Hóa ra ngày hôm sau tôi không trải qua huấn luyện gì cả. Chúng tôi vừa dùng xong điểm tâm thì có tiếng chuông từ xa vang lên. Chuông vang ba lần.
"Nghe như có rắc rối," ông Arkwright nhận xét. "Mang theo trượng nhé, cậu Ward. Ta hãy đi xem vấn đề là gì nào..."
Nói đoạn, ông dẫn đường đi ra vườn, băng qua con mương đầy muối hướng về phía con kênh. Một ông lão cao kều đã đứng chờ dưới cột chuông. Ông ấy đang nắm chặt một mảnh giấy trước ngực.
"Vậy là bác quyết định rồi..." Arkwright nói khi chúng tôi tiến đến gần.
Ông lão gật đầu. Ông vừa cao vừa ốm, mái tóc hoa râm lơ thơ quanh thái dương. Trông như thể một cơn gió giật có thể thổi bay ông đi mất. Ông chìa mảnh giấy ra cho Arkwright nhìn thấy. Một mặt là mười chín tên người; mặt kia có ba tên. "Hôm qua chúng tôi đã biểu quyết," ông bảo, giọng rền rĩ ai oán. "Được số đông quyết định. Chúng tôi không muốn bà ta sống gần bên. Thế là không ổn. Không ổn chút nào..."
"Tôi bảo ông lần chót nhé," ông Arkwright nghe ra chiều bực bội. "Chúng ta thậm chí còn không chắc bà ấy có phải là thứ đấy không. Họ có con cái chứ?"
Ông lão ốm o lắc đầu. "Chả con cái gì, nhưng nếu bà ta là thứ đấy, thì mấy con chó của ông sẽ biết phải không? Chúng sẽ phân biệt được chứ?"
"Có lẽ, tuy không phải khi nào cũng đơn giản như thế. Nhưng thôi, tôi sẽ đến giải quyết cho – bằng cách này hay cách khác."
Ông lão gật đầu rồi vội vã đi lên hướng bắc, dọc theo con kênh.
Khi ông ấy mất dạng, Arkwright thở dài. "Đây là một trong những việc ta ghét đấy. Một đám mấy tay lương thiện trên mạn bắc cho rằng vợ một ngư dân trong vùng là hải cẩu nhân," Arkwright đáp, hai tiếng "lương thiện" nghe đầy mai mỉa. "Bọn họ đã xào xáo gần cả năm nay, cố đưa ra quyết định. Giờ thì họ muốn ta xử lý việc này."
"Hải cẩu nhân ư? Là gì thế ạ?"
"Hải cẩu nhân là một loại biến hình, thứ thường được biết đến như là ‘nửa đàn bà-nửa hải cẩu’ đấy cậu Ward ạ. Thông thường chúng sống cả đời ngoài biển nhưng thỉnh thoảng lại đem lòng thích một người đàn ông – có thể là để ý đến anh ta khi anh ta dong thuyền ra biển hoặc khi đang ngồi vá lưới. Càng quấn quít với anh ta bao nhiêu, chúng càng trở nên giống con người bấy nhiêu. Sự thay đổi ấy mất chừng một ngày là tối đa – chúng biến thành một người phụ nữ hoàn thiện – một phụ nữ cực kỳ quyến rũ. Anh ngư dân thường sẽ chết mê chết mệt vì tình ngay lần gặp đầu tiên rồi kết hôn với hải cẩu nhân ấy.
Họ không thể có con, nhưng ngoài điều đó ra thì đấy là một cuộc hôn nhân vô cùng hạnh phúc. Tôi không thấy chuyện này có gì hại cả, nhưng nếu có lời kêu ca thì chúng ta phải ra tay thôi. Đấy là một phần trong công việc. Chúng ta giúp mọi người thấy an toàn. Thế có nghĩa là phải dùng đến mấy con chó. Hải cẩu nhân đôi khi sống lẫn với con người hàng bao nhiêu năm trời trước khi xuất hiện một thoáng nghi ngờ nho nhỏ. Chủ yếu là do đám phụ nữ kích động mấy ông chồng họ đi kêu ca. Họ ghen ấy mà. Cậu biết đấy, ngoài việc được ưu ái hơn về sắc đẹp, một hải cẩu nhân còn chẳng già đi chút nào."
