LỜI DẪN CHƯƠNG
Kể từ thế kỷ XIX, 17 gia tộc ngân hàng quốc tế cốt lõi với đại diện là gia tộc Rothschild, bắt đầu từ các quốc gia như Hà Lan, Anh, Pháp và Đức đã dần dần mở rộng đến Nga, Áo, Italy và Mỹ, hình thành nên một mạng lưới tài chính chằng chịt có sức ảnh hưởng sâu rộng đến thế giới ngày nay.
Ngân hàng quốc tế là một quần thể chủ chốt nắm giữ một nguồn lực tài chính khổng lồ. Ở một mức độ rất lớn, cách tư duy và hành động của họ quyết định vận mệnh của loài người. Trong 200 năm qua, những gia tộc này đã hô mưa gọi gió trên vũ đài thế giới, hình thành mạng lưới quan hệ phức tạp và hoành tráng của xã hội phương Tây. Họ có ảnh hưởng quan trọng đối với quỹ đạo phát triển của lịch sử nhân loại và định hình thế giới hiện nay. Theo dòng chảy xô bồ của thời đại, một số gia tộc đã sụp đổ, nhưng đại đa số các gia tộc này vẫn đang phát huy một vai trò hết sức quan trọng.
Người Trung Quốc không hề cảm thấy lạ lẫm với lịch sử quyền lực của loài người, nhưng họ vẫn cảm thấy rất xa lạ với khái niệm lịch sử của sự giàu có, chúng ta hãy bắt đầu hành trình khám phá sự giàu có này từ nước Đức – cái nôi của các ngân hàng quốc tế.
Khi cuộc chiến tranh Áo - Phổ đang trong tình trạng ngàn cân treo sợi tóc, ngay lúc quân Phổ có thể nhanh chóng xuất kích để chiếm ưu thế trên chiến trường và xộc thẳng tới thủ đô Vienna của Áo, thì thủ tướng của Phổ – ngài Bismarck lại bất ngờ kiên quyết từ bỏ cuộc chiến, thậm chí còn dọa sẽ đệ đơn từ chức và nhảy lầu tự sát.
Phía sau cuộc chiến bị đình chỉ đột ngột này, chúng ta có thể nhìn thấy bóng dáng của rất nhiều ngân hàng quốc tế, Rothschild, Breslauer, Oppenheime… và phía sau những bóng dáng lúc ẩn lúc hiện này là một mạng lưới các gia tộc tài chính với đường đi nước bước hết sức sâu hiểm và có mối liên quan mật thiết với nhau về mặt lợi ích. Tương sinh tương khắc, một mặt họ tương trợ hợp tác với nhau, mặt khác họ lại bày binh bố trận trên bàn cờ chiến lược.
Thực chất, mạng lưới quyền lực tài chính có mặt ở khắp nơi và không gì là không thể này đang thao túng, kiểm soát và quyết định các vấn đề hết sức phức tạp về nội chính ngoại giao, chiến tranh và cách mạng, chính quyền và âm mưu của hầu khắp các quốc gia thuộc châu Âu. Từ sự trỗi dậy quật khởi của “ngài thủ tướng Sắt” Bismarck, tiến trình thống nhất nước Đức, cuộc Cách mạng năm 1848, cuộc khủng hoảng Đan Mạch, cho đến cuộc chiến tranh Áo - Phổ và cuộc chiến tranh Phổ - Pháp, đều không thể tách rời mạng lưới quyền lực tài chính với pháp lực vô biên này. Cả tiến trình lịch sử của nhân loại cũng diễn dịch một cách kinh tâm động phách với khả năng hô phong hoán vũ của nó.
ÔNG CHỦ CỦA CÁC NGÂN HÀNG QUỐC TẾ
Kể từ thế kỷ XIX cho đến nay, 17 gia tộc ngân hàng quốc tế cốt lõi với đại diện là gia tộc Rothschild, bắt đầu từ các quốc gia như Hà Lan, Anh, Pháp và Đức đã dần dần mở rộng đến Nga, Áo, Italy và Mỹ, để rồi hình thành nên một mạng lưới tài chính chằng chịt có sức ảnh hưởng hết sức sâu rộng trên thế giới hiện nay. Cùng với ngọn sóng của cuộc đại Cách mạng giai cấp tư sản Pháp đang cuồn cuộn cuốn xô khắp đại lục châu Âu, thế lực tôn giáo và vương quyền phong kiến đang dần dần suy sụp, các tập đoàn thống trị xã hội cũ đang lâm vào thế ngói tan gạch nát, giai cấp tư sản mới trỗi dậy nhanh chóng lấp đầy khoảng trống quyền lực trong xã hội. Trong sự bùng nổ của các ngành nghề vốn sinh ra từ cuộc Cách mạng công nghiệp như đường sắt, luyện kim, khai khoáng, công nghiệp quân sự, cơ khí, thông tin, khi các cuộc chiến tranh bắt nguồn từ sự mất cân bằng quyền lực giữa các cường quốc châu Âu liên tiếp xảy ra, ngân hàng quốc tế vô cùng nhạy bén nắm lấy cơ hội mang tính lịch sử này. Họ nhanh chóng tập hợp những nguồn tài chính quy mô lớn để phục vụ cho việc mở rộng ngành công nghiệp và chiến tranh giữa các quốc gia thông qua thị trường tài chính. Trong lúc gặt hái được những khoản lợi nhuận khổng lồ, họ cũng tạo nên một sức ảnh hưởng to lớn đối với tiến trình lịch sử.
Sức mạnh của tiền bạc còn thể hiện ở sự xói mòn quyền lực, khát vọng quyền lực và sự khống chế quyền lực. Trong quá trình cung ứng nguồn vốn và tiếp ứng nhu cầu, các ngân hàng quốc tế đã từng bước khống chế các kênh tín dụng lưu động và nguồn vốn trên thế giới, thiết lập nên cả một bộ quy tắc trò chơi. Từ cái bắt tay của hai gia tộc Hopper và Barings cho đến sự xác lập liên minh giữa Anh và Hà Lan, từ sự vận hành ẩn sau bề nổi của các gia tộc ngân hàng Thụy Sĩ như Mallet, Hottinguer, cho đến sự phát triển chuyên sâu của cuộc đại Cách mạng Pháp; từ sự kiện “Ngân hàng Gott” trợ giúp nguồn tiền cho “cuộc đảo chính ngày 18 Brumaire” cho đến việc Napoléon tiến hành đối giá khảng khái với sự lũng đoạn của Ngân hàng France; từ việc mở rộng mạng lưới quan hệ sang bên kia bờ Đại Tây Dương của hai gia tộc Barings, Welling - Morris cho đến việc Ngân hàng Louisiana của Mỹ mua lại khoản vốn; từ việc Bellera, Fould liên thủ với nhau để khiêu chiến Rothschild, cho đến cuộc chiến nhằm đổi mới tài chính của Ngân hàng Tín dụng Động sản Pháp; từ việc Breslauer hỗ trợ cho Bismarck, cho đến việc quân đội Phổ bỗng nhiên dừng bước ngay trước thành phố Vienna; từ việc hai gia tộc Pauling và Warburg của Đức kích động mưu đồ bành trướng của Vua Wilhelm II, cho đến việc Rothschild kích thích nước Anh phản công; từ việc Belmont tham gia vào việc bãi bỏ đồng xu xanh Lincoln, cho đến việc gia tộc Seligman lên kế hoạch cho sự độc lập của Panama; từ cuộc đại khởi nghĩa của người Ả Rập cho đến Bản tuyên bố Balfour; từ việc tư hữu hóa Ngân hàng Reichbank, cho đến việc tạo nên cuộc lạm phát khủng khiếp năm 1923; từ việc Phố Wall truyền máu cho sự trỗi dậy của Đức Quốc xã, cho đến việc đổi mới tài chính do “chính quyền mới” của Hitler khởi xướng; từ sự tiết lộ các tài liệu cơ mật liên quan đến bom nguyên tử, cho đến “điệp viên kép” của KGB; từ những mưu toan sâu xa của Hội đồng cơ mật Hoàng gia Anh cho đến “chính phủ ảo” thuộc hệ thống gây quỹ của Mỹ; từ sự gợi mở của Ayn Rand cho đến sự lĩnh ngộ của Greenspan; từ cơn sóng thần tài chính hiện tại cho đến sự khởi động của Ngân hàng Trung ương Thế giới; từ sự sụp đổ cuối cùng của đồng đô-la, cho đến chiếc đồng hồ đếm ngược của việc nhất thể hóa các loại tiền tệ trên thế giới, chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng bóng dáng của các thế lực tài chính ẩn sau các sự kiện lịch sử. Sức ảnh hưởng của nó tồn tại ở mọi nơi, các kênh lưu động vốn và tín dụng trên thế giới đã bị khống chế chặt chẽ giữa mạng lưới quan hệ vô cùng hiệu quả và xuyên suốt của các ngân hàng quốc tế.
Hiện tại, người Trung Quốc đã khá tỏ tường về khái niệm “ai nắm được các kênh dẫn thì kẻ đó là vua”. Ngay cả Walmart dù sở hữu năng lực định giá thương phẩm và khả năng kiểm soát kênh lưu thông hàng hóa khiến cho vô số các doanh nghiệp phải đứng ngồi không yên, thì mọi người hãy tưởng tượng rằng sức ảnh hưởng xã hội từ sự lũng đoạn của các kênh lưu động vốn và tín dụng vượt xa so với Walmart.
Các ngân hàng quốc tế vốn khởi đầu với địa vị xã hội khá thấp kém, sau đó nhờ bám vào giai cấp thượng lưu của các nước nên bắt đầu mở rộng và phát triển, từng bước có được thực lực kinh tế mạnh mẽ, nắm giữ các kênh lưu động và quỹ tài chính của các nước. Tiếp đó họ dần dần khống chế hệ thống công nghiệp và thương nghiệp, hình thành sự kết nối chặt chẽ lẫn nhau về mặt lợi ích. Cuối cùng, họ gây ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách của các quốc gia để tìm kiếm các lợi ích lớn hơn.
Lợi ích của họ và giai cấp thượng lưu ngày càng dung hợp với nhau. Bằng việc vận dụng sức mạnh khó có thể cưỡng lại của tiền bạc, họ dần chiếm vai trò chủ đạo trong việc sắp xếp vị trí quan chức trong bộ máy chính phủ cho đến việc chọn lựa các chính khách tham gia bầu cử tổng thống. Từ việc chế định chính sách kinh tế cho đến việc hình thành chiến lược ngoại giao, từ sự vận hành hệ thống tình báo chiến lược cho đến sự thăng giáng của các tướng lĩnh quân đội, từ việc xây dựng nên các tập đoàn mũi nhọn cho đến việc gây ảnh hưởng đến các chương trình nghị sự công cộng, từ việc kiểm soát sự “tự do” xuất bản của giới truyền thông cho đến nguồn thông tin của hệ thống chính trị tả-hữu, từ việc gây dựng văn hóa giáo dục cho đến việc bồi đắp ý thức tư tưởng…
Trải qua 200 năm tiến hóa, quyền lực tài chính đã dần hoàn tất quá trình chuyển đổi lịch sử từ manh nha đến mở rộng, từ gây ảnh hưởng đến lũng đoạn, từ trước sân khấu đến lui ra sau bức rèm, trở thành lực lượng ẩn hình chi phối xã hội. Quyền lực tài chính có thể khống chế thậm chí đứng trên cả các khía cạnh lập pháp, hành chính và quyền tư pháp, hoàn thành sự lột xác của cái gọi là “quyền lực tài chính chuyên chính”.
Loạt ngân hàng quốc tế với quyền năng to lớn đó bao gồm:
• Gia tộc Rothschild với đẳng cấp của một vị “đại ca” đã tung hoành hơn 200 năm trên mặt trận tài chính quốc tế;
• Gia tộc Bleichroder, nắm giữ Ngân hàng Berlin, là tâm phúc của vị “Thủ tướng Sắt” Bismarck;
• Gia tộc Oppenheimer của vùng Köln nước Đức;
• Gia tộc Warburg ở Hamburg, Đức;
• Ngân hàng Phố Wall Seligman xuất thân từ vùng Bavaria, Đức;
• Gia tộc Schiff xuất thân từ vùng Frankfurt, Đức; sau đó đến Mỹ và trở thành một tay gạo cội siêu cấp;
• Gia tộc Schroder khởi nghiệp từ Hamburg, Đức, sau đó phát triển đến London và New York;
• Gia tộc Speyer khởi nghiệp từ vùng Frankfurt, sau đó bắt đầu trỗi dậy ở Mỹ;
• Gia tộc Ngân hàng Mendelssohn vốn có danh tiếng lâu đời ở Berlin, Đức;
• Gia tộc Barings của Anh, vốn được xếp ngang hàng với gia tộc Rothschild từ thế kỷ XIX;
• Gia tộc Hope tới từ Amsterdam, Hà Lan;
• Gia tộc Fould, rường cột quan trọng của hoàng gia Pháp;
• Gia tộc Mallet của Pháp, vốn nắm giữ vị trí điều hành Ngân hàng France cả trăm năm nay;
• Gia tộc Péreire của Pháp, nhà sáng lập nên Ngân hàng Tín dụng Động sản từng khiêu chiến với gia tộc Rothschild;
• Gia tộc Mirabaud, một ngôi sao sáng chói của giới Ngân hàng Thụy Sĩ;
• Gia tộc Rockefeller và gia tộc Morgan, hai gia tộc này vốn là “môn hạ” của gia tộc Rothschild, sau đó nhờ vào sự trỗi dậy của nước Mỹ đã nhanh chóng trở thành những thế lực chủ đạo trong ngành tài chính của thế giới hiện nay.
Những ngân hàng quốc tế là một quần thể chủ chốt với nguồn sức mạnh tài chính khổng lồ. Ở một mức độ rất lớn, cách tư duy và hành động của họ đã và đang quyết định vận mệnh của nhân loại. Họ đi tới đâu thì nơi đó sẽ hưng vượng phát đạt, họ từ bỏ nơi nào thì nơi ấy sẽ suy thoái tiêu điều. Trong quá trình “hô phong”, họ có thể kích thích và tạo dựng nên một nguồn tài chính to lớn trong xã hội; và trong quá trình “hoán vũ”, họ cũng có thể tước đoạt đi một khối lượng kim tiền khủng khiếp của xã hội.
Trong 200 năm qua, những gia tộc này đã từng hô mưa gọi gió trên vũ đài thế giới, hình thành mạng lưới quan hệ phức tạp và hoành tráng của xã hội phương Tây. Họ có vai trò quan trọng đối với quỹ đạo phát triển của lịch sử nhân loại và sự hình thành của thế giới hiện nay. Theo dòng chảy xô bồ của thời đại, một số gia tộc đã sụp đổ, nhưng đại đa số các gia tộc này vẫn đang phát huy tầm ảnh hưởng to lớn.
Thế giới chúng ta đang sống mỗi ngày đều có những sự chuyển biến mới, thế nhưng từ xưa tới nay bản tính của nhân loại vẫn không ngừng tự lặp lại. Từ hàng ngàn năm trước, bản chất của con người là luôn tham lam và sợ hãi trước tiền bạc, luôn u mê và nguyền rủa trước quyền lực, và ngày nay cũng vậy. Loài người muốn hướng đến tự do nhưng lại lo được mất, muốn truy cầu sự công bằng nhưng lại mang lòng ích kỷ, khao khát sự tốt đẹp nhưng lại chẳng thể từ bỏ tà ác, bất luận là những màn tranh đấu chính trị trong “nhị thập tứ sử” của Trung Quốc, hay là đề tài quyền mưu kim tiền trong lịch sử phương Tây – tất cả đều không ngừng lặp lại bản chất của nhân tính. Đó chính là ý nghĩa căn bản của việc chúng ta cố gắng nắm bắt tương lai thông qua việc nghiên cứu lịch sử. Tất cả những hiện tượng đang xảy ra trong xã hội loài người hiện tại, đều có thể tìm thấy tiền lệ trong lịch sử xưa kia.
Người Trung Quốc không hề cảm thấy lạ lẫm với lịch sử quyền lực của loài người, nhưng họ vẫn cảm thấy rất xa lạ với khái niệm lịch sử của sự giàu có, chúng ta hãy bắt đầu hành trình khám phá sự giàu có này từ nước Đức – cái nôi của các ngân hàng quốc tế.
