Cần thử nghiệm sách
giáo khoa theo nguyên tắc khoa học
13/10/2020
13/10/2020
Đã quá nhiều bài báo viết về các hạt sạn trong sách giáo khoa lớp 1 nên tôi không muốn phân tích về vấn đề này, chỉ xin nói đến cách làm và thẩm định sách giáo khoa trong thời gian vừa qua.
Theo tôi đây là nguyên nhân sâu xa đưa đến sự phản ứng dữ dội của toàn xã hội.
Nghị quyết 88/2014 của Quốc hội khóa XIII về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông đã quy định: “Để chủ động triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức việc biên soạn một bộ sách giáo khoa. Bộ sách giáo khoa này được thẩm định, phê duyệt công bằng với các bộ sách giáo khoa do tổ chức, cá nhân khác biên soạn.”
Làm sách giáo khoa có quá gấp gáp?
Theo tôi được biết, sau hai lần mở thầu công khai để tuyển chọn tác giả viết sách giáo khoa, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã không thành công và dẫn đến việc không thể thực hiện được theo nghị quyết đã đề ra. Theo tôi, đây là lý do khách quan và cũng là một điều rất đáng tiếc. Việc Bộ xin dừng lại có thể nói là một quyết định phù hợp với điều kiện thực tế, nhằm tránh lãng phí thời gian của cải của nhà nước và xã hội.
Tuy nhiên, ở đây có một vấn đề mà tôi băn khoăn. Ngay sau khi ban hành Chương trình Giáo dục Phổ thông mới (26/12/2018), Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức đấu thầu tuyển chọn tác giả nhưng hầu hết các chuyên gia có kinh nghiệm đã sớm ký hợp đồng với các nhà xuất bản và triển khai biên soạn sách giáo khoa.
Tới thời điểm mời thầu, các nhà xuất bản đã có một số bản mẫu sách giáo khoa lớp 1 được chuẩn bị gần như hoàn tất, sẵn sàng để thẩm định và phê duyệt đưa vào sử dụng (theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo). Như vậy, ngay sau khi Chương trình Giáo dục Phổ thông mới được ban hành, đã có ngay bản mẫu sách giáo khoa lớp 1 chờ thẩm định. Điều này liệu có thể đánh giá là công tác làm sách giáo khoa quá gấp gáp với hậu quả làm chúng ta nghi ngại về chất lượng của các bộ sách không qua thử nghiệm bài bản này?
Là một người làm khoa học, tôi hiểu được giá trị của việc thực nghiệm đối với bất cứ một công trình khoa học nào trước khi đưa vào thực tế. Đầu tiên là tiến hành thực nghiệm khoa học trong phòng thí nghiệm, sau đó đến thực nghiệm ứng dụng (trên phạm vi hẹp rồi rộng hơn có ngẫu nhiên, so sánh) đến khi đủ độ an toàn mới đưa vào áp dụng đại trà.
Các bản mẫu sách giáo khoa lần này được quy định dạy thử nghiệm 10% số tiết học của mỗi môn học, sau khi được hội đồng thẩm định thông qua là áp dụng đại trà. Như vậy là đã bỏ qua giai đoạn thực nghiệm ứng dụng. Việc áp dụng như vậy về bản chất có thể hiểu khi chính thức chấp thuận sách, Bộ đã cho phép thử nghiệm trên diện rộng ở bất cứ cơ sở giáo dục nào.
Nhớ lại lần thay sách giáo khoa năm 1981, sách giáo khoa đã được dạy thực nghiệm mười năm ở miền Bắc, nhưng đến khi đưa ra triển khai đại trà cả nước vẫn gặp rất nhiều khó khăn: hằng năm có hơn nửa triệu học sinh không qua được lớp 1. Giáo dục khi đó rơi vào tình trạng “vừa triển khai vừa điều chỉnh Cải cách giáo dục”.
Cần cẩn trọng hơn
Cuộc đổi mới giáo dục thập niên đầu thế kỷ 21, cũng có tiến hành thực nghiệm năm năm nhưng cũng chỉ thực nghiệm một số bài mẫu, ở những trường lớp có điều kiện tốt nhất về giáo viên, học sinh, cơ sở vật chất nên đã không cho kết quả sát thực. Đến khi triển khai thực tế đã xảy ra hiện tượng học sinh ngồi nhầm lớp. Trung ương Đảng phải ra Nghị quyết: “Kiên quyết giảm hợp lý nội dung chương trình học cho phù hợp tâm sinh lý học sinh cấp tiểu học và trung học cơ sở” (Nghị quyết 9 - Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX).
Vì những hệ quả đã thấy ở trên, thiết nghĩ, lần thay sách này, với thời lượng thử nghiệm ít, đặc biệt trong bối cảnh việc chuẩn bị thay sách, tập huấn giáo viên bị ảnh hưởng do thời gian nghỉ dịch Covid-19, chúng ta càng cần cẩn trọng hơn khi đưa sách giáo khoa vào sử dụng rộng rãi, cần có sự thử nghiệm trên diện hẹp trước, đủ độ an toàn mới nên đưa ra đại trà.