"Người đánh cá kia – nếu vợ ông ta là hải cẩu nhân," tôi hỏi, "liệu ông ta có biết không?"
"Sau một thời gian có vài người sẽ hiểu ra. Nhưng họ không phàn nàn..."
Nói đoạn, ông Arkwright nhún vai và huýt lên một tràng dài điếc tai. Gần như ngay lập tức, tiếng huýt sáo được đáp lại bằng tiếng hai con chó sủa từ xa rồi chúng phóng đến, hàm há to, răng nhe ra đe dọa. Chập sau ông Arkwright đã dẫn chúng tôi đi lên hướng bắc, chân sải từng bước dài dọc bờ kênh, hai con Răng và Vuốt hổn hà hổn hển theo sát gót, còn tôi đi cách sau vài bước. Chẳng mấy chốc chúng tôi qua mặt ông lão trong làng; Arkwright thậm chí còn không gật đầu về hướng ông ta.
Tôi nghe qua là không thích công việc này chút nào, và dù có vẻ cứng rắn là thế, Arkwright rõ ràng cũng không vui vẻ gì. Xét về một mặt, hải câu nhân gợi cho tôi nhớ đến phù thủy nữ yêu – chúng có thể từ từ biến thành hình dạng con người. Tôi nghĩ đến Meg, phù thủy nữ yêu mà thầy tôi từng yêu mến. Thầy sẽ thấy thế nào nếu có ai đó truy đuổi bà ấy với chó chứ? Sẽ chẳng khá khẩm hơn những gì người đánh cá kia cảm thấy khi chúng tôi truy đuổi vợ anh ta. Mẹ tôi chắc hẳn cũng là một nữ yêu, giống như hai người chị của bà, và tôi biết bố mình sẽ phản ứng ra sao nếu mẹ bị săn đuổi như thế. Toàn bộ tình huống này làm tôi thấy tồi tệ quá. Nếu vợ người đánh cá không làm gì có hại, tại sao bà ấy phải bị săn lùng?
Chúng tôi rời khỏi con kênh, rẽ sang hướng tây về phía bờ biển, và không bao lâu sau, một bờ cát màu nâu nhạt, bằng phẳng trải rộng hiện ra trước mắt. Ngày hôm ấy trời se lạnh – mặt trời không tỏa được chút hơi ấm nào, dù là nó đang rực sáng ngoài vùng biển xa xa. Tránh xa hai con chó săn sói, tôi tiến lên để bước cạnh ông Arkwright. Tôi đang tò mò và có nhiều câu để hỏi.
"Hải cẩu nhân có quyền năng gì không ạ?" Tôi hỏi. "Chúng có dùng tà thuật không?"
Arkwright lắc đầu mà không nhìn sang tôi. "Quyền năng duy nhất mà chúng có là biến hình," ông ủ rũ đáp. "Một khi đã khoác vào hình dáng con người, chúng có thể biến ngược lại trong vài phút nếu bị đe dọa."
"Vậy hải cẩu nhân có thuộc về thế lực bóng tối không?"
"Không hẳn. Xét về mặt này thì chúng giống như con người – chúng thuộc về giới nào cũng được."
Chập sau, chúng tôi đi qua một ngôi làng nhỏ chừng khoảng bảy ngôi nhà, mùi cá ươn tanh tanh thoang thoảng trong không khí. Còn có vài tấm lưới đánh cá và hai con thuyền nhỏ nhưng không thấy bóng dáng người nào. Thậm chí không cả một màn cửa động đậy. Hẳn họ đã trông thấy ông Arkwright đi đến và biết là nên ở yên trong nhà.
Qua khỏi ngôi làng, xa xa, tôi trông thấy một căn chòi đơn độc, và trên cồn cát nhỏ sau căn chòi là một người đàn ông đang ngồi vá lưới. Phía trước mặt, trên mép bờ cát, một dây phơi quần áo kéo dài từ một móc kim loại gắn trên tường cạnh cửa trước đến cây cột gỗ. Quần áo mới vắt qua phân nửa dây phơi. Người phụ nữ từ căn chòi đi ra trên tay mang theo đầy quần áo ướt và một vốc kẹp mắc áo rồi bắt đầu phơi phóng đồ mới giặt.