CUỘC CHIẾN TRANH BỊ KẾT THÚC ĐỘT NGỘT
Trong 200 năm trở lại đây, gia tộc Rothschild luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho hai chuyện lớn: chiến tranh và cách mạng. Cho dù là chiến tranh hay cách mạng, để tiến hành những hành động bạo lực có tổ chức và quy mô lớn, hai bên giao chiến bắt buộc phải tiến hành kêu gọi đầu tư
- Niall Ferguson -
Thời khắc bình minh của ngày mùng 3 tháng 7 năm 1866, tại pháo đài Kone Gretz ở làng Sadova Bohemia (cộng hòa Séc ngày nay), một đội quân gồm 35.000 người đang hành quân lặng lẽ giữa trời mưa tầm tã. Từng khuôn mặt trẻ măng, góc cạnh toát lên vẻ căng thẳng, hưng phấn và chờ đợi. Những chàng trai thuộc binh đoàn Elbe này đều biết, đối thủ mà họ sắp tấn công là liên quân gồm 200.000 người của Áo và Sachsen. Trong tình thế lấy ít địch nhiều như vậy, niềm hy vọng duy nhất mà họ có thể trông đợi là quân đoàn số 1 của Phổ gồm 85.000 người do thân vương Frederick Charles thống lĩnh, đội quân này sẽ tấn công đồng thời ở một hướng khác. Ban đầu dựa theo chiến lược của tướng quân Helmuth Karl Bernhard von Moltke – tổng tham mưu trưởng của quân Phổ, nhánh quân tham gia tấn công còn có thêm 100.000 binh lính của thái tử nước Phổ và hoàng đế tương lai của Đức Wilhelm II. Nhưng do khu vực trú quân của quân đoàn này quá xa phạm vi tiếp nhận tín hiệu điện báo, họ không thể kịp thời tiếp nhận mệnh lệnh nên không thể thực thi hành động.
Trận chiến Sadova trong chiến tranh Áo-Phổ
Do quá vội vã nên binh đoàn Elbe của Phổ chưa kịp triển khai đầy đủ trận tuyến tấn công của mình. Không những vậy, hỏa lực của họ còn vọt sang cả hướng tấn công của quân đoàn số 1, cục diện bất chợt trở nên vô cùng hỗn loạn. Dưới đòn phản công mãnh liệt và những trận pháo kích cấp tập của quân Áo, đến 11 giờ trưa, đòn tấn công của quân Phổ đã bị chặn đứng, cánh quân dự bị của họ cũng lao vào giữa chiến trường vốn đã hết sức chật chội. Giả dụ trong lúc này quân Áo kiên quyết phát động một đợt tấn công bằng kỵ binh, thì có lẽ quân Phổ sẽ bị hất văng ra khỏi chiến trường. Thế nhưng, Bernardek – nguyên soái thống lĩnh quân Áo lại quá mức cẩn trọng, yêu cầu kỵ binh án binh bất động. Hai bên cứ thế giằng co nhau trên chiến trường hỗn loạn.
Đúng vào thời khắc quân Phổ rơi vào tình thế nguy cấp thì ngài Otto von Bismarck – vị thủ tướng Phổ bấy lâu nay vẫn kề vai sát cánh cùng Helmuth Karl Bernhard von Moltke chợt phát hiện ra: cách chiến trường vài kilomet về phía Đông, có thứ gì đó giống như cây cối đang chuyển động. Helmuth Karl Bernhard von Moltke cầm ống nhòm lên quan sát trong giây lát, sau đó hào hứng nói với Vua Wilhelm I ngự giá thân chinh: “Bệ hạ không chỉ chiến thắng trong chiến dịch lần này, mà còn thắng cả cuộc chiến này nữa.” Hóa ra, trong lúc binh đoàn Elbe và quân đoàn số 1 của Phổ rơi vào trận khổ chiến với quân Áo thì một tay lính đã cưỡi ngựa hơn 30 kilomet để truyền mệnh lệnh của nhà vua cho thái tử. Thế là quân đoàn số 2 ngay lập tức hành quân về phía Bắc, đó chính là những “đám cây cối chuyển động” mà Bismarck trông thấy.
2 giờ 30 phút chiều, quân đoàn số 2 của Phổ bắt đầu tấn công vào khu vực phòng thủ phía Bắc của quân Áo. Phòng tuyến quân Áo nhanh chóng tan rã. Đến khoảng 3 giờ, nguyên soái Bernardek hạ lệnh triệt thoái toàn bộ. Thế nhưng, thế tấn công của quân Phổ hết sức mãnh liệt, quân đoàn số 1 của Áo chỉ có thể phát động kỵ binh phản kích, tạo đường yểm trợ cho pháo binh và các nhánh quân lân cận rút lui. Động thái này khiến cho hơn 10.000 người thương vong chỉ trong vòng 20 phút, quân đoàn số 1 gần như bị đánh quỵ. Dù vậy, trong đợt phản công này, Áo đã kịp rút lui khoảng 180.000 quân qua kẽ hở trên chiến trường trước vòng vây khép kín của đối phương. Trong trận chiến Sadova, quân Phổ đã giành được thắng lợi mang tính quyết định. 10 ngày sau đó, quân Phổ tiến sát tới thủ đô Vienna của Áo, công chiếm pháo đài Froslov chỉ cách Vienna 6 kilomet. Như vậy việc chiếm Vienna, chinh phục Áo đã nằm trong tầm tay quân Phổ.
Kỳ lạ là, lúc này Vua Wilhelm I, thủ tướng Bismarck và tổng tham mưu trưởng Moltke bắt đầu tranh cãi dữ dội. Vua Phổ chủ trương chiếm lấy thủ đô Vienna của Áo đang trong tầm tay. Xét từ góc độ của một vị tướng, đương nhiên Miltke cũng muốn nắm lấy cơ hội hiếm có này, tiến quân chiếm Vienna đã bị cô lập. Thế nhưng thủ tướng Bismarck lại nhất mực yêu cầu từ bỏ việc công chiếm thành Vienna, tranh thủ địa vị có lợi về mặt quân sự, nhanh chóng ký điều ước đình chiến với Áo, vì chỉ cần đạt được mục đích đuổi Áo ra khỏi Đức đã là thành công lớn rồi.
Khi vua Phổ nhất quyết không chịu nhượng bộ, Bismarck nước mắt hai hàng, đe dọa sẽ từ chức thủ tướng, thậm chí định nhảy từ tầng 4 xuống để tự sát. Cuộc tranh cãi kéo dài mãi tới tận đêm khuya, cuối cùng vua Đức dù vô cùng đau khổ nhưng cũng đành đồng ý từ bỏ tấn công. Vua Wilhelm I yêu cầu phải ghi chép lại tình hình khi đó và lưu giữ trong Sở Lưu trữ Quốc gia “để chứng minh rằng ông đã bất lực và chấp nhận thỏa hiệp ra sao”.
Cuối cùng, Phổ quả nhiên đã ký với Áo một bản “Hiệp ước cầu hòa” rằng sẽ không cắt đất, không yêu cầu bồi thường chiến phí, nước Áo phải rút ra khỏi Liên bang Đức (hay còn gọi là Liên minh các quốc gia Đức). Trong tình thế cục diện chiến trường có lợi, Bismarck quyết tâm từ bỏ cơ hội công chiếm thành Vienna để thu thêm nhiều chiến quả khác. Sự kiện này trở thành một vấn đề vô cùng nổi bật trong lịch sử chiến tranh trên thế giới.
Tại sao Bismarck không ngần ngại đe dọa bằng cách từ chức và nhảy lầu, dù có phải làm trái “thánh chỉ” cũng kiên quyết ngăn cản quân Phổ tiến về thành Vienna? Đầu tiên, cần suy xét về chiến lược cân bằng giữa các thế lực châu Âu, các cường quốc khác sẽ không chịu ngồi yên nhìn quân Phổ đánh triệt quân Áo và trỗi dậy trở thành một cường quốc vùng Trung Âu. Kết quả tất yếu của việc quân Phổ kiên quyết tiến chiếm thành Vienna là sự can thiệp quân sự của các cường quốc khác, khiến cho sự trỗi dậy của Phổ và tiến trình thống nhất của Đức có thể bị gián đoạn. Thêm nữa, trong trận chiến Sadova quân Phổ giành được thắng lợi quyết định, nhưng chưa hẳn đã đánh bại được quân chủ lực của Áo. Sau khi thoát khỏi vòng vây, 180.000 quân Áo dốc toàn lực để lùi về bảo vệ kinh đô. Trong tình thế cấp thiết như vậy, quân Phổ dù cố gắng tấn công Vienna cũng chưa chắc đã chiếm ưu thế. Là một chiến lược gia kiệt xuất, tầm nhìn của Bismarck quả là hết sức sâu xa.
Kỳ thực, Bismarck chưa được coi là một chiến lược gia kiệt xuất, ông chỉ là một nhà thám hiểm may mắn mà thôi. Trong cuộc chiến tranh Phổ-Pháp diễn ra bốn năm sau đó, Bismarck đã kiên trì cưỡng ép nước Pháp. Pháp vừa bại trận vừa phải cắt nhượng lại hai tỉnh Lorraine và Alsace, và chi trả khoản bồi thường chiến tranh khổng lồ 5 tỉ franc cho Phổ. Đó như một lưỡi dao sắc khoét sâu vào tâm thế kiêu ngạo và tự hào của người Pháp, khiến cho nước Pháp không thấy hối hận khi ngả vào lòng người Anh – đối thủ chiến lược thực sự của Đức trong tương lai.
Nước Đức vốn không cần cố tình làm nhục người Pháp, chỉ cần nhắm đến lợi dụng mâu thuẫn giữa Anh và Pháp, để từ đó thực hiện mục tiêu chiến lược giúp nước Đức trỗi dậy trở thành cường quyền trên thế giới. Nhưng tầm nhìn ngắn hạn của Bismarck đã mang tới cho Đức một kẻ địch hùng mạnh và rất khó lòng chinh phục. Hành động của Đức vô tình thúc đẩy Anh - Pháp kết thành một liên minh hùng mạnh, quyết không cho Đức trỗi dậy. Sự thảm bại của Đức trong hai cuộc chiến tranh thế giới sau này đều có liên quan đến chiến lược sai lầm của Bismarck năm xưa.
Trên thực tế, phía sau cuộc chiến bị ngừng lại đột ngột dưới chân thành Vienna còn có nguyên nhân khác. Đó chính là, khi cuộc chiến Áo-Phổ kéo dài đến tuần thứ bảy, và quân Phổ đến được dưới chân thành Vienna, khả năng huy động tài chính của Bismarck đã chạm tới cực hạn, ông không thể tiếp tục duy trì cuộc chiến này nữa. Muốn hiểu được tình cảnh khi đó của quân đội Phổ, chúng ta phải nhìn vào tiến trình lịch sử trỗi dậy của Phổ, quan sát ảnh hưởng mang tính then chốt mà sức mạnh tài chính có thể phát huy. Nếu không lý giải được sức mạnh tài chính đứng sau các cuộc chiến tranh và cách mạng, chúng ta cũng không thể thực sự nhìn thấu toàn bộ diện mạo của lịch sử.
OLD BRESLAUER: NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ROTHSCHILD
Nước Đức nằm ở điểm kết nối giữa hai vùng Đông - Tây của châu Âu, thủ đô Berlin lại càng ở vị trí trung tâm địa lý và giao cắt về giao thông của châu Âu. Những thương khách khắp nơi tề tựu tấp nập ở Berlin, kéo theo mọi loại tiền tệ đến đó. Bắt đầu từ thời Đế quốc La Mã, Berlin đã trở thành trung tâm trao đổi tiền tệ. Sau khi Napoléon chiếm cứ vùng đất này, nhu cầu trao đổi tiền tệ lại càng trở nên hưng thịnh.
Old Breslauer còn gọi là Samuel, công việc kinh doanh chủ yếu của ông ta là mua bán các loại trái phiếu chính phủ, kiếm lời nhờ khoản chênh lệch trong quá trình giao dịch mua bán. Khi đó, việc phát hành những trái phiếu này chủ yếu để trợ cấp cho các gia đình bị mất chồng, con trong chiến tranh. Trước và sau năm 1828, gia tộc Breslauer bắt đầu tạo dựng nên mối quan hệ hợp tác thương mại với gia tộc Rothschild. Do gia tộc Rothschild nắm giữ quyền lực tài chính tối cao của châu Âu, thế nên chính nhờ mối quan hệ theo kiểu “núp bóng quan lớn” này gia tộc Breslauer đã một bước trở thành thế lực nổi bật trong vô số các ngân hàng ở Berlin. Sau năm 1830, gia tộc Breslauer bắt đầu lĩnh nhận tiền công định kỳ từ gia tộc Rothschild, và gia tộc Ngân hàng Mendelssohn có tiếng tăm lâu đời ở Berlin đã dần bị gạt ra lề.
Dưới sự điều tiết và chỉ huy thống nhất từ gia tộc Rothschild, Breslauer tích cực tìm kiếm các cơ hội “mua giá thấp, bán giá cao” ở các thị trường tài chính của London, Paris, Frankfurt, Berlin, Vienna và Napoli. Do giá cả của các loại trái phiếu và tiền tệ trên thị trường châu Âu có sự chênh lệch tỉ giá giữa các thành phố, nên yếu tố mấu chốt để trục lợi là phải nhanh chóng thu thập tin tình báo chuẩn xác và nắm bắt thời cơ phù hợp. Ngay từ khi mới khởi lập, ngành tài chính đã có một yêu cầu rất cao đối với tin tình báo. Trên thực tế, cơ cấu tình báo quốc tế hiện đại vốn xây dựng dựa trên nền tảng hệ thống truyền phát thông tin tình báo của các gia tộc ngân hàng quốc tế trong thời kỳ đầu. Không còn nghi ngờ gì nữa, hệ thống tình báo tiên tiến nhất thuộc về gia tộc Rothschild. Mức độ phủ sóng, tính nhanh nhạy, độ bảo mật, tỉ lệ chuẩn xác và mức độ phức tạp của nó đều vượt xa các hệ thống tình báo của chính phủ các nước.
Ngay từ những năm 30 của thế kỷ XIX, gia tộc Breslauer đã khao khát mãnh liệt rằng một ngày nào đó sẽ gia nhập vào mạng lưới tình báo tốc độ cao của gia tộc Rothschild. Ở Berlin, muốn nhận thư từ Paris phải mất khoảng sáu ngày, nhưng nếu thông qua mạng lưới tình báo Rothschild thì chỉ mất năm ngày. Nhanh hơn một ngày cũng đồng nghĩa với một khoản lợi nhuận thương mại khổng lồ. Dựa trên quá trình khảo sát suốt nhiều năm, gia tộc Rothschild dần dần chấp nhận kết nạp gia tộc Breslauer vào hệ thống tình báo của mình.
Năm 1831, gia tộc Breslauer trở thành đại diện rất mực trung thành của gia tộc Rothschild tại Berlin, họ không ngừng gửi cho gia tộc Rothschild những thông tin về mọi phương diện trên thị trường tài chính và nội chính của Phổ, ví dụ năm cường quốc châu Âu và quốc vương Hà Lan có thái độ chính trị ra sao đối với chính phủ mới thành lập của Bỉ, Sa hoàng Nga lập trường và động thái thế nào đối với sự phản bội của Ba Lan. Gia tộc Breslauer cũng báo cáo tình hình liên quan đến bệnh dịch đang lan tràn ở châu Âu, ngoài ra còn cả động thái của Berlin đối với cuộc cách mạng năm 1848. Họ liên tục đảm bảo cho gia tộc Rothschild về tính an toàn của việc mua vàng và trái phiếu.1
1 Niall Ferguson, The House of Rothschild.
Qua công tác thu thập và truyền đạt của Breslauer, mọi nguồn thông tin không ngớt đổ về hệ thống tình báo châu Âu của gia tộc Rothschild. Điều này giúp gia tộc Rothschild tiếp tục nắm giữ ưu thế bất đối xứng về mặt thông tin, từ đó ảnh hưởng sâu rộng vào các chính sách ngoại giao, nội chính của các quốc gia châu Âu, và lại càng nắm giữ ưu thế khi giao dịch trên thị trường tài chính châu Âu.
