Về quân sự, khi cuộc chiến tranh lâm vào bế tắc khó phân thắng bại, hoặc một phe bị rơi vào thế hạ phong không còn sức chiến đấu, thì chỉ còn cách giảng hòa, thông qua đàm phán để tìm cách giải quyết. Trên thương trường, dưới sự cạnh tranh của hai bên, để tránh trường hợp cả hai đều bị tổn hại, thì chỉ có thể thông qua đàm phán, cùng tạo cơ hội thương mại cho nhau.
Vậy, nếu tình bạn xuất hiện đối tượng thứ ba; anh em trong nhà tranh đoạt gia sản, v.v. trong những tình huống này thì phải đàm phán như thế nào?
Cuộc đàm phán thành công nhất, là cần phải nghĩ về lợi ích của đối phương trước, nếu đàm phán như vậy thì mới dễ đi đến thành công. Khoảng cách giữa hai bên đàm phán được tạo thành bởi sự bất đồng về lập trường, cho nên trước khi đàm phán, cần phải triệt tiêu được sự đối lập của hai bên, tạo nên xuất phát điểm có lợi cho cả hai. Khi hai bên xích lại gần nhau hơn, thì sẽ dễ dàng đạt được sự đồng thuận, đó mới là cách đàm phán hay.
Đàm phán không có nghĩa là chỉ trích, nhưng đương nhiên cần có lập trường, đôi khi cũng khó tránh khỏi việc phải so đo tính toán đôi chút. Nhưng đàm phán cũng cần phải lấy công bằng làm gốc, công chính làm nguyên tắc. Điều đáng sợ nhất trong việc đàm phán, là không có quy tắc, không có đường hướng, không quan tâm tình lý, không chịu nghĩ cho đối phương. Nếu như vậy, thì đương nhiên sẽ không thể trở thành cao thủ đàm phán được.
Trên bàn đàm phán, nếu các bên không đạt được đồng thuận, thì có thể tìm người công bình, công chính có liên quan tham gia; Hoặc có thể dời thời gian lại một ngày khác sau khi đã thoả thuận. Ngay cả khi cuộc đàm phán không thành công hoặc bị từ chối, thì cũng cần phải có phương án thay thế.
Thời Đức Phật, vua Tần Bà Sa La muốn phát động chiến tranh với nước láng giềng, bèn sai đại thần Vũ Xá đến hỏi ý kiến Đức Phật. Vũ Xá cho rằng, đề xuất vấn đề này với Đức Phật thật sự là làm khó Ngài, nhưng lệnh của nhà vua ban không thể không thi hành. Thế là ông miễn cưỡng vâng lệnh đến chỗ đức Phật. Phật nhìn thấy đại thần Vũ Xá đến, bèn mời ông ngồi một bên, sau đó Phật cùng với tôn giả A Nan bàn chuyện về “bảy phép trị nước”, nói rõ về các phương diện: Nhân nghĩa, từ bi, giáo dục, phát triển kinh tế, v.v. thì đó mới là thắng lợi. Vũ Xá mang lời của Phật thuật lại cho nhà vua nghe, hóa giải được một cuộc chiến tranh. Vì thế, Đức Phật được tôn xưng là một cao thủ về đàm phán.
Cư sĩ Duy Ma và Bồ Tát Văn Thù bàn luận “thế nào là pháp môn không hai?” Văn Thù nói: “Trong tất cả các pháp, không ngôn ngữ, không lời nói, không hiển thị cũng không nhận biết, lìa tất cả vấn đề hỏi và đáp thì mới là đi vào pháp môn không hai”. Sau khi Văn Thù nói xong, bèn hỏi lại Duy Ma: “Thế nào là pháp môn không hai?” Duy Ma im lặng không nói. Văn Thù khâm phục vô cùng nói: “Lìa ngôn ngữ, lìa chữ nghĩa, lìa tư duy, đây mới thật sự là pháp môn không hai”. Do cả hai người đều cùng trân trọng đối phương, hùng biện thay cho đối phương, cho nên họ đều là những cao thủ trong vấn đề đàm phán.
Thời Chiến Quốc, các nước Yên, Triệu, Hàn, Ngụy, Tề, Sở, Tần đối đầu với nhau. Do mối quan hệ về địa lý, nước Tần ở về phía tây, Tô Tần kiến nghị chiến lược sáu nước “hợp tung” làm thành con đường sinh tồn. Nhưng Trương Nghị thì lại thuyết phục các nước Yên, Triệu, Hàn, Nguỵ, Tề, Sở cùng hợp tác với Tần, lấy đối sách “liên hoành” (dàn hàng ngang) để phá giải. Thật sự thì tư tưởng và đường lối của những vị đó quá lớn lao. Vào thời đó, rất nhiều người sử dụng ba tấc lưỡi thuyết phục các vương hầu công khanh, mục đích là để cầu mong phú quý. Cho nên đã xuất hiện rất nhiều thuyết khách, họ là những nhà đàm phán cao thủ.