"Thôi, để xem đấy là gì nào," ông Arkwright càu nhàu rồi huýt sáo nhè nhẹ. Ngay lập tức cả hai con chó phóng tới trước. "Đừng lo, cậu Ward à," ông nói tiếp. "Chúng được huấn luyện kỹ lắm. Nếu bà ta là con người, chúng sẽ chỉ liếm bà ta là cùng!"
Ông Arkwright bất ngờ chạy bổ đến chỗ ngôi nhà, vào lúc ấy, người đánh cá ngước mắt lên và đứng dậy. Tóc ông bạc trắng và ông trông đã khá già rồi. Khi đấy tôi mới thấy thầy tôi không phải đang chạy về phía người phụ nữ; đích đến của ông là người đánh cá. Nhưng hai con chó thì đang nhắm vào người phụ nữ thật. Bà nhìn lên, đánh rơi giỏ đồ mới giặt, kéo váy cao quá gối và bắt đầu chạy về hướng biển xa xa.
Không nghĩ ngợi gì, tôi cũng nối gót hai chú chó bám theo con mồi. Bà ấy có phải là hải cẩu nhân không? Nếu không, tại sao bà ấy lại bỏ chạy? Có lẽ hàng xóm láng giềng của bà hay hằn học lắm, còn bấy lâu nay bà luôn biết là rắc rối sẽ đến. Hay đơn giản là người này sợ chó – có những người như thế đấy. Mà hai con Răng với Vuốt thì có thể dọa cho bất cứ ai sợ. Nhưng có điều gì đấy trong cái cách bà ấy chạy thẳng ra biển làm tôi không an tâm.
Người phụ nữ này trông còn trẻ – trẻ hơn người đánh cá nhiều; trẻ đến mức làm con gái ông vẫn được. Lúc này chúng tôi đang rút ngắn khoảng cách với bà ấy, mặc dù là bà ấy chạy nhanh, mái tóc dài phấp phới sau lưng, hai chân cuống quít. Có vẻ như bà ấy không có khả năng chạy nhanh hơn Vuốt và Răng đâu. Biển thì vẫn còn cách một quãng khá xa. Nhưng rồi tôi để ý thấy con kênh ngay trước mặt. Trông như một dòng sông chảy qua bờ cát và thủy triều từ phía tây đang rần rật đổ vào. Dòng nước cuồn cuộn trông khá sâu. Hiện Vuốt đã bén gót người phụ nữ, hàm há to, bỗng thình lình người phụ nữ phóng vọt lên trước, gần như bỏ con chó đứng sững lại.
Thế rồi bà ấy bắt đầu vừa chạy vừa vứt bỏ quần áo rồi lao thẳng xuống nước. Tôi chạy đến mép con kênh, nhìn xuống lòng kênh. Không thấy dấu hiệu gì cả. Bà ấy chết chìm rồi ư? Chọn phải chết bằng cách này thay vì bị mấy con chó xé xác sao?
Hai con chó tru lên, chạy dọc hai bờ kênh nhưng không đuổi theo. Rồi một gương mặt cùng bờ vai thoáng nhô lên khỏi mặt nước. Người phụ nữ liếc ra sau nhìn tôi và tôi chợt hiểu...
Đó không còn là gương mặt của con người nữa. Hai mắt lồi to, da bóng nhẫy. Bà ấy đúng là hải cẩu nhân. Và giờ bà ấy được an toàn trong ngôi nhà dưới nước của mình. Nhưng tôi ngạc nhiên về mấy con chó. Tại sao chúng không đuổi theo bà ấy ra tận biển?
Người phụ nữ bơi thật lực ngược dòng kênh và dòng nước triều, thẳng tiến ra biển rộng. Tôi nhìn đầu bà ấy nhấp nhô một lúc cho đến khi khuất hẳn, rồi chầm chậm quay bước về phía căn chòi, hai con chó khổ sở theo sát gót tôi. Từ đằng xa, tôi trông thấy ông Arkwright đang giữ chặt người đánh cá. Arkwright đã ngăn không cho người đánh cá đến giúp vợ mình.