Quy mô thị trường tài chính Berlin trong những năm 30-40 thế kỷ XIX vẫn chưa lớn, sản phẩm tài chính có tần suất giao dịch lớn nhất là trái phiếu đường sắt. Để thực hiện chính sách “thu hút đầu tư” từ bên ngoài, lôi kéo sự chú ý của các gia tộc ngân hàng quốc tế thuộc hàng “cây đa cây đề” như Rothschild với trái phiếu đường sắt, chính phủ Phổ đã nghĩ trăm phương ngàn kế để thuyết phục gia tộc Rothschild đầu tư vào ngành công nghiệp đường sắt của Phổ. Trong quá trình đầu tư này, sức ảnh hưởng của gia tộc Rothschild đối với ngành công nghiệp của Phổ được nâng cao rõ rệt, dần dần nắm giữ vai trò quản trị trong rất nhiều công ty đường sắt.
Năm 1836, Nathan – người cai quản Ngân hàng London của gia tộc Rothschild, đồng thời cũng là nhân vật đầu não của toàn bộ gia tộc, đã qua đời. James Rothschild lúc đó đang ở Paris, tiếp nhận vị trí “lãnh đạo” gia tộc. Trong giai đoạn đầu khi Breslauer đầu quân cho James, địa vị hai bên hoàn toàn bất bình đẳng, Breslauer bắt buộc phải nhượng lại rất nhiều lợi ích mới nhận được đặc quyền gia nhập vào mạng lưới tài chính của gia tộc Rothschild. Khi đó thái độ của James đối với Breslauer không mấy tốt đẹp, thường xuyên đánh tiếng rằng Breslauer không được phép coi nhẹ lợi ích của gia tộc Rothschild. Trên thực tế, lời cảnh cáo như vậy đồng nghĩa với việc gia tộc Rothschild không hoàn toàn hài lòng với sự hợp tác giữa đôi bên, không những vậy họ đang có dự định tìm kiếm người đại diện và đối tác mới.
Để duy trì dòng chảy của một kênh dẫn vốn như gia tộc Rothschild, gia tộc Breslauer bất đắc dĩ phải thường xuyên hy sinh lợi ích của gia tộc mình. Đặc biệt là năm 1840 khi thị trường tài chính Đức xuất hiện một đợt khủng hoảng lớn, gia tộc Breslauer đã chấp nhận tổn thất, tự dùng tiền công của mình để đổi lấy đơn hàng cho gia tộc Rothschild. Vài năm trôi qua, việc hợp tác giữa đôi bên vẫn chẳng thể khiến gia tộc Rothschild hài lòng, đến nỗi có những lúc gia tộc Breslauer không chỉ không được nhận tiền công, mà thậm chí còn phải bồi thường một số tiền để duy trì mối quan hệ thương mại với gia tộc Rothschild.
Chúng ta có thể lờ mờ thấy được mối quan hệ chủ - tớ giữa đôi thông qua bức thư mà Old Breslauer gửi cho gia tộc Rothschild. Trong bức thư này, Samuel đã giới thiệu cậu con trai Gerson 17 tuổi cho nam tước Solomon Rothschild, khi đó đang ở Vienna:
“Xin cho phép tôi bày tỏ lời cảm tạ tới ngài bằng tất cả sự chân thành và niềm kính mến sâu sắc. Nhiều năm nay, lòng thiện ý và sự đại độ lớn lao của ngài đã khiến cho tôi rất mực kính trọng và cảm thấy vinh dự, tựa như một hạt bụi trong sa mạc được may mắn chọn lựa. Ngài là quý nhân cao quý nhất, tốt lành nhất. Ngài đã đặt tôi vào một vị trí quan trọng đến nhường đó trong một đại gia đình, tôi không có từ ngữ nào để diễn tả lòng biết ơn của mình. Chỉ cần tôi còn sống thì hình ảnh của ngài sẽ mãi mãi tồn tại trong trái tim tôi, cho đến thời khắc cuối cùng của đời mình, tôi sẽ mãi mãi và hoàn toàn trung thành với ngài, ân nhân của tôi. Còn bây giờ, tôi thỉnh cầu ngài truyền lại sự quan tâm và bảo vệ đó cho con trai tôi.2
2 S. Bleichroder to Baron Anselm Solomon, ngày 17 tháng 11 năm 1839.
Năm 1855, Samuel qua đời, con trai của ông, Gerson đã danh chính ngôn thuận trở thành “lãnh đạo” của gia tộc. Khoảng giữa thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp đang bùng nổ mãnh liệt ở Đức, dưới sức bật đó, thị trường tài chính Berlin cũng bước vào một thời đại phồn thịnh chưa từng có. Lúc này đây, đối với gia tộc Breslauer, nguồn tài sản quan trọng nhất của họ vẫn là mối quan hệ thương mại ổn định, lâu dài với gia tộc Rothschild. Mô thức hợp tác này ngày càng vững chắc hơn trong thời kỳ Gerson lèo lái con thuyền của gia tộc Breslauer. Cùng lúc đó, Breslauer cũng bắt đầu xây dựng nên trung tâm quyền lực của bản thân. Ông liên kết với rất nhiều Ngân hàng Do Thái ở Berlin tạo nên một cộng đồng cùng chung lợi ích, thâm nhập vào các ngành nghề như luyện kim, xây dựng đường sắt, v.v.. Đối tác chủ chốt của họ khi đó chính là gia tộc Oppenheimer của vùng Köln.
OPPENHEIMER: BÁ CHỦ TÀI CHÍNH CỦA VÙNG KOLN
Năm 1834, Abraham Oppenheimer kết hôn với cháu gái của Old Rothschild, tiểu thư Charlotte Beyfus 23 tuổi. Kể từ đó, Abraham có được khối tài sản lớn và vị thế cao trong xã hội bấy giờ. Những người cậu và chú của ông ta cũng sở hữu một lượng tài sản khổng lồ. Họ chính là Amschel – người nắm quyền quyết định các chính sách tài chính của Frankfurt, Solomon – người quản lý chìa khóa ngân khố của Áo, Nathan – người thống trị lĩnh vực tài chính London, Carl – người khống chế việc thu thuế của Ý và James – người đã chinh phục ngành ngân hàng của Paris.
Cưới được con gái của gia tộc Rothschild đương nhiên không phải hạng tầm thường. Gia tộc Oppenheimer vốn thuộc giai cấp tối cao trong xã hội Do Thái, gọi là “cung điện người Do Thái”. Năm 1789, cha của Abraham, Solomon Oppenheimer khi đó mới 17 tuổi, đã thành lập Ngân hàng gia tộc Oppenheimer tại Bonn, sau đó, chuyển đến Köln. Dù còn trẻ tuổi nhưng qua nhiều năm cùng cha lăn lộn trên thị trường tài chính, Solomon trở nên rất nhạy bén. Ông phát hiện ra rằng, trong cơn sóng triều của thời đại, khi mà tài lực của giai cấp tư sản mới nổi đang nhanh chóng mở rộng và bành trướng, thế lực của giới quý tộc phong kiến đã dần dần mất đi sự khống chế.
Với một tập đoàn thế lực nắm địa vị chủ chốt trong xã hội, khi khả năng kiểm soát các tập đoàn xã hội khác của nó dần suy yếu thì tất yếu sẽ hình thành nên một cục diện chia rẽ nhằm đấu tranh quyền lực. Trong lịch sử Trung Quốc, từ sự trỗi dậy của thiên tử nhà Chu cho đến sự hưng khởi của ngũ bá thời Xuân Thu, từ sự suy vong của Vương triều Đông Hán cho đến sự hình thành cục diện tam quốc tranh hùng, từ sự tranh giành trong hoàng thất nhà Tấn cho đến sự kiện Ngũ hồ loạn Hoa3, từ sự cát cứ của các thế lực Phiên trấn cuối thời đại nhà Đường cho đến Ngũ đại thập quốc4, khi khả năng khống chế bị suy yếu là tức khắc sẽ hình thành nên khoảng trống quyền lực. Lúc đó những thế lực mới nổi cả bên trong và bên ngoài sẽ tràn vào, và gần như chắc chắn sẽ hình thành nên một giai đoạn xây dựng lại xã hội mang tính lật đổ.
3 Ngũ Hồ loạn Hoa, còn gọi là Thập lục quốc, là một tập hợp gồm nhiều quốc gia có thời gian tồn tại ngắn ở bên trong và tại các vùng lân cận Trung Quốc từ năm 304 đến 439, kéo theo sự rút lui của nhà Tấn về miền nam Trung Quốc đến khi Bắc triều thống nhất toàn bộ phương bắc, mở ra cục diện mới là Nam Bắc triều.(ND)
4 Ngũ Đại Thập Quốc là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ. Thời kỳ này phân thành Ngũ Đại cùng Thập Quốc. (ND)
Phương Đông là thế, phương Tây cũng vậy, chủ nghĩa tư bản luôn coi việc theo đuổi lợi nhuận làm trọng tâm ngày càng bành trướng ở châu Âu vào cuối thế kỷ XVIII. Thế lực thần quyền tôn giáo và sự thống trị của giới quý tộc phong kiến – những kẻ chuyên bóp nghẹt và thao túng các giai cấp khác nay cũng bị chủ nghĩa tư bản đánh sập. Kết cấu quyền lực truyền thống của xã hội đang rung chuyển dữ dội. Sức mạnh kim tiền sẽ nhanh chóng tràn vào đống đổ nát hoang tàn của quyền lực và những khe nứt của kết cấu xã hội, chúng sẽ đu bám, kéo bè kết lũ để leo lên trên, dần dần phồn thịnh, rồi một ngày sẽ che kín cả bầu trời.
Chàng trai thức thời trẻ tuổi Solomon Oppenheimer quyết định dấn thân vào các nghiệp vụ mới nổi như cho giới cung đình truyền thống vay tiền, trao đổi tiền tệ chuyển sang bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ, trục lợi nhờ chênh lệch tỷ giá xuyên thị trường. Đến năm 1810, tài sản của Ngân hàng gia tộc Oppenheimer đã lên tới con số 10 tỷ Franc, chính thức bước chân vào giới gia tộc ngân hàng hàng đầu. Với chí lớn của mình, gia tộc Oppenheimer quyết mô phỏng theo mô thức thành công của gia tộc Rothschild, cuối cùng phát triển thành một đế quốc tài chính vĩ đại. Vì lẽ đó, Solomon không ngại áp dụng bất cứ thủ đoạn nào để thực hiện mục tiêu của bản thân. Ông nổi danh là tham lam vô độ và không có điểm dừng, ngay cả gia tộc Rothschild cũng phải nể nang ông ta vài phần. Ngày 18 tháng 3 năm 1814, trong thư gửi cho đối tác ở Amsterdam, gia tộc Rothschild đã nhắc nhở họ phải đề phòng những thủ đoạn của Oppenheimer:
Chúng tôi rất vui khi thấy các loại tiền chúng tôi có tại James (chi nhánh của Rothschild ở Paris) và Oppenheim ở Köln chính xác là những gì mà các ngài cần. Sau này cũng sẽ có một khoản tiền nữa được gửi thông qua anh họ của chúng tôi. Tuy nhiên, các ngài cần đặc biệt chú ý đến tất cả những thứ gửi từ gia tộc Oppenheimer, phải kiểm tra kỹ lưỡng. Họ vô cùng tham lam và không phải lúc nào cũng tuân thủ quy tắc, thế nên chúng ta buộc phải cẩn thận, không được cung cấp cho họ những đơn hàng không có giới hạn, bằng không lợi nhuận sẽ đều thuộc về họ.5
Bismarck và Napoléon III trong trận chiến Sedan
5 Michael Sturmer, Gabriele Teichmann and Wilbelm Treue, Striking the Balance—Sal. Oppenheim jr. & Cie. A Family and a Bank, 1994, 37.
Tầm nhìn của Solomon còn được thể hiện ở việc ông ta đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng các liên minh chiến lược, thông qua hàng loạt các cuộc “liên hôn” tạo dựng mạng lưới quan hệ cho mình. Năm 1813, ông ta gả cô con gái mới 15 tuổi của mình cho Benedict Fould, con trai của gia tộc Ngân hàng Do Thái nổi tiếng Fould ở Paris, Pháp mà hoàng đế Pháp Napoléon III cũng phải nhờ cậy mới có thể lên ngôi hoàng đế. Với chiêu bài liên hôn như vậy, gia tộc Oppenheimer đã lan tỏa tầm ảnh hưởng của mình đến thị trường tư bản Pháp. Hai gia tộc đã cùng rót vốn đầu tư 60.000 franc để xây dựng ngân hàng nổi tiếng Fould-Oppenheimer.
Năm 1815, sau thảm bại trong chiến dịch Waterloo, nước Pháp phải đối diện với điều khoản bồi thường còn hơn cả hội nghị hòa bình Paris năm 1814. Đặc biệt là Phổ – một quốc gia từng nhiều lần bị Pháp chinh phục, đã yêu cầu bồi thường mức phí tổn lên tới 170 triệu taylor (loại tiền Phổ, 1 taylor = 3,54 franc). Việc đứng ra đại diện để chi trả khoản tiền khổng lồ này rõ ràng là một thương vụ cực kỳ béo bở, vào thời điểm này, khu vực Köln và Rhine đã bị Phổ chiếm đóng và đổi tên là tỉnh Rhine. Với tư cách mới là công dân nước Phổ, Oppenheimer nhanh chóng liên hệ với vị thân gia nước Pháp của mình là gia tộc Fould để cùng nhau nỗ lực chốt thương vụ béo bở này. Dưới sự trợ giúp của vị thân gia nước Pháp, Oppenheimer đã lôi kéo được Mendelssohn – một gia tộc ngân hàng lâu đời ở Berlin. Cuối cùng đến năm 1818, Oppenheimer chính thức nhận được thương vụ lớn: đại diện chi trả khoản bồi thường chiến tranh trị giá 52,5 triệu franc.
Mendelssohn là một trong những gia tộc ngân hàng Do Thái lâu đời nhất ở Berlin. Nhà soạn nhạc, nghệ sĩ piano và nhạc trưởng nổi tiếng thế giới thế kỷ XIX, Felix Mendelsohn chính là dòng dõi của gia tộc này. Ông nội của ông là nhà triết học nổi tiếng người Đức Moses Mendelsohn, và cha ông, Abraham, từng nói đùa rằng: “Tôi từng là con trai của một người cha nổi tiếng và sau đó trở thành cha của một người con trai nổi tiếng.”6 Trước và sau năm 1850, gia tộc Ngân hàng Mendelssohn trở thành ngân hàng đại diện của hoàng gia do Sa hoàng Nga chỉ định, chịu trách nhiệm bảo lãnh khoản nợ quốc gia khổng lồ của Nga tại thị trường châu Âu cho đến khi Chiến tranh thế giới Thứ nhất bùng nổ.
Ngày 4 tháng 11 năm 1818, Oppenheimer đạt được thỏa thuận với ủy ban thanh toán bồi thường của các nước thắng trận: trong vòng 14 ngày sẽ huy động 52,5 triệu franc ở Paris và trả cho ủy ban thanh toán bồi thường ở Aachen; phí thủ tục gây quỹ, hoán đổi, vận chuyển và bảo lãnh là 0,75% giá trị giao dịch, tương đương khoản thu nhập gần 400.000 franc. Để thực hiện thương vụ này, Oppenheimer đã dốc hết tài sản và bất động sản của mình vào đó. Theo đánh giá của các ngân hàng truyền thống Phổ thì mức phí này không phải là quá nhiều, bởi việc huy động một khoản tiền lớn như vậy chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, còn phải đảm bảo vận chuyển an toàn (cần một lượng lớn người ngựa, vấn đề hậu cần và binh lính vũ trang áp tải) thì đây rõ ràng là cả một thương vụ đầy thử thách và phức tạp. Họ không thể ngờ sau khi thiết lập mạng lưới kinh doanh và quan hệ với các ngân hàng quốc tế, dưới sự kiểm soát của Ngân hàng Do Thái, khoản tiền 52,5 triệu franc về căn bản không đủ phân phối cho thị trường tư bản Pháp. Mức độ tranh giành của thị trường này không hề thua kém với tình trạng giành giật thương phiếu ngắn hạn và giấy bạc trung hạn giữa các Ngân hàng Trung Quốc ngày nay. Một lượng trao đổi tiền mặt và thanh toán khổng lồ như vậy mà có thể thực hiện một cách đơn giản thông qua một giao dịch chuyển tiền giữa Paris và Ngân hàng Köln, Oppenheimer và những bên liên quan khác đã kiếm được 400.000 franc một cách quá nhẹ nhàng. Hệ thống ngân hàng Phổ ẩn phía sau bức rèm đã thực sự bị một phen rúng động trước mạng lưới quan hệ của lĩnh vực tài chính.
