Chúng tôi quay trở về cối xay đầu buổi chiều, ngay khi trời đổ mưa. Tôi những tưởng chúng tôi sẽ dùng bữa, nhưng ông Arkwright lại bảo tôi lấy sổ ghi chép ra ngồi bên bàn bếp. Dường như ông sắp giảng bài.
Tôi ngồi đấy chờ một đỗi khá lâu, đến cuối cùng, ông Arkwright cũng từ phòng khách bước ra, tay cầm theo ngọn đèn lồng và một chai vang đỏ đã vơi một nửa. Ông ấy đã uống hết từng ấy kia à? Sắc mặt ông cau có sa sầm còn hơn đám mây dông và ông trông chẳng có tâm trạng gì là muốn dạy dỗ cả.
"Hãy viết lại những gì tôi dạy cậu sáng nay đi," ông Arkwright đặt đèn lồng xuống giữa bàn. Tôi ngạc nhiên quan sát ngọn đèn: trong bếp hơi tù mù một tí nhưng vẫn còn đủ ánh sáng để nhìn rõ. Rồi ông Arkwright tu một ngụm lớn rượu vang và hướng tầm mắt ra ngoài cửa sổ bếp u ám, nhìn chăm chăm vào cơn mưa xối xả từ mái nhà đổ xuống.
Trong khi tôi ghi chép, làm việc trong vòng ánh sáng vàng vọt thật lớn nọ, ông Arkwright chỉ tiếp tục nhìn đăm đăm như thế, thỉnh thoảng tu một ngụm rượu. Đến khi tôi viết xong tất cả những gì mình đã học về hải cẩu nhân, chai rượu gần như cạn sạch.
"Xong chưa hử cậu Ward?" Ông Arkwright hỏi khi tôi đặt bút xuống.
Tôi gật đầu và mỉm cười nhìn ông, ông chẳng cười lại. Thay vì thế ông uống cạn giọt rượu cuối cùng rồi nhanh nhẹn đứng lên.
"Tôi nghĩ đến lúc làm chút lằn và u rồi đấy! Cầm lấy trượng đi theo tôi nào!"
Miệng tôi há ra khi tôi kinh ngạc nhìn ông. Tôi cũng lo lắng nữa. Tôi không thích ánh nhìn khắc nghiệt, tàn nhẫn trong mắt ông ấy. Ông Arkwright giật phắt lấy thanh trượng của ông cùng ngọn đèn lồng rồi quày quả bước đi, hai vai đung đưa xông xáo. Thế là tôi cầm trượng của mình vội vã đi theo.
Ông dẫn tôi băng qua bếp, xuôi dọc theo hành lang đến một cánh cửa ở cuối dãy. Cánh cửa có hai thanh chèn nặng trịch nhưng đều đã được rút ra.
"Đã từng vào trong này chưa cậu Ward?"
Tôi lắc đầu. Ông Arkwright mở cửa ra rồi bước xuống vài bậc thang trong bóng tối lờ mờ, tôi theo sau. Kế đó, ông treo đèn lồng lên cái móc ngay giữa trần nhà. Điều đầu tiên tôi chú ý đến là căn phòng không có cửa sổ. Ước chừng căn phòng mỗi chiều dài ba mét và được xây thấp hơn phần còn lại của ngôi nhà, với sàn nhà lát đá tảng thay vì sàn gỗ.
"Lằn và u là gì vậy ạ?" Tôi bồn chồn hỏi.
"Đấy là cụm từ đôi khi tôi dùng để nói về việc thực hành. Chắc cậu đã tập vung xích trong vườn nhà thầy Gregory cũng như dùng trượng đánh vào gốc cây khô. Ngày hôm qua chúng ta đã tiến xa hơn khi cậu cố tấn công tôi mà thất bại ấy. Còn bây giờ là lúc phải tiếp tục luyện hơi đau hơn một chút. Tôi sẽ gắng hết sức dùng trượng quất vào cậu. Chắc chắn cậu sẽ chịu vài cục u với vết bầm, nhưng đồng thời cậu cũng sẽ tích lũy được những kỹ năng tác chiến hữu ích. Nào, cậu Ward. Hãy xem khả năng cậu đến đâu nào!"
Dứt lời, ông Arkwright quất trượng vào tôi, nhắm thẳng vào đầu. Tôi thối lui kịp lúc, đầu trượng bằng gỗ nặng trịch chỉ hụt mũi tôi vài phân. Ông Arkwright lại tiếp tục xông tới, buộc tôi phải thụt lùi.