Khi tôi đến gần hơn, ông Arkwright thả người đánh cá ra, người đàn ông ấy bắt đầu điên cuồng vung vẩy hai tay. Nhìn gần, người này trông già vô cùng.
"Chúng tôi có làm hại gì chứ? Hại gì?" Người đánh cá rên khóc, nước mắt ròng ròng xuống mặt. "Cuộc đời tôi giờ hết cả rồi. Bà ấy là lý do để tôi sống. Chúng tôi đã ở bên nhau gần hai mươi năm, vậy mà ông lại chấm dứt nó như thế này. Và vì cái gì cơ chứ? Vì lời nói của vài kẻ ganh tị được gọi là láng giềng. Ông là loại người gì vậy? Bà ấy hiền hậu, dịu dàng và không làm hại đến bất cứ người nào!"
Ông Arkwright lắc đầu nhưng không đáp gì. Ông quay lưng lại với người đánh cá rồi chúng tôi sải bước về hướng ngôi làng. Xa xa, sau ngôi làng, những đám mây kéo mưa nặng nề xám xịt đang tụ lại. Khi chúng tôi tiến đến, mấy cánh cửa lần lượt mở ra và màn cửa lay động. Tuy nhiên, chỉ một người bước ra đường – là ông lão ốm o đã rung chuông kêu chúng tôi nhận nhiệm vụ chẳng vui vẻ gì này. Ông ta bước đến, chìa ra một nắm tay đầy tiền xu. Có vẻ như bọn họ đã góp tiền với nhau để trả cho thầy tôi. Thật là một sự thanh toán đúng hạn. Thầy John Gregory hiếm khi được trả công ngay sau khi hoàn thành công việc. Thường thầy phải đợi đến vài tháng – có khi là đến mùa vụ năm sau.
Trong một đỗi, tôi tưởng ông Arkwright sẽ không nhận tiền ấy chứ. Ngay cả khi cầm tiền trong tay, ông cũng trông như thể sắp sửa quẳng lại vào mặt ông lão thay vì bỏ tiền vào túi. Nhưng ông bỏ vào túi thật, và chẳng nói lấy lời nào, ông lẳng lặng đi ngược lên phố.
"Chúng ta đi rồi thì bà ấy cũng sẽ không quay lại ạ?" Khi chúng tôi bước về phía con kênh, tôi hỏi.
"Chúng không bao giờ quay lại đâu, cậu Ward à," Arkwright trả lời, mặt ảm đạm. "Không ai biết vì sao nhưng giờ đây bà ta sẽ ở ngoài biển hàng năm trời. Biết đâu là đến mãn cuộc đời dài dặc của bà ta ấy chứ. Trừ khi bà ta tìm được một người đàn ông khác mà mình say mê. Có lẽ ngoài đấy bà ta thấy cô độc..."
"Tại sao hai con chó không rượt theo bà ấy xuống nước ạ?" Tôi hỏi.
Ông Arkwright nhún vai. "Nếu hai con đấy mà bắt kịp trước thì giờ bà ta đã chết rồi – không lầm được đâu. Nhưng trong lốt thật của mình thì bà ta mạnh lắm, thừa khả năng tự vệ. Nếu được để yên, bà ta vô hại, nên tôi không muốn hai con chó gặp nguy hiểm không cần thiết. Với thủy phù thủy thì khác và tôi muốn mấy con chó liều mạng. Nhưng còn với hải cẩu nhân ư, sao phải bận tâm làm gì? Bà ta không hẳn là mối đe dọa cho bất cứ ai. Hiện tại bà ta đã đi xa và tối nay dân làng sẽ thấy an toàn hơn. Nghĩa là công việc của chúng ta đã hoàn tất."
Với tôi, thế nghe có vẻ tàn nhẫn và tôi không vui chút nào khi phải dự phần vào việc làm dường như không cần thiết này. Họ đã ở bên nhau gần hai mươi năm, và giờ đây người đánh cá sẽ phải đối mặt với tuổi già cay đắng lẫn cô độc. Tôi thề với lòng mình, tại ngay lúc ấy, rằng khi trở thành thầy trừ tà, sẽ có những công việc mà tôi không nhúng tay vào.