6 Sebastian Hensel - Carl Klingemann, The Mendelssohn Family 1729-1847.
Với liên hôn cùng gia tộc Fould, sức ảnh hưởng của gia tộc Oppenheimer trên thị trường tư bản châu Âu ngày một tăng cao. Lúc này, gia tộc Rothschild đã trở thành một trong những bá chủ của thị trường tài chính châu Âu. Năm 1826, công việc kinh doanh của hai gia tộc Oppenheimer và Rothschild lại càng thêm hòa hợp. Thời điểm đó, gần như mỗi ngày Solomon Oppenheimer đều duy trì việc giao nhận thông tin tình báo kinh doanh hết sức chặt chẽ với gia tộc Rothschild ở Frankfurt, Vienna, Paris, London và Napoli. Với sự phát triển khu vực sông Rhine, việc du lịch đến sông Rhine đã trở thành trào lưu của giới thượng lưu Anh. Những du khách giàu có này không muốn mang quá nhiều tiền mặt, vì thế gia tộc Rothschild hợp tác với gia tộc Oppenheimer. Sau khi tới hệ thống ngân hàng gia tộc Rothschild ở Anh để mở thẻ tín dụng, bạn có thể đến ngân hàng của gia tộc Oppenheimer tại khu vực sông Rhine để rút tiền mặt, việc đó càng làm mối quan hệ giữa hai bên gần gũi hơn.
Lúc này Solomon đã từng bước chuyển giao sự nghiệp của gia tộc cho con trai của mình – Abraham Oppenheimer. Trong thời gian đó, gia tộc Oppenheimer mất đi những khách hàng do gia tộc Roche giới thiệu. Năm 1834, Abraham tổ chức hôn lễ đình đám với Charlotte Beatsy, và trong chuyến du lịch tuần trăng mật diễn ra sau đó, họ đã đến thăm hỏi những người chú nổi tiếng của mình. Trong bức thư gửi cho người chú quyền thế nhất là Nathan Rothschild, Abraham đã vô cùng khiêm nhường rằng:
Nathan Rothschild
Kính gửi ngài Nam tước, cho đến nay ngài vẫn thường giới thiệu các khách hàng của mình tới Köln, thế nhưng gần đây dù chúng cháu chưa phạm phải lỗi lầm nào nhưng vẫn bị mất một số khách hàng của ngài, điều đó khiến chúng cháu vô cùng đau khổ. Cháu may mắn kết hôn với cháu gái của ngài, điều đó giúp cháu có cơ hội bước vào vòng tay che chở của ngài. Lần này cháu xin mạo muội thỉnh cầu ngài giúp cho mối quan hệ giữa hai gia tộc chúng ta dần khôi phục, giúp cho gia tộc chúng cháu có nhiều quyền ưu tiên hơn so với gia tộc Schaffhausen. Cháu cũng sẽ khiến ngài trở thành lựa chọn ưu tiên trong việc hợp tác với gia tộc chúng cháu. Hy vọng thỉnh cầu của cháu sẽ nhận được sự chấp thuận của ngài, cháu rất vinh hạnh khi dành sự tôn kính cao nhất tới ngài.7
7 Michael Sturmer, Gabriele Teichmann and Wilbelm Treue, Striking the Balance—Sal. Oppenheim jr. & Cie. A Family and a Bank,1994.
Kể từ năm 1830, gia tộc Oppenheimer đã bắt tay với gia tộc Hansemann để rót vốn vào lĩnh vực đường sắt và vận chuyển, và thành lập công ty cổ phần đầu tư vào dự án đường sắt vùng Rhine. Sự phát triển công nghiệp nhanh chóng ở khu vực Phổ dẫn đến tình trạng căng thẳng nguồn vốn trong toàn khu vực, hầu như tất cả các công ty công nghiệp đều đã đạt đến giới hạn về mặt tín dụng. Abraham rất nhạy bén để nắm bắt thời cơ này, dốc toàn lực thúc đẩy nghiệp vụ bảo hiểm tín dụng cho thương mại và đầu tư. Dưới sự phối hợp của gia tộc Rothschild, Abraham đã xây dựng nên công ty tái bảo hiểm đầu tiên trên thế giới.
Năm 1842, Abraham Oppenheimer thiết lập mối quan hệ thương mại vững chắc với gia tộc ngân hàng Do Thái nổi tiếng ở Berlin – những người đóng vai trò quan trọng trong quá trình thống nhất nước Đức. Kể từ đó, mạng lưới quan hệ của gia tộc Oppenheimer tại châu Âu đã được thiết lập sơ bộ. Ngân hàng gia tộc Oppenheimer trở thành ngân hàng quốc tế thống trị Köln, đóng vai trò chủ đạo ở Phổ, và có sức ảnh hưởng không thể coi nhẹ ở Pháp, Áo, Ý và Anh.
CUỘC CÁCH MẠNG NĂM 1848 VÀ HOẠT ĐỘNG GIẢI CỨU NGÀNH NGÂN HÀNG
Khoảng thời gian trước và sau năm 1830 là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử thế giới cận đại. Tiến trình mở rộng cuộc Cách mạng công nghiệp từ Anh lan nhanh ra lục địa châu Âu. Sự phát triển kinh tế của Pháp, Đức, Áo và các nước khác bước sang một giai đoạn mới. Một mặt, quá trình công nghiệp hóa mang lại sự phát triển chưa từng có cho các ngành khai thác, dệt may, máy móc, đường sắt và đóng tàu. Mặt khác, trong lúc góp phần tạo nên một lượng lớn những kẻ thắng cuộc của giai cấp tư sản công nghiệp, nó cũng mang tới một số lượng còn lớn hơn thế những kẻ thất bại. Họ là những người nông dân trắng tay vì mất đất nên buộc phải lang bạt trong các thành phố, những người công nhân phải làm việc trong điều kiện cực kỳ khắc nghiệt, những người thợ thủ công bị thất nghiệp và giai cấp bần cùng trong thành phố. Trong khi khả năng kiểm soát sức mạnh chuyên chế của chế độ phong kiến ngày càng suy yếu, những kẻ chiến thắng không hài lòng với thực trạng là quyền lực chính trị của họ không tương xứng với sức mạnh kinh tế đang trên đà phát triển. Họ muốn có nhiều quyền lực hơn từ những người thống trị. Đồng thời, những kẻ thua cuộc trong cuộc Cách mạng công nghiệp từ lâu đã oán thán về hiện thực bi thảm của cuộc sống, trong đó bao gồm cả sự phản kháng mạnh mẽ của người Do Thái đối với tình trạng phân biệt tôn giáo và xã hội suốt hơn một nghìn năm qua. Những nguồn sức mạnh lớn lao này bắt đầu hình thành nên hợp lưu dựa trên các vấn đề như đòi hỏi quyền lợi công dân hoàn toàn bình đẳng và cách mạng bạo lực. Ẩn bên dưới biểu tượng công nghiệp hóa với vẻ ngoài phồn vinh là một cơn phong ba khủng khiếp đang âm thầm tích tụ.
Giai đoạn từ 1845 đến 1847, Nhiều nước châu Âu phải hứng chịu các thảm họa thiên nhiên và nạn đói xảy ra trên diện rộng trong suốt ba năm. Ngành nông nghiệp thất thu, giá lương thực tăng vọt và mức tiêu thụ nông sản giảm dẫn đến việc quy mô tín dụng nông nghiệp giảm sút và cơ hội việc làm cũng trên đà lao dốc. Đồng thời, từ năm 1840 nền công nghiệp châu Âu bắt đầu rơi vào trạng thái đình trệ, đặc biệt là tốc độ xây dựng đường sắt về cơ bản đã mất đà tăng trưởng, tín dụng công nghiệp cũng bị thắt chặt. Hai tình trạng này gây ra suy thoái kinh tế ở nhiều vùng của châu Âu vào năm 1848. Kinh tế lao dốc nhanh tạo ra áp lực quá lớn làm cục diện thị trường tài chính vốn ổn định từ khi Napoléon kết thúc chiến tranh năm 1815, xuất hiện vô vàn những vết nứt.
Quan sát thấy tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng ở các thị trường tư bản khác nhau ở châu Âu, Abraham Oppenheimer dự cảm được một cuộc khủng hoảng lớn sắp xảy ra.
Tháng 2 năm 1848, thị trường cổ phiếu Paris sụp đổ, cuộc cách mạng nhen nhóm từ lâu cuối cùng cũng bùng nổ. Sự xung đột giữa tầng lớp nhân dân và giai cấp tư sản thổi bùng ngọn lửa phẫn nộ của xã hội. Ngày 26 tháng 2, gia tộc Fould của Pháp gửi một thông điệp rằng cuộc cách mạng dường như đã thành công và nền cộng hòa thứ hai có thể được thiết lập một cách suôn sẻ.
Chỉ sau hai ngày, tình hình có những chuyển biến rõ rệt, với vô vàn biến số. Tháng 3, những đợt sóng của cuộc Cách mạng Pháp bắt đầu cuộn đến vùng Köln, những người cách mạng đã đề nghị Abraham Oppenheimer đàm phán với chính phủ với tư cách là đại diện của họ, Abraham đã thẳng thừng từ chối. Nguồn gốc sâu xa của gia tộc Oppenheimer và những người cách mạng là không hề tầm thường. Người em thứ ba của Abraham – Dagobert Oppenheim đã trực tiếp tham gia tài trợ cho công tác cổ động cách mạng. Hè năm 1842, sau khi tốt nghiệp Đại học Marx và trở thành tổng biên tập tờ báo Rheinische do Dagbert Oppenheimer tài trợ, ông thường xuyên cho đăng tải những bài viết đả kích chính phủ Phổ.
Thị trường bất động sản của Köln sụp đổ, Ngân hàng Schaffhausen đối mặt với một cuộc khủng hoảng thanh toán do đầu tư quá nhiều vào bất động sản, còn Oppenheimer thì không. Theo truyền thống của các ngân hàng quốc tế, họ hiếm khi đầu tư vào bất động sản vì họ không ưa với các tài sản có thanh khoản kém. Ngày 29 tháng 3 năm 1848, Ngân hàng Schaffhausen ngừng thanh toán cho 170 khách hàng và hơn 40.000 công nhân. Những người tiết kiệm sợ hãi ồ ạt đến rút tiền, và Ngân hàng Schaffhausen không có cách nào đối phó, sự sống còn của ngân hàng đang bị đe dọa. Nếu Ngân hàng Schaffhausen bị đóng cửa, hệ thống ngân hàng của toàn bộ tỉnh Rhine sẽ sụp đổ theo, do đó, đây là loại ngân hàng được coi là “quá lớn để sụp đổ” (too big to fail).
Một khi Ngân hàng Schaffhausen sụp đổ thì gia tộc Oppenheimer vốn có hoạt động kinh doanh mật thiết với nó, cũng gặp phải những vấn đề nghiêm trọng. Tuyến đường sắt Köln-Minden do gia tộc Oppenheimer đầu tư đang rất đói vốn, cần khoảng 500.000 taylor. Đồng thời Ngân hàng Oppenheimer cũng cần số tiền tương đương để sống sót qua cơn bão. Ngày 3 tháng 4, em trai của Abraham, Simon – người chủ trì nghiệp vụ đường sắt của gia tộc đã viết cho Abraham một lá thư: “Em rất tin tưởng vào năng lực của anh, em nghĩ trong thời gian một năm hoặc lâu hơn anh có thể huy động được ít nhất
500.000 taylor từ chính phủ.” Ba ngày sau, Simon gửi thêm tin xấu: “Abraham thân yêu của em, hôm nay tuyến đường sắt Köln-Minden lại phải chi thêm 3.000 taylor, Dag Burke nói họ cần thêm nhiều tiền hơn trong ngày mai.” Đến ngày 10 tháng 4, Abraham vẫn chưa có tin tức gì, Simon tỏ ra rất lo lắng: “Tình hình của chúng ta hiện giờ rất đặc biệt. Hansman (Bộ trưởng Bộ Tài chính Phổ) có lẽ sẽ nhượng bộ. Chúng ta là đơn vị lớn nhất của tỉnh Rhine, và có lẽ hiện giờ cũng là ngân hàng duy nhất vẫn đang vận hành. Việc cứu vãn chúng ta sẽ phù hợp với lợi ích của chính phủ. Bất cứ ai cũng sẽ đồng ý rằng, việc bảo hộ cho một công ty như chúng ta là một lựa chọn hết sức sáng suốt.” Ngày 11 tháng 4, Simon lại thúc giục: “Em hy vọng rằng Đấng toàn năng sẽ giúp cho những trái quả mà chúng ta trông đợi kịp chín vào ngày hôm qua, hy vọng rằng Hansman đã đưa ra quyết định cấp cho chúng ta 500.000 taylor. Abraham thân mến, anh phải tin tưởng rằng nếu như chúng ta muốn ngủ ngon mỗi đêm thì bây giờ buộc phải có được khoản tiền này.”8
8 Ibid.
Ngày 1 tháng 4, Abraham đã tự mình đến Berlin để gặp người bạn thân Hansman của mình để xin thế chấp bằng cổ phiếu và bất động sản, mượn khoản tín dụng 500.000 taylor từ chính phủ nhằm cứu viện cho Ngân hàng Schaffhausen, cũng chính là cứu mình. Thương lượng liên tục suốt hai tuần, Hansman đạt được thỏa hiệp giữa chủ ngân hàng và chủ nợ, để thực hiện mục đích này thì buộc phải xin tiền từ Berlin.
Ban đầu, Berlin không có ý định cho vay, Abraham bèn uy hiếp rằng, cứu trợ ngân hàng không chỉ đơn giản là cứu tính thanh khoản của một ngân hàng cá biệt, mà còn liên quan đến việc có thể khắc chế cuộc cách mạng hay không, đó là vấn đề tồn vong của chính phủ Phổ. Ông đưa ra kết luận, nếu như tín dụng ngân hàng không được khôi phục trở lại thì trật tự xã hội hiện tại sẽ sụp đổ. Chính phủ Phổ nghe thế quả nhiên hoảng hồn, lập tức thành lập ủy ban điều phối khủng hoảng, về phía chính phủ sẽ do Hansman làm đại diện, còn phía ngân hàng sẽ do Abraham đứng đầu, cùng bàn bạc và tìm ra biện pháp cụ thể để cứu trợ Ngân hàng Schaffhausen.
Hai bên nhanh chóng đạt được tiếng nói chung trong việc biến Ngân hàng Schaffhausen thành ngân hàng cổ phần đầu tiên trong lịch sử Phổ. Đây kỳ thực là một phần của chính sách cải cách tài chính mà những người thuộc phe tự do và Abraham đã khuyến khích chính phủ thực hiện kể từ năm 1830.
Để gây thêm áp lực với chính phủ, Abraham còn uy hiếp rằng, trừ khi giải cứu kịp thời cuộc khủng hoảng tài chính này, bằng không việc tỉnh Rhine thoát ly khỏi Phổ là điều không thể tránh khỏi. Hiển nhiên, Abraham đã nâng tầm việc cứu trợ ngân hàng lên thành vấn đề chủ quyền. Đây chẳng khác nào chiếc còng tay mà ông sử dụng nhân lúc chính phủ Phổ đang bận bình định sự xáo trộn của xã hội và không có thời giờ để tập trung quá nhiều vào vấn đề này. Thời điểm đó, phương châm cốt lõi của chính phủ Phổ là “ổn định sẽ đẩy lui tất cả”, thế nên quan điểm “sự ổn định về chính trị là tiền đề cho sự ổn định về tài chính” của Abraham và Hansman đã chiếm thế thượng phong. Thực ra, tất cả những điều này là chiến lược đã được Abraham và Hansman lên kế hoạch từ lâu. Mục tiêu của họ là tiến hành cuộc cách mạng từ trên xuống dưới trong lĩnh vực tài chính và chính trị. Tận dụng sự hỗn loạn chính trị và xáo động xã hội, cuối cùng Abraham đã đạt được mục tiêu mà ông ấp ủ bấy lâu nay.