Thậm chí, trước cả Tô Tần và Trương Nghi, Lạn Tương Như mang ngọc trả về nước Triệu, tự mình rút lui; Án Tử thân chỉ cao không quá năm thước, nhưng ông dùng lời lẽ đúng mực để thuyết phục được một nước Sở hùng mạnh. Họ đều là những cao thủ về đàm phán. Thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng đã khẩu chiến với các tay cao thủ của Đông Ngô, quan trọng là ông biết đem lợi ích của nước Đông Ngô làm trọng, vì thế đã thuyết phục được cả triều đình liên minh chống Tào, giúp Lưu Huyền Đức giành được thắng lợi. Ông thực sự là cao thủ về đàm phán.
Từ thế kỷ XX trở lại đây, dường như chẳng có ai được liệt vào hàng cao thủ đàm phán cả. Hiệp ước Shimonoseki ký kết năm 1895, sau đó năm 1900 xảy ra cuộc chiến tranh của liên quân tám nước, giai đoạn đó do nhóm của Lý Hồng Chương đứng đầu. Đến sau khi Dân Quốc thành lập, Viên Thế Khải đại diện cho Mãn Thanh đàm phán với chính phủ Dân Quốc. Bởi vì tâm địa ông ta khó lường, tự mình xưng đế cho nên tự chuốc lấy sự diệt vong. Sau này các phe quân phiệt các nơi đều nổi lên cát cứ, nên có rất ít các cao thủ đàm phán vì nghĩa.
Mãi đến cuộc vận động Ngũ Tứ năm 1909, trong cuộc hội nghị tại Paris mới xuất hiện một số các nhà đàm phán đại biểu của chính phủ Dân Quốc. Nhưng họ đều là những kẻ thất bại, đánh mất quyền lợi đất nước, làm nhục quốc thể, cho nên không thể trở thành cao thủ đàm phán. Thậm chí, sở dĩ cuộc chiến tranh Trung - Nhật năm 1937 nổ ra, cũng bởi vì hai bên không có cao thủ đàm phán. Sau này, mối quan hệ giữa Mỹ - Trung do Cố Duy Quân và Hồ Thích đảm nhiệm. Quan điểm ngoại giao của họ là “nước yếu không ngoại giao”, do đó chỉ có thể nói là “miễn cưỡng hài lòng”.
Nhìn lại những nhân vật của nước Mỹ như Marshall, Tsingi, v.v. Họ đi khắp Âu - Á, với cách giải quyết vấn đề quyết đoán và khí thế, thực sự giống với các thuyết khách thời xưa của Trung Quốc. Ta có thể gọi họ là những cao thủ đàm phán của thời cận đại vậy.
Điều quan trọng của việc đàm phán, là phải kiến lập sự tôn trọng của đôi bên; không nên quá cứng nhắc chỉ khư khư giữ lấy lợi ích của mình, mà cần phải nhẫn nại phối hợp, thấu hiểu, hòa giải như vậy mới có đủ tư cách để đàm phán.
Khi đàm phán, chúng ta phải thừa nhận điểm mạnh của đối phương, không nên chỉ biết công kích, phê bình, vì như thế sẽ không thể nào đàm phán được. Nếu thật sự có sai lầm, thì chính mình cũng nên khiêm nhường. Tóm lại, phải làm cho cả đôi bên đều vui vẻ, sáng tạo, để cả hai đều có kết quả thắng lợi, như thế thì mới thật sự là cao thủ đàm phán.
Việc đàm phán thời nay, phần lớn không do người trực tiếp ở tiền tuyến làm chủ, mà do một số ít người lãnh đạo ở hậu phương thao túng. Do không biết được tình huống thực tế của tiền tuyến ra sao, dẫn đến các cuộc đàm phán càng lúc càng trở nên căng thẳng, và cuối cùng thì giải tán trong không khí không mấy vui vẻ.
Ý nghĩa vi diệu của Phật pháp là ở chỗ, cùng một vấn đề có lúc nói là “không”, có lúc nói là “có”. Xem qua tưởng chừng có mâu thuẫn trong lời nói, nhưng thật ra đỉnh cao trong đàm thuyết Phật giáo “không tức là có, có tức là không”, không và có chẳng tách rời nhau. Có câu: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”, ý nghĩa là như vậy đó.