Thầy Trừ Tà thường bắt tôi tập kỹ năng cơ bắp cần dùng khi chiến đấu chống lại thế lực bóng tối. Có thầy tôi huấn luyện và quan sát, tôi tập những kỹ năng ấy cho đến khi mệt nhoài. Cuối cùng, việc tập luyện cũng mang lại kết quả thích đáng. Trong các tình huống nguy hiểm thì chính các kỹ năng học được đã cứu mạng tôi. Nhưng tôi chưa khi nào phải đấu với thầy cả, dùng trượng đối trượng ấy. Đã thế, ông Arkwright lại còn vừa uống rượu xong nữa chứ, dường như men rượu khiến ông thêm nóng tính.
Lần ra đòn thứ hai ông Arkwright xông đến rất nhanh, vung trượng thật mạnh. Tôi dùng trượng đỡ vừa kịp, sự va chạm gây chấn động lên hai cánh tay rồi truyền đến hai vai tôi. Tôi đang di chuyển ngược chiều kim đồng hồ, dè dặt thối lui, bụng thắc mắc không rõ ông ấy muốn làm mình bị thương thật hay đơn giản chỉ là đang ép tôi tập phòng vệ.
Lời đáp đến ngay sau đấy. Arkwright vờ nhá người sang phải, rồi quất thanh trượng theo hình vòng cung sắc nét để vòng đến đánh mạnh vào vai trái tôi. Cơn choáng váng từ cú va chạm này thật kinh khủng, khiến tôi ngay lập tức đánh rơi trượng.
"Nhặt trượng lên, cậu Ward. Mà chúng ta chưa bắt đầu đâu đấy..."
Bàn tay trái của tôi run lẩy bẩy khi tôi tóm lấy trượng. Vai tôi nhức nhối, cả cánh tay tê rần.
"À, cậu đã gặp rắc rối phải không cậu Ward. Nếu như trước đây cậu từng tập luyện và sẵn sàng cho tình huống này, hẳn cậu đã có thể giao chiến bằng tay phải rồi đấy!"
Giờ thì tôi nâng trượng lên phòng vệ, dùng cả hai tay để giữ chặt lấy trượng. Ba đòn tấn công giáng xuống mạnh mẽ, ba tiếng bốp vang dội do va vào thanh gỗ. Mỗi đòn tôi đều đỡ được trong gang tấc; nếu đỡ không xong, những cú đánh ấy đã giáng trúng đầu hay mình tôi. Lúc này ông Arkwright đang thở gấp, khuôn mặt đỏ rần lên vì giận dữ, hai mắt như lồi hẳn ra khỏi hốc, các mạch máu nổi cộm lên hai bên thái dương. Trông ông như thể muốn lấy mạng tôi: hết lần này sang lần khác ông hung tợn quất trượng vào tôi cho đến khi tôi không còn đếm nổi mình đã gạt đi bao nhiêu cú rồi. Ấy vậy mà tôi chưa tấn công được một lần nên cơn tức tối đang tích tụ dần trong tôi. Người đàn ông này thuộc loại người nào thế? Đây có phải cách một kẻ trừ tà huấn luyện người học việc của mình không vậy?
Arkwright có sức mạnh phi thường. Ông là người đàn ông trưởng thành trong khi tôi vẫn còn là một cậu bé. Nhưng có lẽ tôi sở hữu một lợi thế: tốc độ...
Tôi chỉ phải nắm bắt cơ hội thôi. Ý nghĩ ấy vừa nảy đến trong đầu tôi thì cơ hội đã đến. Arkwright tung đòn. Tôi thụp xuống né. Ông thoáng mất thăng bằng – chắc là do lượng rượu vừa mới nốc – nên hở sườn, thế là tôi tấn công thật mạnh vào vai trái ông, một cú phản đòn chính xác đáp trả lại cơn đau ông gây ra cho tôi.
Arkwright không đánh rơi trượng. Ông chỉ tấn công trở lại, nhưng lực ra đòn còn dữ dội hơn bao giờ hết. Một cú quất vào vai phải tôi, sau đó là tay phải, thế là chính thanh trượng của tôi lại rơi xuống nền đá. Tiếp theo, tôi chỉ kịp biết là ông vung trượng xuống đầu mình mà thôi. Tôi đã cố thụt lùi nhưng trán vẫn bị khẽ sướt qua, khiến tôi khuỵu gối.