Đầu tháng 5, Oppenheimer nhận gói cứu trợ 500.000 taylor từ chính phủ Phổ, và hệ thống tài chính Phổ bắt đầu một sự thay đổi lớn. Nếu so sánh giai đoạn lịch sử này với cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và gói cứu trợ của chính phủ Mỹ, chúng ta sẽ thấy rằng chỉ cần điều chỉnh niên đại và danh xưng một chút thì hoàn toàn có thể đăng trên trang nhất Tạp chí Phố Wall ngày nay, với tựa đề là “Giải cứu ngân hàng và cải cách tài chính: Bộ trưởng Bộ Tài chính và phía ngân hàng đã đạt được mục tiêu đồng thuận”.
Nhân loại là những vòng lặp của lịch sử, và lần này cũng không ngoại lệ.
SỰ TRỖI DẬY CỦA BISMARCK
Nếu sự thống nhất của Đức không thể tách rời khỏi Bismarck, thì sự thành công của Bismarck không thể tách rời với Ngân hàng Do Thái Gerson Breschlauer đứng sau ông. Vị trí của Bismarck trong lịch sử Đức tương tự như Tần Thủy Hoàng trong lịch sử Trung Quốc. Điểm chung của cả hai là luôn sử dụng những thủ đoạn máu lạnh với ý chí kiên nhẫn để thống nhất đất nước mình, lưu lại những con người xuất chúng và không thể phải mờ trong lịch sử. Ở Đức có tới hơn 7.000 bài nghiên cứu chuyên sâu về Bismarck, và giới sử học Đức đã phân tích kỹ lưỡng về công-tội của ông. Nhưng trong sấp tài liệu nghiên cứu này, ảnh hưởng của thế lực tài chính khổng lồ đằng sau các chính sách của Bismarck gần như bị bỏ qua hoàn toàn. Cuốn tiểu sử dài ba tập của Bismarck, chỉ duy nhất một lần đề cập đến gia tộc Breslauer khi vua Wilhelm II băng hà. Dường như, ảnh hưởng của Ngân hàng Do Thái đối với nền chính trị Đức là một điểm mù trong nghiên cứu.
Trên thực tế, trong suốt sự nghiệp chính trị của mình, Bismarck đã trao đổi hàng ngàn bức thư với gia tộc Breslauer và Rothschild. Còn Breslauer thì ngày ngày cung cấp thông tin về những thay đổi chính trị, quân sự và thị trường tài chính của Đức cho gia tộc Rothschild.9 Thông qua những bức thư ấy, chúng ta có thể đánh giá một cách chính xác rằng nếu không có sự hậu thuẫn tài chính mạnh mẽ của Breslauer và Rothschild, Bismarck khó có thể đứng vững trên đấu trường chính trị Đức, chứ đừng nói đến sự nghiệp thống nhất nước Đức. Breslauer đã chìm vào lịch sử suốt hơn một trăm năm qua, và việc lật lại mọi thứ liên quan đến ông sẽ thực sự khơi gợi sức ảnh hưởng của các lực lượng tài chính bị bỏ qua từ lâu trong lịch sử nước Đức.
9 Fritz Stern, Gold and Iron-Bismarck, Bleichroder, and the Building of the German Empire, 1977, 21.
Bismarck xuất thân danh gia vọng tộc, thuộc giai cấp địa chủ Junker, có thể coi là “ngậm thìa vàng” ngay từ khi chào đời. Tuy Bismarck giàu có và có rất nhiều đặc ân xã hội, nhưng ông lại là một người ôm chí lớn từ khi còn nhỏ. Chính vì thế đã hình thành nên tính cách độc đáo của ông. Bismarck nóng nảy nhưng quyết đoán, thô lỗ nhưng quả cảm và kiên cường, hơi tự tin thái quá nhưng rất chắc chắn.
Bismarck có dã tâm, tham vọng và hứng thú với chính trị. Ngoài ra, giống như giới quý tộc Junker khác, ông cũng có khao khát cực lớn với tiền bạc. Với ông, tiền bạc như một bệ đỡ nâng tầm địa vị, thỏa mãn tham vọng chính trị và mong muốn quyền lực của mình. Nếu một ngày chán sự nghiệp chính trị, ông có thể ung dung rút lui khỏi chính giới mà không bị ảnh hưởng hay trói buộc về mặt kinh tế.
Từ khi theo đuổi sự nghiệp chính trị, khao khát tiền bạc của Bismarck ngày càng lớn hơn, trong khi không có thời gian quản lý nó. Vì vậy, ông phải sử dụng sự nhạy cảm với tiền bạc và khả năng quản lý tài sản của người Do Thái để hỗ trợ mình quản lý, tích lũy và gia tăng của cải. Trong quá trình này, Bismarck vẫn luôn có thái độ thực dụng đối với các chủ ngân hàng Do Thái. Xét từ bản chất, ông không thích người Do Thái, thậm chí còn nghĩ rằng họ không nên tham gia vào các cơ quan chính phủ công. Điều mà ông tìm kiếm ở người Do Thái chỉ là khả năng quản lý tài chính tuyệt vời của họ. Ông phải dựa vào các ngân hàng Do Thái thông thái này để tăng thêm giá trị cho khối tài sản cá nhân của mình.
Cuộc Cách mạng châu Âu năm 1848 tạo ra một khoảng trống quyền lực rất lớn, mang lại không gian phát triển tuyệt vời cho Bismarck. Nó truyền cảm hứng cho chí lớn của ông và góp phần tạo nên thái độ chủ nghĩa hiện thực độc đáo của ông. Trong làn sóng cách mạng, Bismarck đã chọn hướng đi của riêng mình và trở thành một người theo chủ nghĩa bảo hoàng kiên định. Ông tin chắc rằng cuối cùng Đức sẽ tiến tới thống nhất và quá trình này phải dựa vào một chế độ quân chủ hùng mạnh. Nền dân chủ sẽ chỉ dẫn đến sự yếu đuối và tan rã. Vì mục tiêu cuối cùng này, ông phải trở thành một người bảo vệ kiên định của nhà vua. Những lời nói và việc làm của Bismarck đã làm cho Quốc vương Phổ hết sức cảm động. Năm 1851, Frederick Wilhelm IV đã bổ nhiệm Bismarck làm đại diện của Phổ để tham dự Hội nghị Liên minh Đức tại Frankfurt như một món quà dành cho ông. Kể từ đó, Bismarck chính thức trở thành nhân vật của công chúng và bước lên vũ đài lịch sử.
BRESLAUER: NGÂN HÀNG TƯ NHÂN CỦA BISMARCK
Gerson Breslauer vừa là chủ ngân hàng tư nhân của Bismarck – thủ tướng đầu tiên của Đế quốc Đức, vừa là một chủ ngân hàng của công chúng Đức. Ông thu được những thành quả to lớn bằng tài năng và sự kiên nhẫn của mình. Gia tộc Rothschild là một hình mẫu và liên minh bí mật của ông, nhưng thực tế ông là người đi theo con đường của riêng mình và khẳng định giá trị của chính mình
- Fritz Stern -
Bismarck đến Frankfurt năm 1851 và nhanh chóng thu hút được sự chú ý của Amschel Rothschild – người đứng đầu của gia tộc Rothschild ở Frankfurt. Amschel là anh cả của năm anh em nhà Rothschild và thời điểm đó, ông đã gần 80 tuổi. Bismarck hết sức ấn tượng với Amschel ngay lần đầu gặp mặt. Khi trở về nhà, ông thường xuyên bắt chước khẩu âm của Rothschild lúc trò chuyện với vợ mình, ông còn dùng ngữ pháp của người Do Thái để biểu đạt tiếng Đức. Ông ấn tượng mạnh mẽ đối với sự giàu có và quyền thế của gia tộc Rothschild, đồng thời cũng rất vui mừng khi được kết thân với gia tộc Rothschild.
Kể từ đó, chỉ cần gia tộc Rothschild có lời mời là ông luôn vui vẻ nhận lời. Ông từng miêu tả về Amschel: “Ông ấy là một người Do Thái già, với hàng tấn vàng và bạc, rất nhiều đĩa và dao nĩa bằng vàng. Amschel không có con nên cho dù giàu có đến đâu, vẫn chẳng có người kế thừa. Ông ấy chẳng khác gì người đàn ông nghèo ở trong một cung điện xa xỉ. Có vô số người xung quanh đang cố sức lừa gạt và mưu đoạt tiền bạc của ông ấy. Những người thân thuộc thì cố bám lấy và tìm cách thừa hưởng gia sản của ông, và thực ra họ chẳng hề thật lòng yêu thương và biết ơn ông ấy.”10
Bismarck rất siêng năng và ham học hỏi, và ông cực kỳ khao khát quyền lực và trí tuệ. Dã tâm và tham vọng chính trị của ông nhanh chóng nhận được sự ưu ái của anh em Amschel và Carlmann Mayer. Gia tộc Rothschild đặc biệt thích bồi dưỡng những nhân vật tiềm năng trong lĩnh vực chính trị. Họ thường tự xưng mình là Bá Nhạc, người rất giỏi tìm kiếm Thiên lý mã của Trung Quốc. Xuyên suốt lịch sử châu Âu, gia tộc Roche đã lựa chọn và bồi dưỡng nhiều ngôi sao chính trị. Rothschild tin chắc rằng Bismarck sẽ là một mã cổ phiếu tiềm năng xứng đáng để đầu tư. Ngoài Bismarck, gia tộc Rothschild cũng lựa chọn cả Benjamin Disraeli, người trở thành thủ tướng Anh sau này. Gia tộc Rothschild tìm được chàng rể tài mạo song toàn là bá tước Rothbury. Khi còn trẻ thì Rothbury từng đặt ra ba nguyện vọng lớn trong đời mình đó là: chiến thắng trong cuộc đua ngựa Derby Race, lấy một người vợ siêu giàu và trở thành thủ tướng Anh, cuối cùng ông hoàn thành cả ba mục tiêu đó. Gia tộc Rothschild còn phát hiện và bồi dưỡng Churchill – vị thủ tướng nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử nước Anh. Đó đều là những nhân vật do gia tộc Rothschild phát hiện, bồi dưỡng một cách chu đáo và trở thành những chính trị gia tài ba, có ảnh hưởng đến lịch sử của thế giới.11
10 “Bleichroder to Baron James”, 21 Feb 1863.
11 Niall Ferguson, The House of Rothschild.
Mặc dù Nathan Rothschild từng tuyên bố ông đã “kiểm soát quyền phân phối tiền tệ của Đế quốc Anh”, nhưng giới quý tộc châu Âu cũ vẫn có tâm lý khinh miệt đối với giới “quý tộc mới nổi” như Rothschild và các chủ ngân hàng Do Thái khác. Thế nhưng trong tình huống như vậy, giới quý tộc này buộc phải khuất phục trước quyền lực của đồng tiền. Bismarck cũng có một tâm thái tương tự như thế, vừa lợi dụng vừa coi thường các chủ ngân hàng Do Thái.
Lần đầu tiên Bismarck đến Frankfurt, ông như được hưởng tuần trăng mật khá nồng ấm với gia tộc Rothschild, nhưng rất nhanh sau đó hai bên xảy ra tranh cãi dữ dội. Nguyên nhân xuất phát từ việc Áo – với tư cách là người đứng đầu Liên minh Đức, thường xuyên tỏ thái độ độc tài và không tôn trọng chính phủ Phổ. Trong khi đó Bismarck là một người nhạy cảm và mạnh mẽ đến mức cực đoan. Với tư cách là một nhà ngoại giao, ông chỉ có thể tuân theo ý chí chính trị của Berlin, nhưng lại thường xuyên nổi trận lôi đình trước sự kiêu ngạo và các vấn đề của Áo. Thêm nữa, gia tộc Rothschild có nhiệm vụ tương đối quan trọng là duy trì mối quan hệ mật thiết với Vương triều Habsburg ở Áo. Năm 1852, giữa Áo và Phổ xảy ra cuộc xung đột liên quan đến vấn đề của Liên bang Đức, nhưng không quá nghiêm trọng. Vào thời điểm đó, Liên bang Đức có một hạm đội nhỏ, do thiếu nguồn vốn nên khó có thể tiếp tục duy trì, họ cần một khoản tiền để trả lương cho các thủy thủ. Áo không thèm để ý đến sự kiên quyết phản đối của Phổ, trực tiếp yêu cầu gia tộc Rothschild cung cấp khoản vay trị giá 60.000 guilders Hà Lan. Xét từ một khía cạnh nào đó, gia tộc Rothschild không hề muốn tài trợ cho hạm đội này, nhưng cuối cùng họ vẫn đồng ý tuân theo mệnh lệnh của Vương triều Habsburg. Và chuyện này đã khiến Bismarck cực kỳ tức giận, dẫn đến cuộc tranh cãi kịch liệt giữa ông và Amschel.
Trong quá trình “so găng” giữa hai chính phủ Phổ và Áo, dù thuộc hàng giàu có nhất nhưng gia tộc Rothschild cũng rất khó tránh khỏi việc trở thành chú chuột trong ống khói, tiến thoái lưỡng nan. Từ trong tâm trí, giai cấp quý tộc cầm quyền phong kiến này vẫn coi dân Do Thái là một nhóm người phụ thuộc và thấp kém. Xét từ tình hình lịch sử thời đó, tiền bạc cũng không thể giải quyết vấn đề địa vị chính trị thấp kém của người Do Thái.
Sau cuộc tranh cãi lớn, cơn giận của Bismarck vẫn chưa hoàn toàn lắng xuống. Ông cho rằng gia tộc Rothschild gần gũi với Áo hơn và không coi trọng Phổ. Ông bắt đầu từ chối lời mời của gia tộc Rothschild, đồng thời vận động chính phủ Phổ cho ra mắt Ngân hàng Besman – đối thủ cạnh tranh mới của gia tộc Rothschild và sử dụng ngân hàng này làm ngân hàng chính thức của chính phủ Phổ. Không may, Bộ Tài chính Phổ không bốc đồng như Bismarck, họ vẫn quyết định không thay thế gia tộc Rothschild. Nguyên nhân chủ yếu là không ai có thể thay thế được địa vị của Rothschild. Chính phủ Phổ biết rằng khi họ thực sự cần tiền thì chỉ có gia tộc Rothschild mới có thể cung cấp những sự trợ giúp mang tính quyết định. Tranh cãi qua đi, đại sứ Áo rời Frankfurt trong cơn nóng giận và Bismarck tin rằng mình đã thắng trong trận chiến này.
Trong quá trình đụng độ với gia tộc Rothschild, Bismarck cũng đã đong đếm được tiềm lực của đối thủ.
Bismarck là một chính khách rất thực tế và lý trí trên chính trường, một khi giành được phần thắng trước Áo về chính trị, ông lập tức điều chỉnh thái độ đối với gia tộc Rothschild, và lại bắt đầu tỏ thiện ý với gia tộc này. Năm 1853, Bismarck ủng hộ kiến nghị của chính phủ, đồng ý cho gia tộc Rothschild trở thành ngân hàng đại diện cho chính phủ Phổ ở Frankfurt. Không chỉ vậy, ông còn yêu cầu trao huân chương Đại bàng đỏ của Phổ cho ngài Amschel Mayer. Sau khi mối quan hệ được phục hồi, hai bên lại càng trở nên thực dụng và mật thiết hơn trước.
Năm 1858, thái tử nước Phổ (sau này là Vua Wilhelm I) đã bổ nhiệm Bismarck làm đại sứ tại St.Petersburg. Trước khi Bismarck rời Frankfurt vào tháng 3 năm 1859, ông đã hỏi ý kiến Calmann Mayer Rothschild, hy vọng Calmann giới thiệu một ngân hàng đáng tin cậy cho ông ở Berlin, và Bismarck muốn ngân hàng quản lý tài chính cá nhân của mình ở Berlin bắt buộc phải là của người Do Thái. Vì nhiều lý do, Bismarck tin rằng chỉ có các chủ ngân hàng Do Thái mới có đủ tài năng giúp ông đạt được mục tiêu tài chính của mình. Lý do thực sự đằng sau vấn đề này là ông muốn tiếp tục duy trì mối quan hệ đặc biệt và gần gũi với gia tộc Rothschild.