Như ông Phạm Tất Thắng (Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội) đã nói: “Theo quy trình biên soạn sách giáo khoa, sau khi biên soạn xong, phải thử nghiệm và sau đó mới hoàn chỉnh và đưa vào sử dụng chính thức. Do vậy, việc thẩm định của hội đồng thẩm định mới chỉ là bước một, khẳng định bộ sách giáo khoa đáp ứng được chương trình giáo dục phổ thông mới. Bước hai phải có việc thực nghiệm bộ sách giáo khoa trong thực tế dạy học và hiệu chỉnh sách giáo khoa trước khi đưa vào in ấn, xuất bản và tiến hành giảng dạy đại trà.” (Trích báo Thanh niên, thứ Sáu ngày 22/11/2019).
Trong sáu bộ sách trình hội đồng thẩm định vừa qua, có một bộ sách theo hội đồng thẩm định đánh giá là không đạt yêu cầu, và bị loại. Lý do hội đồng thẩm định đưa ra là do bộ sách không đảm bảo đủ các tiêu chí trong văn bản hướng dẫn của Bộ, mà theo nhiều người, những tiêu chí này quá chi tiết và cứng nhắc, dẫn đến tình trạng có nhiều bộ sách nhưng thực chất vẫn chỉ là một.
Theo GS. TSKH Trần Ngọc Thêm, Chủ tịch Hội đồng chức danh Giáo sư ngành Ngôn ngữ học: “Chúng ta không nên đòi hỏi tất cả các bộ sách giáo khoa đều phải được biên soạn giống nhau đến từng nội dung, chi tiết. Nếu thẩm định theo cách như vậy, những bộ sách được thông qua của một môn học sẽ trở thành những biến thể của một bộ sách.”
Cần thấy, việc đánh giá một bộ sách giáo khoa không nên và không thể dựa vào những tiêu chí cứng nhắc, vô tình dẫn đến lối tư duy đồng phục đã không còn phù hợp với thời đại, trái với tinh thần của Nghị quyết Quốc hội.
Đáng nói hơn, bộ sách giáo khoa bị loại trong đợt thẩm định vừa qua là bộ sách Công nghệ Giáo dục của GS. Hồ Ngọc Đại - một bộ sách đã chịu đựng được sự thử thách khắc nghiệt của thời gian. Đồng thời, đây cũng là bộ sách có tư tưởng và triết lý rõ ràng.
Lấy học sinh làm trung tâm
Một bộ sách giáo khoa không đơn thuần chỉ là nơi chứa đựng các kiến thức chuyên ngành, nơi tập hợp các tri thức của nhân loại theo sự sắp xếp, quy định của chương trình tổng thể mà còn cần được xây dựng trên cơ sở triết học và tâm lý học. Tư tưởng và triết lý của bộ sách thể hiện ở quan điểm “Lấy học sinh làm trung tâm”, “Thầy thiết kế - Trò thi công”, “Học để sống, để dùng”... đã đáp ứng được đúng tinh thần của chương trình tổng thể là phát triển năng lực của người học.
Giáo dục là cả một quá trình, tư tưởng và triết lý chứ không đơn giản chỉ là những cuốn sách giáo khoa.
Trong tài liệu tổng kết các phương pháp đổi mới dạy học đối với cấp tiểu học của Bộ Giáo dục và Đào tạo tháng 8/2019 cũng khẳng định:
“Việc triển khai tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ Giáo dục tại các địa phương đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận: nhiều địa phương đã nhân rộng và có nhiều vận dụng linh hoạt trong quá trình triển khai; giáo viên nắm chắc nội dung, phương pháp, kỹ thuật dạy học theo định hướng mới; học sinh đọc thông, viết thạo, nắm chắc ngữ âm; kỹ năng đọc và nghe-viết chính tả tốt.”
Do vậy, số lượng các địa phương tự nguyện triển khai cũng như số lượng học sinh học theo Công nghệ Giáo dục ngày càng tăng. Đến năm học 2018-2019, đã có 48 tỉnh với 923.842 học sinh ở 8.198 trường theo học.
Đưa ví dụ về hai số phận của hai bộ sách giáo khoa để chúng ta nhận thấy cách làm việc thiếu tính khoa học, không bám sát vào thực tế của các nhà quản lý giáo dục của Việt Nam. Cách làm rập khuôn nhiều năm trước đây lại được khoác lên tấm áo “cải cách giáo dục” đã dẫn đến hậu quả rõ ràng là những bất cập trong hệ thống giáo dục hiện nay.
Chúng ta cần nhìn thẳng vào điều này, dũng cảm thay đổi vì giáo dục là cả một quá trình, tư tưởng và triết lý chứ không đơn giản chỉ là những cuốn sách giáo khoa.