"Đứng dậy," ông Arkwright nhìn tôi. "Tôi đâu có đánh cậu mạnh đến thế. Chỉ là một cú gõ nhẹ để cậu thấy chuyện gì có khả năng xảy ra trong một trận chiến thực sự. Cú đánh cuối cùng kia có thể mang nghĩa là cậu sẽ không bao giờ nhìn thấy ánh dương nữa. Cuộc đời khắc nghiệt lắm, cậu Ward à, và ngoài kia đang có lắm kẻ thù chỉ muốn chứng kiến cậu bị chôn vùi xuống đất. Công việc của tôi là huấn luyện cậu cho kỹ càng. Để bảo đảm cậu có các kỹ năng để ngăn chặn bọn chúng! Và nếu như thế khiến cậu chịu vài cục u thì cũng phải thôi. Đấy sẽ là cái giá rất đáng trả!"
Cuối cùng, tôi cũng nhẹ cả người khi ông Arkwright tuyên bố bài học kết thúc. Cơn mưa đã dứt và ông sẽ đi kiểm tra con kênh phía nam, mang cả hai con chó theo. Ông dặn tôi ôn lại những danh từ và động từ tiếng La Tinh trong khi ông đi khỏi. Có vẻ ông Arkwright không muốn tôi đi cùng và hẳn là sẽ hạnh phúc hơn nhiều nếu tôi trở lại với Thầy Trừ Tà.
Tôi ngoan ngoãn ngồi học các động từ được một lúc, nhưng rồi thấy sao khó tập trung quá. Ngay khi ấy, tôi nghe thấy một tiếng động ở đâu đấy bên trên. Là từ tầng một hay tầng trên nữa nhỉ...?
Tôi đứng dưới chân cầu thang dỏng tai chú ý nghe ngóng. Một chập sau, âm thanh kia lại vang lên. Không phải là tiếng bước chân hay tiếng va chạm lộp bộp gì đâu – tôi không thể xác định tiếng động ấy là gì. Nghe cứ lạo xạo. Trên kia đang có ai à? Hay đấy là một trong những hồn ma mà đêm trước tôi từng nghe tiếng? Một trong những hồn ma trong gia đình ông Arkwright ấy?
Tôi biết việc đi lên lầu là không nên – người thầy mới của tôi chắc chắn sẽ không thích đâu. Nhưng tôi đang chán chường, tò mò lẫn tức giận ông ấy vì đã đánh vào đầu tôi. Ông ấy gọi đấy là một cú "gõ nhẹ" nhưng thực tế là mạnh tay hơn thế. Tôi cũng chán ngấy ông cùng những bí mật của ông lắm rồi.
Ông Arkwright đang đi vắng và những gì ông không biết sẽ chẳng làm hại gì đến ông. Thế là tôi dợm bước lên lầu, từng bước một, cố gắng gây ra càng ít tiếng động càng tốt. Tại đầu cầu thang tầng một, ngay bên ngoài căn phòng đôi, tôi dừng lại lắng nghe chăm chú. Tôi nghĩ mình đã nghe thấy tiếng sột soạt khe khẽ bên trong. Tôi đẩy nhẹ cửa rồi bước vào phòng, nhưng hóa ra là chẳng có gì. Trên chiếc giường đôi, các tấm trải vẫn còn xộc xệch. Một lần nữa tôi khẽ chạm vào tấm trải. Nệm vẫn như thế. Ướt sũng nước. Nhưng có thứ gì đó khang khác. Mấy tấm trải ngày hôm nay dường như bị kéo xuống thấp hơn.
Tôi rùng mình, nhanh chóng rời khỏi phòng rồi kiểm tra ba phòng còn lại. Trong mấy phòng này có vẻ như không có gì thay đổi. Tôi đang đứng trong phòng mình thì lại nghe thấy tiếng động nọ. Âm thanh từ tầng trên vọng xuống.
Thế là, vì lúc này đã tò mò quá đỗi, tôi tiếp tục bước lên lầu. Nơi đầu cầu thang tiếp theo chỉ có một cánh cửa. Tôi thử xoay nắm cửa và thấy nó bị khóa. Lẽ ra tôi nên quay bước đi xuống lầu ngay lúc ấy. Dẫu sao thì ông Arkwright đã đặc biệt dặn dò tôi phải tránh xa phòng ông. Nhưng tôi không ưa cái lối ông đối xử với tôi – cả việc này lẫn việc ông thường từ chối trả lời những câu hỏi của tôi nữa. Vậy nên, bất chợt nổi hứng, cộng thêm chút bực bội, tôi lấy chiếc chìa khóa đặc biệt từ trong túi ra để mở cửa.