Vì vậy, gia tộc Rothschild chính thức đề nghị Gerson Breslauer làm ngân hàng tư nhân cho Bismarck.
Năm 1861, gia tộc Breslauer trở thành chủ ngân hàng Do Thái rất có ảnh hưởng ở Berlin. Mặc dù khi đó có một số gia tộc ngân hàng lâu đời như gia tộc Mendelssohn, có quy mô và sức ảnh hưởng đều vượt trội hơn so với gia tộc Breslauer, thế nhưng dựa vào mối quan hệ kinh doanh chặt chẽ với gia tộc Rothschild, gia tộc Breslauer nhanh chóng trở thành một “ngôi sao mới nổi” trong lĩnh vực ngân hàng ở Berlin. Hay nói cách khác, trong rất nhiều các gia tộc ngân hàng, bất cứ ai duy trì mối quan hệ chặt chẽ hơn với Rothschild, thì sẽ có cơ hội tốt hơn để trở thành người dẫn đầu trong việc cạnh tranh thị trường.
Sau khi trở thành ngân hàng tư nhân của Rothchild, Breslauer lập tức thể hiện vai trò của mình. Toàn bộ tiền lương và các thu nhập khác của Bismarck được chuyển cho ngân hàng của gia tộc Breslauer quản lý. Đồng thời, gia tộc Breslauer cũng phụ trách việc thanh toán các khoản nợ tư nhân, thiết lập và điều hành các tài khoản ngân hàng của ông ở nước ngoài; phụ trách kinh doanh khối tài sản vẫn chưa quá nhiều của Bismarck khi đó.
Từ thời điểm này, Bismarck và gia tộc Breslauer bắt đầu liên lạc chặt chẽ với nhau qua thư từ. Tất cả các gia tộc ngân hàng đều rất nhạy cảm với các tin tức chính trị và tình báo thị trường, vì sẽ có rất nhiều cơ hội kinh doanh ẩn sau chúng. Gia tộc Breslauer không yêu cầu Bismarck trả bất cứ một khoản thù lao nào bằng tiền. Phần thưởng họ tìm kiếm là những thông tin chính trị và một số tin tức nội bộ.
CUỘC KHỦNG HOẢNG ĐAN MẠCH: CƠ HỘI BẤT NGỜ CỦA BISMARCK
Ẩn phía sau bất kỳ cuộc chiến nào cũng là tiền, và kẻ nào sở hữu nguồn lực kinh tế lớn hơn, kẻ đó càng có nhiều khả năng giành chiến thắng cuối cùng. Tiền bạc là vấn đề nan giải đầu tiên mà Bismarck gặp phải trong tiến trình thống nhất nước Đức.
Khi Wilhelm I kế vị ngai vàng năm 1861, khó khăn chính của ông là Quốc hội do phe tự do nắm giữ. Kể từ cuộc Cách mạng tư sản Pháp vào cuối thế kỷ XVIII, chủ nghĩa tự do với khái niệm dân chủ là cốt lõi đã càn quét khắp châu Âu, đặc biệt là sau cuộc Cách mạng năm 1848, ảnh hưởng của những người tự do ở châu Âu trở nên sâu rộng hơn rất nhiều, thậm chí các phương thức bạo lực đẫm máu đã được sử dụng để cố gắng phá vỡ hoàn toàn cấu trúc quyền lực chuyên chế phong kiến. Ở Phổ, nơi truyền thống tư tưởng bảo thủ hơn, những người tự do tỏ ra háo hức với mô hình dân chủ của Pháp và Anh, nhưng từ tận đáy lòng, họ lại sợ cuộc cách mạng đẫm máu mà Pháp trải qua. Đây là điểm yếu chết người nhất của những người tự do Phổ. Họ vẫn là những người theo chủ nghĩa dân tộc địa phương, chẳng qua chỉ khoác lên mình một lớp vỏ bọc của chủ nghĩa tự do.
Wilhelm I đã kế thừa truyền thống của quân đội Phổ. Sự nghiệp cầm quân suốt nhiều năm giúp ông rèn luyện tư duy xây dựng quân đội. Năm 1848, ông về phe thiểu số kiên quyết nhất trong vấn đề sử dụng lực lượng quân sự để đàn áp cuộc Cách mạng châu Âu và phản đối bất kỳ thỏa hiệp chính trị nào. Ông tin rằng sức mạnh quân sự và sự tập trung hóa chính trị cao độ là điều kiện tiên quyết cho sự trỗi dậy của nước Phổ. Điều này hoàn toàn tương đồng với quan điểm của Bismarck.
Năm 1862, dự luật cải cách quân đội của Wilhelm I liên tục bị Quốc hội cản trở. Ông quyết tâm đề cử Bismarck – một nhân vật vốn gây ra rất nhiều tranh cãi làm Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phổ.
Trong bài phát biểu nhậm chức, Bismarck đề xuất lý luận “sắt và máu” nổi tiếng của mình. Ông nói: “Những vấn đề chính hiện tại không thể giải quyết bằng các bài phát biểu và nghị quyết dựa trên đa số. Đây là sai lầm của chúng ta trong những năm 1848 và 1849. Chúng ta chỉ có thể giải quyết chúng bằng sắt và máu.” Đồng thời, Bismarck cũng tiêm thêm một liều thuộc trợ tim cho Wilhelm I: “Nếu sớm muộn gì chúng ta cũng phải chết, liệu chúng ta có thể chết một cách vinh quang hơn hay không... Đức vua không còn đường lùi nữa, chỉ còn cách tranh đấu thôi!” Kể từ đó, Bismarck giành được sự ủng hộ mạnh mẽ của Wilhelm I cho chính sách của mình.12
12 Holborn, Modern Germany.
Cốt lõi của dự luật cải cách quân sự là tăng cường quân đội chính quy và làm suy yếu lực lượng vệ binh quốc gia. Theo dự luật này thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự thường xuyên sẽ kéo dài, từ hai năm thành ba năm. Lý do bề nổi dẫn tới sự phản đối của Quốc hội là chi tiêu quân sự quá lớn, nhưng nguyên nhân cốt lõi là họ bất mãn vì vai trò của lực lượng vệ binh quốc gia sẽ bị giảm cấp. Tập đoàn thế lực quý tộc phong kiến Junker đóng vai trò nòng cốt trong kết cấu của quân đội Phổ. Trong khi đó vệ binh quốc gia đại diện cho sức mạnh tư sản mới nổi của giai cấp trung lưu thành thị. Kết quả tất yếu của việc tăng cường quân đội chính quy là tăng cường hơn nữa sức mạnh chuyên chế của Phổ. Đây là một điều cấm kỵ đối với Quốc hội theo phe tự do. Thủ đoạn của họ là từ chối phê duyệt ngân sách của chính phủ và gây sức ép với Bismarck về vấn đề tiền bạc. Bismarck cũng không hề non kém, ngay lập tức ông đe dọa sẽ cho giải tán Quốc hội và nắm quyền mà không cần Quốc hội.
Trong khi hai bên đang rơi vào bế tắc, cuộc khủng hoảng Đan Mạch bất ngờ ập đến. Tháng 3 năm 1863, quốc vương Đan Mạch muốn sáp nhập hai vùng lãnh thổ đang có tranh chấp ở khu vực biên giới Pudan là Schleswig và Holstein vào bản đồ. Việc này ngay lập tức kích hoạt cảm xúc chủ nghĩa dân tộc Phổ. Mặc dù hai khu vực này được cai trị bởi Đan Mạch theo Hiệp ước London 1852, nhưng trên thực tế chủ quyền vẫn thuộc về Liên bang Đức. Những đám mây đen của chiến tranh bắt đầu bao phủ bầu trời nước Phổ.13
13 Erich Eyck, Bismarck and the German Empire, W. W. Norton & Company, 1964.
Với Bismarck, đây đúng là cơ hội ngàn năm có một. Ông sẽ sử dụng chiến tranh với Đan Mạch để làm suy yếu sự chống đối của những người tự do trong nước và củng cố quyền lực của bản thân. Lúc này, Bismarck rất cần một chiến thắng trong cuộc chiến tranh với nước ngoài. Nếu phân tích từ phương diện chiến lược, có thể thấy thủ đoạn của Bismarck hết sức bình tĩnh và tinh quái. Để đạt được mục tiêu đánh bại Đan Mạch, ông tìm cách lôi kéo Áo. Cuối cùng, ông khéo léo đề xuất rằng Schleswig sẽ đặt dưới sự cai trị của Phổ, còn Holstein thuộc về Áo, và Áo đã hân hoan chấp nhận đề xuất này. Đồng thời, để tránh sự can thiệp của các cường quốc châu Âu khác, Bismarck đã vỗ về Anh, Pháp và Nga bằng cách ủng hộ “Hiệp ước London” và duy trì trật tự châu Âu hiện có.
Các thủ đoạn chính trị và kỹ năng ngoại giao của Bismarck trong cuộc khủng hoảng Đan Mạch đã phát huy hiệu quả tối đa, bộ máy quân sự của Phổ thừa sức đối phó với Đan Mạch, nhưng điều lo lắng nhất đối với Bismarck là khoản chi phí chiến tranh khổng lồ chưa thể giải quyết. Quốc hội vẫn kiên quyết phản đối chính sách đối nội và đối ngoại của ông, hoàn toàn không chấp nhận thông qua dự toán chiến tranh.
CUỘC CHIẾN PUDAN: NƠI QUYỀN LỰC TÀI CHÍNH PHÔ DIỄN SỨC MẠNH CỦA MÌNH
Cách duy nhất của Bismarck là bỏ qua sự khống chế ngân sách của Quốc hội và tiếp cận các nguồn tài trợ khác. Ông đặt hy vọng vào chính ngân hàng tư nhân của mình – Breslauer. Breslauer có mối quan hệ mật thiết với gia tộc Rothschild với quyền thế tột đỉnh. Họ không chỉ có thể giải quyết các vấn đề tài chính lớn mà còn có sức ảnh hưởng đến hoàng đế Napoléon III của Pháp. Trong cuộc chiến chống lại Đan Mạch, thái độ trung lập của Napoléon III chính là chìa khóa quyết định thành bại.
Breslauer vốn luôn đứng sau Bismarck lặng lẽ quan sát sóng gió bên trong nền chính trị Phổ, và tính toán xem nên tận dụng những biến động chính trị này như thế nào để tìm kiếm các lợi ích kinh tế lớn. Xét từ quan điểm yêu-ghét cá nhân, với tư cách là người Do Thái thì gia tộc Breslauer nghiêng về chủ nghĩa tự do. Trên thực tế, người Do Thái cũng đã trở thành một lực lượng quan trọng trong cuộc Cách mạng 1848, đấu tranh vì quyền lợi và sự công bằng của chính họ. Nhưng với tư cách một ngân hàng, phán đoán của họ phải vô cùng lý trí, thậm chí là lạnh lùng, họ buộc phải lựa chọn lợi ích!
Thông qua việc trao đổi qua thư từ mật thiết hằng ngày giữa Breslauer với gia tộc Rothschild, tình hình thị trường thương mại, tình báo chính trị và quân sự của Berlin không ngừng chảy đến James Rothschild ở Paris. Trong tin tình báo ngày 1 tháng 5 năm 1863, Breslauer tiết lộ rằng cuộc khủng hoảng Đan Mạch đã khiến cho “Bộ trưởng (Tài chính) của chúng tôi phải lên kế hoạch vay 50 triệu taylor để xây dựng hải quân, thế nhưng cũng chính hờ điều đó đã làm cho khoản vay giảm xuống còn 30 triệu taylor, chủ yếu dùng để phòng thủ cảng ở biển Baltic… Sự kiện của Đan Mạch có thể tạo ra cục diện phức tạp, nhưng tạm thời trong ba tháng tới sẽ không có hành động nào, vì việc chuẩn bị quân sự vẫn chưa hoàn tất.14
14 Fritz Stern, Gold and Iron: Bismarck, Bleichroder, and the Building of the German, Empire, 1977, 32.
Từ tháng 5 đến tháng 11 năm 1863, công tác chuẩn bị chiến tranh của Bismarck diễn ra hết sức căng thẳng, trong khi đó áp lực tài chính ngày một gia tăng. Sau nhiều lần tham khảo ý kiến của gia tộc Rothschild, gia tộc Breslauer cuối cùng đã đưa ra mức giá cho Bismarck vào tháng 11. Lời khuyên của gia tộc Breslauer rất đơn giản, Phổ có thể rao bán tài sản thuộc sở hữu nhà nước để lấy tiền đầu tư. Họ tỏ ra thích thú với các mỏ than có trữ lượng tốt ở vùng Saar. Những mỏ than này chủ yếu nằm dưới sự kiểm soát của chính phủ Phổ, và gia tộc Breslauer đề xuất bán các mỏ than này cho gia tộc Rothschild ở Pháp. Trên thực tế, từ năm 1861, đã có tin đồn rằng gia tộc Rothschild sẵn sàng trả 20 triệu taylor để mua các mỏ than ở khu vực Saar. Bismarck sớm biết rằng Napoléon III cũng rất quan tâm đến vấn đề này. Thậm chí, Napoléon III còn trực tiếp “ngửa bài” với Bismarck: Nếu muốn Pháp giữ thái độ trung lập trong Chiến tranh Pudan thì Phổ phải đem mỏ than ra giao dịch. Đầu năm 1864, tin tức mỏ than của Phổ sắp bán cho Pháp được truyền thông Pháp xới tung trên các mặt báo. Wilhelm I không thể giữ được thể diện. Kế hoạch tài chính của Bismarck đành bị đình chỉ.
Ngày 7 tháng 12 năm 1863, trong một lá thư gửi gia tộc Rothschild, gia tộc Breslauer tiết lộ rằng, chính phủ sắp đệ trình ngân sách 10 triệu taylor cho Quốc hội, nhưng Quốc hội có thể sẽ bác bỏ. Hai ngày sau, Bismarck đề xuất ngân sách 12 triệu taylor cho Chiến tranh Pudan. Thời điểm đó, khoản tiền trong quốc khố Phổ có thể sử dụng để tài trợ cho chiến tranh với Đan Mạch là 21 triệu taylor, nhưng từ những đánh giá thận trọng về vấn đề chi tiêu trong chiến tranh, Bismarck tin rằng số tiền này phải được bảo lưu trong trường hợp bất trắc. Ngày 22 tháng 1 năm 1864, Quốc hội phủ quyết đề xuất của Bismarck với tỉ lệ chênh lệch: 275 phiếu phản đối và 51 phiếu đồng thuận.15
15 Ibid.
Bismarck đành phải nghĩ cách khác để tìm kiếm nguồn tiền. Đúng lúc đó, gia tộc Ngân hàng Raphael von Erlanger tại Frankfurt tự tìm đến và đề nghị cho vay 15 triệu taylor, Bismarck nghe vậy thì vui mừng khôn xiết. Sự việc này lại khiến gia tộc Rothschild hết sức phẫn nộ. Ban đầu gia tộc Erlanger chỉ là “môn hạ” của gia tộc Rothschild. Nhưng sau đó, họ đã trở thành một trong những ngân hàng quốc tế cạnh tranh trực tiếp với gia tộc Rothschild. Từ xưa đến nay, gia tộc Rothschild luôn căm hận sự phản bội của các “môn hạ”, chưa kể gia tộc Erlanger thường lấy gia tộc Fould của Pháp và gia tộc Bellella để tranh giành mối làm ăn với gia tộc Rothschild.
