hôm qua đã bị bỏ phí. Nhưng ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục việc luyện tập thực hành đấy."
Hẳn ông Arkwright đã thấy vẻ ủ dột trên mặt tôi. Chắc chắn là tôi không hứng thú gì với việc giao đấu bằng trượng rồi. Ông lắc đầu và gần như nhoẻn miệng cười. "Đừng lo cậu Ward ạ. Chúng ta sẽ dành vài ngày cho mấy vết bầm trên người cậu nhạt đi rồi mới giao đấu tiếp."
Tuần tiếp sau đấy gian khổ thật, nhưng may sao chúng tôi không giao đấu với nhau và những vết bầm đúng là từ từ nhạt đi.
Tôi luyện tập với hai con chó suốt. Ở gần chúng khiến tôi lo lắng nhưng chúng được huấn luyện kỹ và rất vâng lời nên tôi thấy khá an tâm khi ông Arkwright có mặt ở đó. Ở phía đông là khu vực rừng lầy lội và chúng tôi thực hành sử dụng chó để lừa phù thủy ra khỏi chỗ nấp. Phần dễ sợ nhất là khi tôi phải đóng vai phù thủy bằng cách ẩn mình dưới lòng đất. Arkwright gọi trò này là "Săn kẻ học việc!" Đám chó sẽ chạy lòng vòng xung quanh và lùa tôi thẳng về phía ông Arkwright đứng chờ với thanh trượng có ngạnh trên tay. Trò này gợi cho tôi nhớ đến việc lùa cừu, rồi khi đến lượt tôi, tôi bắt đầu thấy thích thú lắm.
Kém thú vị hơn là những buổi học bơi. Trước khi một lần nữa nhảy xuống nước, tôi bị buộc phải thực hành cách đập tay bằng cách nằm sấp xuống ghế, hai tay hai chân thõng ra khỏi hai đầu ghế. Ông Arkwright dạy tôi hít vào trong khi quạt tay ra với bàn tay khum khum như đang múc. Rồi tôi thở ra, tay vung tới trước, đồng thời cố làm động tác đạp chân ếch thật mạnh. Tôi nhanh chóng thành thục, tuy nhiên, những động tác như thế mà thực hiện dưới kênh thì khó khăn hơn nhiều.
Ngày đầu tiên tôi nuốt khá nhiều nước bẩn và phát ói. Nhưng sau đấy ông Arkwright nhảy xuống kênh cùng tôi, và có ông bơi bên cạnh phòng trường hợp tôi gặp rắc rối, lòng tự tin của tôi dần tăng lên và tôi nhanh chóng bơi được những sải đầu tiên mà không cần trợ giúp. Nhìn toàn cảnh, mọi chuyện đã khá hơn rất nhiều, tật uống rượu của ông Arkwright dường như đang cải thiện dần. Ông chỉ tìm đến chai rượu sau bữa tối, và đấy là gợi ý cho biết tôi phải đi ngủ thôi.
Đến cuối tuần, tôi có thể bơi, qua lại trong kênh năm vòng, mỗi lần trở đầu thật nhanh bằng cách dùng chân tống vào thành kênh. Tôi cũng có thể bơi "kiểu bơi chó"; có vẻ không hiệu quả như kiểu bơi kia nhưng lại cho phép tôi nổi một chỗ mà không bị chìm – điều rất hữu ích với kẻ từng rất lo đến chuyện bơi lội như tôi đây!
"Cậu Ward này," ông Arkwright nói với tôi, "cậu đang bắt đầu tiến bộ rồi đấy. Ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục trò đi săn với chó, và lần này chúng ta sẽ thử trò khác nhé. Đã đến lúc cậu phải học cách đương đầu với đầm lầy rồi."