Khi vào được bên trong, tôi bất ngờ với kích thước căn phòng. Nhờ ánh sáng từ hai ngọn nến lớn, tôi nhận thấy căn phòng thật rộng. Rất rộng. Diện tích nền là toàn bộ diện tích ngôi nhà. Điều thứ hai tôi chú ý đến là nhiệt độ trong phòng này. Ấm áp và khô ráo. Có một bếp lò khác, lớn gấp đôi bếp lò dưới bếp, và lò đang tỏa nhiệt. Cạnh bên bếp lò là một giỏ đựng than to tướng, cây kẹp than lẫn cây cời lò thò ra khỏi giỏ.
Những kệ sách che kín hết hai bức tường – vậy ra ông Arkwright cũng có thư viện cho riêng mình. Sàn nhà gỗ được đánh bóng đen óng và có một tấm thảm lông cừu trải ra trước ba chiếc ghế đối diện với bếp lò. Đến khi ấy tôi mới để ý thấy thứ nằm ở góc phòng phía sau, đằng xa kia...
Thoạt nhìn tôi tưởng mấy ngọn nến được đặt trên hai chiếc bàn hình chữ nhật. Nhưng tôi đã lầm. Đấy thật ra là hai cỗ quan tài xếp cạnh nhau, mỗi quan tài có một giá đỡ. Tôi bước lại chỗ chúng, cảm nhận được tóc gáy mình dựng lên. Căn phòng dần dần trở lạnh. Hay có vẻ như vậy. Là điều cảnh báo cho thấy những kẻ đã chết không thanh thản đang tiến đến gần.
Tôi nhìn hai cỗ quan tài và đọc chữ trên mấy tấm bảng đồng. Tấm đầu tiên sáng bóng có đề:
Abraham Arkwright
Nhưng không giống cỗ đầu tiên, vừa sạch vừa bóng loáng và trông gần như mới, phần gỗ của cỗ thứ hai trông mục ruỗng, phủ đầy những rêu; kinh ngạc một nỗi, tôi thật sự trông thấy hơi nước từ cỗ quan tài này bốc lên, tỏa vào bầu không khí ấm áp xung quanh. Tấm bảng đồng mờ xỉn và khó khăn lắm tôi mới có thể đọc những gì khắc trên ấy...
Amelia Arkwright
Rồi tôi nhìn thấy, ngay dưới tấm bảng, một chiếc nhẫn vàng thanh mảnh đặt trên lớp gỗ. Trông như là nhẫn cưới. Ắt hẳn là nhẫn của bà Amelia.
Tôi nghe thấy hai âm thanh sau lưng mình: tiếng kim loại va nhau lanh canh; rồi cánh cửa bếp lò mở ra. Tôi xoay ngoắt lại thì thấy cửa bếp mở rộng và cây cời lò được nhét vào đống than đang cháy đỏ. Trong khi tôi quan sát, que cời bắt đầu dịch chuyển. Đấy là âm thanh tôi đã nghe thấy lúc ở dưới lầu. Tiếng lào xào, lạo xạo khi đống lửa được cời đỏ!
Hoảng sợ, tôi quay lưng rời khỏi phòng ngay lập tức và chạy xuống lầu. Kiểu hồn ma ấy là gì nhỉ? Mấy ông kẹ có thể nhiễu sự, ném đá nhỏ lẫn đá tảng, đập vỡ bát đĩa hoặc quẳng nồi niêu khắp bếp. Nhưng hồn ma thì không. Chắc chắn không. Quyền năng của hồn ma thường chỉ gói gọn trong việc dọa người ta sợ, hiếm hoi lắm mới khiến những ai thần kinh yếu phát điên. Hồn ma thường không có đủ sức mạnh để làm hại đến thân xác bạn. Đôi khi chúng kéo tóc bạn; hồn ma của kẻ bóp cổ thì đặt tay quanh cổ bạn mà siết. Nhưng đây là một linh hồn khác hẳn với những gì tôi từng được dạy hay chạm trán. Hồn ma này nâng được cây cời than nặng nề bằng kim loại khỏi giỏ đựng than, biết mở cửa bếp lò và bắt đầu cời lửa.