James Rothschild không tiếc lời trách móc gia tộc Breslauer là những kẻ bất lực. Gia tộc Breslauer vội vàng đảm bảo rằng, Quốc hội sẽ kiên quyết phản đối bất kỳ ngân hàng nào đứng ra cho chính phủ vay mà không có sự chấp thuận và ủy quyền của Quốc hội, “cách thức cho chính phủ vay của gia tộc Erlanger đã hoàn toàn bị phủ quyết.”16
16 Bohme, Deutschlands Weg, Chapter 2 and 3.
Liên quân Phổ chính thức phát động cuộc chiến chống Đan Mạch vào ngày 1 tháng 2 năm 1864. Ngày 3 tháng 2, khi gặp Bismarck, gia tộc Breslauer một lần nữa thay mặt gia tộc Rothschild cảnh báo rằng, Bismarck không được chấp nhận các khoản vay từ gia tộc Erlanger. Gia tộc Rothschild thậm chí còn yêu cầu Bismarck làm mất uy tín của gia tộc Erlanger trên các phương tiện truyền thông của Phổ. Bismarck đã từ chối yêu cầu quá đáng này, nhưng đảm bảo rằng chính phủ Phổ sẽ cân nhắc cẩn thận việc hợp tác với gia tộc Erlanger.
Sau đó gia tộc Breslauer đưa ra đề xuất mới cho Bismarck, Quốc hội phải cam kết phê duyệt hạn ngạch cho vay để xây dựng đường sắt, quy định mức chiết khấu đầu tư cho các chủ ngân hàng, sau đó bán trái phiếu đầy đủ cho các nhà đầu tư. Trong tuần đầu tiên của cuộc chiến, Bismarck lo lắng về chi phí chiến tranh còn hơn cả cục diện xảy ra trên chiến trường. Chi phí chiến tranh rõ ràng vượt quá dự toán của ông.
Nếu nguồn tiền không cung ứng kịp thời thì đại quân của Bismarck chỉ có thể cầm cự được khoảng hai tháng. Nếu trong lúc đó chiến tranh vẫn chưa kết thúc, Bismarck sẽ mắc kẹt trong hàng ngàn hàng vạn chỉ trích điên cuồng từ Quốc hội và sự chế nhạo của các cường quốc châu Âu. Sẽ không quá lời khi nói rằng cái tên Bismarck sẽ trở thành trò cười cho cả châu Âu, và bản thân ông cũng sẽ bị xóa khỏi vũ đài lịch sử.
Đầu tháng 3, Ngân hàng Phổ đạt được thỏa thuận bí mật với gia tộc Erlanger. Gia tộc Rothschild nghe tin như sét đánh ngang tai, họ lại tiếp tục mắng chửi gia tộc Breslauer là những kẻ vô dụng. Ngày 14 tháng 3, gia tộc Breslauer trả lời rằng “Bismarck không hề biết về chuyện này, và ông ấy đang cảm thấy hết sức bối rối.” Bismarck hứa sẽ khiển trách Bộ trưởng Bộ Tài chính – người trực tiếp liên quan đến việc này.
Đương nhiên, Bismarck không phải là dạng vừa. Ông nhận ra mâu thuẫn giữa gia tộc Rothschild và gia tộc Breslauer, nên vô tình hữu ý phóng đại mối uy hiếp tiềm tàng của gia tộc Erlanger, mục đích là để nhanh chóng nhận được khoản vay với điều kiện tốt nhất từ gia tộc Rothschild. Ông đã áp dụng một cách khôn khéo chiến lược “chia để trị” trong chính trị quốc tế vào phương diện tài chính, và thủ đoạn “dùng tiền trị tiền” này quả thực rất đỗi cao tay. Cuối cùng, Bismarck nhận được khoản tài trợ chiến tranh với mức lãi suất 4,5%, còn gia tộc Rothschild đút túi khoản phí đại diện tài trợ khá hậu hĩnh.
Ngày 18 tháng 4 năm 1864, Phổ đã giành chiến thắng quyết định. Tuy nhiên, chi phí chiến tranh cũng gây ra khủng hoảng nghiêm trọng. Hè năm 1864, Bismarck cảm thấy đau đầu bởi khả năng thanh khoản hết sức khó khăn do Chiến tranh Pudan gây ra. Chi phí cho chiến tranh tổng cộng là 22,5 triệu taylor, thặng dư tài chính trị giá 5,3 triệu taylor cùng 17 triệu taylor vốn huy động từ chính phủ Phổ đã cạn kiệt.17
17 Fritz Stern, Gold and Iron: Bismarck, Bleichroder, and the Building of the German Empire.
Thông qua cuộc chiến, cuối cùng Bismarck đã ý thức được tầm quan trọng của tiền bạc, đặc biệt là ở những thời điểm then chốt, các chính trị gia thường chịu ép buộc phải thực hiện những thỏa hiệp quan trọng với các chủ ngân hàng. Chiến tranh Pudan xảy ra cùng thời điểm với cuộc Nội chiến Mỹ. Trong những bình luận về cuộc chiến và vụ ám sát Lincoln, Bismarck từng nói: “Không còn nghi ngờ gì nữa, việc chia tách Mỹ thành hai liên bang với thực lực tương đối yếu ở miền Bắc và miền Nam sớm đã được các cường quốc tài chính châu Âu giải quyết trước khi cuộc nội chiến này bùng nổ... Quốc hội cho phép ông Lincoln vay bằng cách bán trái phiếu chính phủ cho người dân, như vậy chính phủ và đất nước có thể nhảy ra khỏi cái bẫy của các nhà tài chính nước ngoài. Và khi các ngân hàng quốc tế hiểu rằng Mỹ sắp thoát khỏi quyền kiểm soát của mình thì đương nhiên, cái chết của Lincoln không còn xa nữa. Cái chết của Lincoln là một mất mát rất lớn đối với thế giới Cơ-đốc giáo. Có thể sẽ chẳng có ai ở Mỹ có thể đi theo những dấu chân vĩ đại của ông ấy, và các chủ ngân hàng sẽ lấy lại quyền kiểm soát giới nhà giàu. Tôi lo lắng rằng các chủ ngân hàng nước ngoài cuối cùng sẽ giành được sự giàu có của Mỹ bằng những thủ đoạn cao siêu và tàn nhẫn, rồi sau đó sử dụng nó để ăn mòn một cách có hệ thống nền văn minh hiện đại.”
Câu nói của Bismarck có lẽ được thốt ra từ tình cảm của ông.
Cuộc chiến Pudan là chiến thắng lớn đầu tiên của Bismarck, một mũi tên trúng nhiều mục đích. Thứ nhất là lợi dụng đối thủ Áo để đạt được các mục tiêu chiến lược của riêng mình, thứ hai là ly gián mối quan hệ giữa Áo và các đồng minh, và thứ ba là đè bẹp sự chống đối của phe tự do trong nước.
NGHỊ VIỆN THEO PHÁI TỰ DO: TRỞ NGẠI TRÊN CON ĐƯỜNG THỐNG NHẤT NƯỚC ĐỨC
Năm 1815, chiến tranh Napoléon kết thúc. Sau sự sụp đổ của Đế chế La Mã thần thánh, nhiều quốc gia đã thành lập nên một Liên bang Đức có tổ chức lỏng lẻo do Áo lãnh đạo. Vinh quang Napoléon dần tàn lụi, ảnh hưởng của Pháp với Đức ngày càng suy yếu, chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy và phong trào thống nhất nước Đức ngày càng mạnh mẽ. Kể từ cuộc Cách mạng châu Âu năm 1848, sự thống nhất nước Đức đã hình thành hai luồng tư tưởng: hoặc là thành lập Đế quốc Đức vĩ đại gồm tất cả các dân tộc German, bao gồm cả đế quốc đa sắc tộc Áo; hoặc là thành lập một nước Đức nhỏ với Áo là cốt lõi. Cân nhắc từ tình hình thực tế, Bismarck quyết định đi theo con đường hướng đến một nước Đức nhỏ.
Sau khi Chiến tranh Pudan kết thúc, Áo trở thành trở ngại chính cho tham vọng của Bismarck nhằm thống nhất nước Đức. Để đạt được mục tiêu này, Bismarck vẫn áp dụng chiến lược sử dụng chiến tranh với nước ngoài để tìm kiếm sự đồng thuận trong nước, buộc Quốc hội phải trao quyền và củng cố vị thế của mình trong nước Phổ. Người xưa có câu “Thượng binh phạt giao”18. Bismarck nhận ra cơ hội khi Ý phản kháng lại ách cai trị của Áo và ông thiết lập một liên minh chiến lược với Ý. Đồng thời, lợi ích đáng kể từ các mỏ than ở khu vực Saar đã khiến Pháp mê mẩn, buộc Napoléon III phải giữ thế trung lập.
18 Trước khi động binh thì phải trừng phạt bằng ngoại giao.
Bismarck cũng lợi dụng tranh chấp Nga-Áo ở vùng Balkan để tìm kiếm tiếng nói chung với Nga. Còn Vương quốc Anh tỏ ra không mấy nhạy cảm với các xu hướng tiềm năng của cán cân quyền lực ở châu Âu. Mặc dù Vương quốc Anh không muốn thấy nước Đức hoàn tất tiến trình thống nhất. Xét từ tình hình thực tế, Áo có vẻ có nhiều cơ hội chiến thắng hơn. Đó là chưa kể, Anh vẫn còn tư tưởng muốn khắc chế nước Pháp từ thời Napoléon tới giờ. Thế nên Bismarck tin rằng Anh dù không hài lòng với cuộc chiến Phổ-Áo, nhưng họ sẽ không quyết liệt phản đối. Sau những động thái tích cực của Bismarck, đến mùa hè năm 1864, Phổ có nhiều bạn và ít kẻ thù hơn Áo.
Tại thời điểm này, điều đáng lo ngại nhất đối với Bismarck vẫn là vấn đề tiền bạc.
Cuộc chiến Pudan đã gây ra những vết thương nặng về mặt tài chính cho Phổ. Thặng dư tài chính suốt bao nhiêu năm đã bị xóa sổ vì ngọn lửa chiến tranh. Khả năng tiêu ngốn tiền bạc khủng khiếp của chiến tranh đã mang lại cho Bismarck những cảm giác trực tiếp nhất.
Trong chiến tranh, yếu tố thực tế nhất chính là tiền bạc!
Từ 1864 đến 1866, Bismarck cố gắng hết sức để làm hai việc: dốc sức kiếm từng xu nhằm giúp Phổ chuẩn bị chiến tranh, và làm mọi cách có thể để ngăn Áo huy động vốn trên thị trường tài chính châu Âu nhằm phục vụ chiến tranh. Chiến lược của Bismarck là đẩy đối thủ vào tình thế tuyệt vọng về tài chính và uy hiếp bằng chiến tranh để khiến sức mạnh của Áo đi xuống. Tình hình tài chính của Áo tồi tệ hơn Phổ, ngân sách đang dần cạn kiệt và đứng trên bờ vực phá sản khi phải dốc sức đàn áp các cuộc bạo loạn của chủ nghĩa dân tộc ở Balkan và các khu vực khác. Hai bên đều không muốn công khai tình trạng khủng hoảng tài chính, họ bí mật gây quỹ ở hậu trường nhằm chuẩn bị cho một cuộc chiến lớn. Như bao lần khác, điều khó chịu nhất đối với Bismarck là Quốc hội vẫn từ chối các dự toán ngân sách của ông và tuyên bố rằng, Chính phủ không có quyền sử dụng ngân quỹ mà không có sự chấp thuận của Quốc hội, nếu không các bộ trưởng Chính phủ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc này. Bismarck đã phản ứng gay gắt. Ông đánh giá phe đối lập nghị viện đang theo đuổi chính sách đối ngoại cản trở nhà vua, và khách quan mà nói thì điều đó chẳng khác gì hành động của những “kẻ bán nước”. Bismarck biết rằng nhiều người thuộc phe tự do của nghị viện cũng rất hân hoan với chiến thắng của Phổ trong Chiến tranh Pudan. Những cáo buộc phản quốc của ông nhằm làm tổn thương lòng tự trọng của những người này, khiến họ phải thay đổi ý kiến. Những nhân vật cuồng tín trong phe tự do của nghị viện cũng chẳng phải tay vừa, có người đã chỉ trích Bismarck lừa gạt nghị viện và quốc vương. Bismarck hay tin thì nổi trận lôi đình, lập tức đưa ra yêu cầu quyết đấu. Giới chính trị Berlin rung chuyển. Cần phải biết rằng màn quyết đấu là sự pha trộn giữa lòng can đảm và sự liều lĩnh. Một khi trận chiến bắt đầu thì sẽ không thể rút lui. Xác suất không chết thì bị thương là rất cao. Đường đường là thủ tướng Phổ mà lại không may vong mạng trong một màn quyết đấu thì tình hình châu Âu sẽ thay đổi đột ngột. Bismarck vốn là một người nóng nảy, dữ dội. Khi còn học đại học, ông đã từng giao đấu với 27 người, và lòng can đảm của ông thật đáng kinh ngạc. Breslauer và những người khác vội vàng can ngăn họ, ngay cả Rothschild ở tận Paris, cũng lo ngại trước tình hình này. Cuối cùng, màn quyết đấu đã bị ngăn cản, và nỗi lo của Bismarck về khoản ngân sách dành cho chính phủ bị Quốc hội từ chối ngày một nhiều hơn.
Bismarck quá khao khát tiền bạc, nếu không có tiền bạc thì lý tưởng của ông chỉ là một giấc mơ, và cuối cùng giấc mơ đó sẽ phai màu và tan thành ảo mộng.
TƯ NHÂN HÓA ĐƯỜNG SẮT KOLN-MINDEN: NGUỒN GỐC CỦA CUỘC CHIẾN PHỔ-ÁO
Chiến tranh hay hòa bình còn phụ thuộc vào phương hướng lưu chuyển của dòng tín dụng. Đến năm 1865, khoản kinh phí chiến tranh mà bấy lâu Bismarck mong chờ cuối cùng cũng đến. Đó chính là việc tư nhân hóa đường sắt Köln-Minden.
Tuyến đường sắt Köln-Minden là một trong những tuyến đầu tiên do Phổ xây dựng. Nó được thiết kế năm 1833 và hoàn thành năm 1859, trở thành điểm nhấn nổi bật nhất của hệ thống đường sắt Phổ. Ban đầu, dự án mở ra nhằm mục đích vận chuyển than từ khu vực Ruhr đến cơ sở sản xuất công nghiệp với chi phí thấp. Gia tộc Breslauer đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho tuyến đường Köln-Minden, không những rót vốn đầu mà còn tham gia điều hành công ty đường sắt này. Xét thấy hệ thống giao thông đường sắt có thể vận chuyển số lượng lớn binh lính và vật tư quân sự với chi phí thấp, việc quốc hữu hóa công ty đường sắt là hướng phát triển mang lại hiệu quả cho cuộc chiến trong tương lai.
Trên thực tế, Đường sắt Köln-Minden là cơ sở hạ tầng công cộng lớn do chính phủ Phổ quản lý ngay từ đầu. Chính phủ Phổ thu mua trực tiếp 1/7 số cổ phiếu và dùng 14 triệu taylor để đảm bảo rằng cổ phiếu đó sẽ được phát hành với lợi tức đạt mức 3,5%. Đổi lại, chính phủ có thể mua cổ phiếu hiện hành của công ty trong nhiều đợt, cuối cùng trở thành cổ đông duy nhất của tuyến đường sắt này, hoàn thành việc quốc hữu hóa theo hình thức tịnh tiến. Năm 1854, dưới ảnh hưởng của trào lưu kinh tế thị trường tự do, chính phủ Phổ đình chỉ quá trình quốc hữu đó, đợi đến năm 1870 xem tình hình phát triển ra sao rồi mới quyết định có nên tiếp tục hay không. Tuy nhiên, sự bảo đảm của chính phủ đối với lợi tức của tuyến đường sắt này vẫn còn hiệu lực, khoản tiền đảm bảo 14 triệu taylor bị khóa trong một tài khoản đặc biệt và không thể sử dụng.