Chuyện như thế đã là ghê gớm lắm rồi, vậy mà chuyện tồi tệ hơn lại sắp xảy đến. Đang đứng ngay dưới chân cầu thang và chờ tôi trong sảnh là ông Arkwright, tay cầm chặt một chai rượu khác đã vơi phân nửa, khuôn mặt bừng bừng thịnh nộ.
"Tôi đã đứng đây một chập mà không thể tin là mình đang nghe đúng. Cậu đâu chỉ mới ở trong phòng mình thôi, phải không cậu Ward? Cậu vừa lục lọi loanh quanh. Vừa chõ mũi vào nơi không phải của mình!"
"Cháu nghe thấy tiếng ồn trên lầu ạ," tôi dừng lại trên bậc thang cuối. Ông Arkwright đang chắn lối tôi.
"Trên lầu có lắm tiếng ồn, mà như cậu thừa biết, là do những người chết không thanh thản gây ra. Do gia đình tôi. Và đấy là chuyện của tôi," giọng ông lúc này đều đều đến nguy hiểm, "và nó chẳng liên quan chút gì đến cậu. Đợi đấy!"
Tay vẫn mang theo chai rượu, ông Arkwright thô bạo lách người khỏi tôi rồi chạy lên lầu hai bậc thang một. Tôi nghe thấy ông ấy bước dọc theo đầu cầu thang tầng một rồi đi vào ba căn phòng ngủ. Rồi ông đi lên dãy cầu thang tiếp theo và một tiếng rống phẫn nộ cất lên. Tôi đã quên khóa cửa lại. Tôi biết ông Arkwright sẽ rất tức giận vì mình đã đi vào phòng riêng của ông. Chắc chắn ông không muốn tôi trông thấy mấy cỗ quan tài...
Arkwright lao bổ xuống cầu thang và chạy xộc đến chỗ tôi. Trong thoáng chốc, tôi cứ tưởng ông sẽ phang chai rượu vào mình, nhưng ông chỉ dùng tay phải bợp vào tai trái tôi. Cố né người tránh đòn, tôi mất thăng bằng, hụt chân, té ầm xuống sàn bếp. Tôi nhìn lên, đầu ong ong, ngoác mồm ra thở dốc. Tôi cảm thấy choáng váng và buồn nôn: cú ngã đã làm tôi hụt cả hơi. Arkwright nhấc ủng lên, tôi ngỡ ông sắp đá mình, nhưng thay vào đó ông chỉ ngồi xổm xuống gần đầu tôi, đôi mắt phẫn nộ đến tóe lửa nhìn trừng trừng vào mắt tôi.
"À," hơi thở chua loét của ông phả thẳng vào mặt tôi, "hãy xem như đấy là bài học dành cho cậu. Tôi sẽ lại ra ngoài cùng mấy con chó để kiểm tra đầm lầy. Trong lúc ấy cậu hãy tiếp tục học bài đi. Nếu chuyện này tái diễn, cậu không biết chuyện gì sẽ xảy đến với mình đâu đấy!"
Sau khi ông Arkwright đi khỏi, tôi bước tới bước lui quanh phòng bếp, lòng ngùn ngụt những tức tối và tổn thương. Chẳng có cậu bé học việc nào đáng phải chịu đựng những gì tôi vừa trải qua cả.
Tôi không mất bao lâu để đưa ra quyết định. Việc tôi ở cùng với Arkwright đã chấm dứt. Tôi sẽ quay về Chipenden. Chắc chắn Thầy Trừ Tà sẽ không hài lòng khi thấy tôi quay về sớm thế. Tôi chỉ hy vọng thầy sẽ tin vào những gì đã xảy ra với tôi mà đứng về phía tôi thôi.
Chẳng nghĩ ngợi gì thêm nữa, tôi nhặt túi đồ cùng thanh trượng của mình lên, băng qua phòng và đến chỗ cánh cửa ngoài hàng hiên, sau đó cất bước ra vườn. Tôi do dự. Lỡ hai con chó đang ở gần đây và đánh hơi thấy mùi của tôi thì phải làm sao?
Tôi dỏng tai lên nhưng chỉ nghe thấy tiếng gió rền rĩ kéo qua đầm lầy. Chập sau, tôi đã lội qua con mương đầy muối, lòng khấp khởi vui mừng vì mình không còn dính dáng đến ông Arkwright cùng cái cối xay cũ kỹ ẩm ướt kia nữa. Rồi sớm thôi, tôi sẽ được quay về bên Alice và Thầy Trừ Tà.