Bismarck cần khoảng 60 triệu taylor cho công tác chuẩn bị chiến tranh với Áo và gia tộc Breslauer gánh trên vai trách nhiệm huy động khoản chi phí khổng lồ này. Ngay từ tháng 12 năm 1862, sau khi tính toán cẩn thận và cân nhắc nhiều lần, gia tộc Breslauer đã đề xuất một phương án gây rất nhiều tranh cãi – tư nhân hóa tuyến đường sắt Cologne-Minden. Phần cốt lõi của kế hoạch này là, nếu chính phủ phải bỏ ra một khoản vốn đầu tư cực lớn vào năm 1870 để mua lại cổ phần của công ty đường sắt, sẽ gây ra gánh nặng đối với chính phủ, chẳng thà từ bỏ việc quốc hữu hóa để ngay lập tức nhận khoản tiền bồi thường của công ty đường sắt, đồng thời cũng trút bỏ gánh nặng bảo đảm mức lợi tức của trái phiếu, có thể lập tức kích hoạt một phần khoản tiền 14 triệu taylor. Nhiều người kịch liệt phản đối khi chương trình này được công bố. Họ nghĩ rằng đề án của Breslauer thực chất là một âm mưu nhằm mang lại một khoản lợi nhuận khổng lồ cho các cổ đông của công ty đường sắt, bao gồm cả gia tộc Breslauer, và hệ quả là chính phủ phải chịu tổn thất lâu dài. Theo đó, tổng cộng các loại quyền lợi mà chính phủ Phổ phải chịu tổn thất lên tới 30 triệu taylor, đổi lại chỉ có 10 triệu taylor tiền bồi thường và 14 triệu taylor tiền bảo đảm lợi tức (lúc này sẽ được dùng tới). Trong khi, tuyến đường sắt Köln-Minden là một dự án đầu tư rất có lợi của chính phủ, và việc tư nhân hóa trong ngắn hạn có thể cung cấp một khoản quỹ khẩn cấp cho chính phủ. Nhưng vấn đề là chính phủ phải bán một tài sản tốt với mức giá chưa bằng một nửa giá trị thực và cũng mất đi quyền hưởng lợi dài hạn trong tương lai. Đối với chính phủ mà nói, xét từ góc độ nào phương án này cũng không phải là một thương vụ ổn thỏa.
Đến năm 1865, tình hình bất chợt có sự chuyển biến mang tính bước ngoặt. Tham vọng thống nhất nước Đức của Bismarck đã lấn át tất cả mọi thứ. Để chuẩn bị phát động cuộc chiến chống lại một gã khổng lồ như Áo, thì không thể cân nhắc quá nhiều đến những cái giá phải trả khác. Đây chính là lý do tại sao các ngân hàng quốc tế rất yêu thích chiến tranh, bởi khi rơi vào tình trạng bất đắc dĩ thì các chính phủ buộc phải bán những khối tài sản chất lượng cao với giá thấp bất thường. Đó mới là cơ hội tốt để phát tài. Khi thế lực của các ngân hàng quốc tế đạt đến một mức độ nhất định, họ sẽ kích thích cảm xúc của chủ nghĩa dân tộc, kích động các lực lượng đối lập, thúc đẩy chính phủ đầu tư với quy mô lớn vào quân sự, kích hoạt những mâu thuẫn tiềm tàng, châm mồi cho các cuộc chiến tranh, và sau đó đường hoàng xuất đầu lộ diện để xử lý những khoản bồi thường chiến tranh. Chỉ cần có những nguồn tiền lớn liên tục chảy qua tay, thì các ngân hàng quốc tế sẽ luôn nhận được các khoản phí dịch vụ khổng lồ. Ở đâu có sự lưu thông vốn và tín dụng thì ở đó sẽ luôn có bóng dáng của các ngân hàng đầu tư.
Một thương vụ lớn như vậy thì Breslauer không thể xử lý một mình, anh ta lôi kéo thêm gia tộc Oppenheimer ở Köln, và tất nhiên có cả ông chủ của mình là gia tộc Rothschild, để cùng với các gia tộc ngân hàng quốc tế lớn khác ở châu Âu nuốt gọn miếng bánh khổng lồ này. Ngày 18 tháng 7 năm 1865, chính phủ Phổ chính thức ký hợp đồng với công ty đường sắt Köln-Minden. Kết quả là chính phủ từ bỏ việc quốc hữu hóa đường sắt và nhận khoản bồi thường 13 triệu taylor, trong đó khoản thanh toán đầu tiên là 3 triệu taylor tiền mặt ngày 1 tháng 10 năm 1865, khoản thanh toán thứ hai là 2,705 triệu taylor tiền mặt ngày 2 tháng 1 năm 1866 và phần còn lại được bù đắp bằng việc phát hành cổ phiếu mới của công ty đường sắt. Để khen thưởng công lao của Breslauer, Bismarck đã ủy thác cho Breslauer thực hiện các giao dịch có liên quan đến các hiệp ước giữa Phổ và Áo. Phí quản lý chuyển giao khoản tiền trị giá 2,5 triệu taylor là 1% và nghiễm nhiên hai gia tộc Breslauer và Rothschild ở Áo đút túi khoản tiền này.
Trong trường hợp không có nguồn tài chính, Bismarck cũng chuẩn bị sẵn một phương án khác là giải pháp ngoại giao. Các cuộc đàm phán diễn ra trong một thời gian dài. Khi Bismarck chắc chắn hợp đồng giữa chính phủ và công ty đường sắt sẽ chính thức được ký kết, ông ngay lập tức có thái độ cứng rắn với Áo. Trong ngày ký kết hợp đồng, Bismarck đã gửi điện tín cho Thái tử nước Phổ: “Tại cuộc họp Regensburg, đức vua đã hạ quyết tâm khởi động quá trình chuẩn bị chiến tranh, những nguồn tài chính phục vụ chiến tranh trong một năm cũng đã huy động đủ, với hạn mức lên tới 60 triệu taylor.” Một tuần sau, Roon – Bộ trưởng Bộ Chiến tranh của Bismarck, đã nói trong lá thư gửi cho một người bạn rằng: “Chúng tôi có đủ tiền bạc để mang lại tự do hơn nữa cho chính mình trên phương diện ngoại giao. Nếu cần thiết thì chúng tôi có thể động viên toàn bộ lực lượng quân sự để tiến hành một cuộc chiến toàn diện. Vị thế của chúng tôi đã trở nên vững chắc hơn và chúng tôi có thể buộc Áo phải chấp nhận các yêu cầu hợp lý của chúng tôi để cả hai bên có thể tránh được các cuộc chiến không cần thiết. Vậy nguồn tiền đến từ đâu? Vấn đề này đã được giải quyết thông qua cuộc tái thỏa thuận liên quan đến tuyến đường sắt Köln-Minden mà không vi phạm luật.”19
19 Roon, Denkwürdigkeiten, 354-355.
Phía Áo nhanh chóng nhận ra rằng thương vụ tuyến đường sắt Köln-Minden là để Phổ nhanh chóng phát động chiến tranh, trong khi Áo vẫn chưa sắp xếp ổn thỏa, do đó trong quá trình đàm phán, lập trường ngoại giao của họ trở nên mềm mỏng hơn. Cùng lúc đó, khi sự phấn khích ban đầu nguội dần, Bismarck cũng thấy việc huy động tài chính từ tuyến đường sắt Köln-Minden phải mất một khoảng thời gian dài nữa mới thực sự ổn thỏa, lời phản hồi của Breslauer và các ngân hàng quốc tế cho thấy tình hình không mấy lạc quan. Việc chuyển 9 triệu taylor quyền sở hữu nợ giữa gia tộc Rothschild và công ty đường sắt Köln-Minden bị đình trệ do không đạt được thỏa thuận về giá. Nguồn vốn cho chiến tranh trở nên nan giải hơn, chẳng khác nào một thanh kiếm treo trên đỉnh đầu. Bismarck lại giận dữ và nóng nảy. Điều mà ông muốn biết nhất lúc này là khi nào thì tiền mới sẵn sàng.
Lúc này, quyết tâm phát động cuộc chiến của Bismarck bắt đầu dao động, và ông buộc phải xem xét nghiêm túc khả năng của một giải pháp ngoại giao.
Ngày 10 tháng 8 năm 1865, Bismarck tiết lộ sự dao động của chính mình: “Chúng ta vẫn cần thời gian để huy động tài chính và giữ Pháp ở vị thế trung lập... Trong thời gian này, chúng ta có thể bảo toàn danh dự của mình, đồng thời duy trì sự lựa chọn chiến tranh.” Phán đoán của Bismarck cũng ảnh hưởng đến những quyết sách đầu tư riêng của ông, và ông đã nhờ người chuyển lời đến Breslauer: “Nếu trong tài khoản đầu tư của tôi có một khoản đầu tư trái phiếu thì hiện giờ tôi không thể biết được, anh ta không nên bán những cổ phiếu (cổ phiếu đường sắt Köln-Minden) này quá sớm chỉ vì lo ngại chiến tranh.”20 Nếu dùng tiêu chuẩn của ngày nay để đánh giá, thì hành vi của Bismarck bị coi là sử dụng thông tin nội bộ để đầu tư và thu lợi bất chính.
20 Rohl, “Kriegsgefahr”, 102.
Trong tình trạng căng thẳng, Phổ và Áo đã đạt được thỏa thuận Gastein, quy định rằng Phổ quản lý Schleswig, Áo quản lý Holstein và hai bên tiếp tục chia sẻ chủ quyền. Tuy nhiên, cả Phổ và Áo đều biết rõ thỏa thuận này chỉ là một kế hoãn binh và hai bên đang chờ đợi bước đột phá lớn trong việc giải quyết vấn đề kinh phí chiến tranh.
TẠI SAO CHIẾN TRANH PHỔ-ÁO LẠI ĐỘT NGỘT DỪNG LẠI?
Tháng 2 năm 1866, những nỗ lực huy động vốn của Breslauer nhằm thu mua cổ phần của tuyến đường sắt Köln-Minden trên thị trường châu Âu vấp phải phản ứng kịch liệt của các ngân hàng quốc tế do gia tộc Rothschild dẫn đầu. Mọi người đều nghĩ rằng nguồn vốn để mua cổ phiếu sẽ được Phổ sử dụng cho chiến tranh, trong khi hòa bình lại là “lý tưởng chung” của các ngân hàng quốc tế. Vào trung tuần tháng 2, trong một lá thư bí mật gửi cho gia tộc Rothschild, Breslauer đã đề cập rằng có lẽ chính phủ đang xem xét đến việc bán mỏ than Saar. Trên thị trường đồn đại rằng có thể Rothschild và Oppenheimer chính là người mua. Rõ ràng, hành động ngăn chặn triệt để việc bán cổ phần công ty đường sắt Köln-Minden và hy vọng mỏ than Saar sẽ đổi chủ có nghĩa là các ngân hàng quốc tế đã nhận ra lợi ích tiềm năng của mỏ than là lớn hơn. Nếu như để Bismarck huy động được đủ tiền thông qua việc chuyển nhượng cổ phần đường sắt thì chính phủ Phổ sẽ không cần phải bán mỏ Saar nữa.
Vấn đề tiền bạc vẫn chưa có tiến triển trong khi đó việc chuẩn bị chiến tranh ngày càng gấp rút hơn. Ngày 28 tháng 3 năm 1866, quân đội Phổ tiến hành chuẩn bị chiến tranh trên quy mô lớn. Trước tình cảnh khan hiếm người mua, Bộ Tài chính Phổ bắt đầu rao bán công khai cổ phiếu tuyến đường sắt Köln-Minden trên thị trường. Tuy nhiên, dưới bóng đen chiến tranh đang bao phủ, còn thị trường vẫn hết sức ảm đạm, thì việc rao bán trên quy mô lớn có thể dẫn đến tổn thất tài sản nghiêm trọng. Ngày 8 tháng 4, Phổ tuyên bố liên minh quân sự với Ý, thị trường chứng khoán lao dốc khủng khiếp. Lúc này, Rothschild chỉ thị cho Breslauer là khi nào chiến tranh khai màn, thì lập tức bán ra tất cả trái phiếu của gia tộc Rothschild ở Berlin. Nhưng Breslauer đã bán một số lượng lớn trái phiếu gia tộc Rothschild từ trước, kết quả là gia tộc Rothschild rất tức giận. Họ cho rằng trước khi thực nhận bất cứ khoản vốn nào, thì Bismarck sẽ tuyệt đối không vội vàng phát động chiến tranh, vì vậy việc liên minh với Ý không có nghĩa là cuộc chiến sắp bắt đầu.
Breslauer rõ ràng đã phạm một sai lầm lớn vì sự sốt sắng của mình.
Rothschild nói trong thư rằng: “Không có bằng chứng nào cho thấy anh đang bảo vệ lợi ích của gia tộc chúng tôi, chúng tôi muốn nghe anh giải thích việc bán trái phiếu của chúng tôi. Chúng tôi đã gửi cho anh một bức điện tín vào buổi sáng, trong đó nói rằng chúng tôi không chấp nhận hành vi bán (trái phiếu) của anh.” Ngày 18 tháng 4, Breslauer vội vã gửi điện để giải thích rằng gần đây, mối quan hệ với Áo đã hòa hoãn hơn, nên việc bán trái phiếu đã hoàn toàn chấm dứt.
Tháng 5 năm 1866, Phổ bắt đầu tổng động viên quân sự. Chi phí đảm bảo trạng thái sẵn sàng tham chiến cho cả chín quân đoàn là 24 triệu taylor, với số tiền tăng thêm 6 triệu taylor mỗi tháng.21Đến ngày 18 tháng 5, trong tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng, chính phủ Phổ buộc phải tuyên bố thành lập một cơ quan tín dụng công cộng và cung cấp khoản tín dụng trị giá 25 triệu taylor mà không cần thế chấp, đồng thời, bãi bỏ tất cả các pháp lệnh hạn chế lãi suất cao, và cố gắng thu hút vốn tư nhân cho tín dụng. Kể cả như vậy, tình trạng căng thẳng tín dụng vẫn không nguôi ngoai, Bộ trưởng Bộ Tài chính lo lắng không còn đủ tiền để phát động chiến tranh, thậm chí các chi phí cho hai tháng sau đó vẫn chưa có gì là chắc chắn.22
21 Michael Sturmer, Gabriele Teichmann and Wilbelm Treue, Striking the Balance—Sal. Oppenheim jr. & Cie. A Family and a Bank, 1994, 171.
22 Michael Sturmer, Gabriele Teichmann and Wilbelm Treue, Striking the Balance—Sal. Oppenheim jr. & Cie. A Family and a Bank, 1994.
Vào thời khắc cuối cùng trước khi chiến tranh bùng nổ, chương trình đường sắt Cologne-Minden của Breslauer đã đóng vai trò quyết định. Sau bao nỗ lực huy động vốn nhưng đều thất bại, Bộ Tài chính Phổ đã quyết định ủy thác cho Breslauer và Hansman thành lập một tập đoàn ngân hàng để thu mua cổ phần đường sắt. Định giá thu mua cổ phần là 110 taylor/cổ phiếu và mức giá giao dịch trên thị trường là 117 taylor/cổ phiếu. Những chủ ngân hàng khác đều cố gắng lợi dụng tình huống khó xử của chính phủ trong vấn đề tài chính để ép giá xuống còn 105 taylor. Chính phủ không thể chấp nhận một mức giá thấp như vậy nên đã quyết định bán theo lô. Nếu chiến sự thuận lợi thì giá cổ phiếu sẽ tăng vọt. Nhưng đây cũng là một nước cờ nguy hiểm. Nếu không thuận lợi, chính phủ sẽ phải đối mặt với áp lực cạn kiệt nguồn vốn và sụp đổ giá cổ phiếu. Tuy nhiên, Bismarck quyết tâm chấp nhận rủi ro!
Do chính phủ đã từ bỏ việc quốc hữu hóa và gỡ bỏ pháp lệnh bảo lãnh lãi suất cho vay, nên họ nhận được khoản bảo lãnh 14 triệu taylor vốn bị khóa chặt trước đó. Ngoại trừ khoản tiền rao bán cổ phần tuyến đường sắt Köln-Minden để tổng động viên quân sự, thì đây là số tiền đủ để duy trì cuộc chiến trong bảy tuần tới. Vào thời điểm quân đội của Bismarck tiến sát thành Vienna, số tiền chỉ còn lại vỏn vẹn 3 triệu Taylor, và đại quân của Áo vẫn còn 180.000 binh sĩ trấn thủ tại Vienna. Nếu không thể buộc Áo đầu hàng trong vòng hai tuần, Bismarck sẽ trở thành chính trị gia đáng chê trách nhất trong lịch sử.
Sự kết thúc đột ngột của Chiến tranh Phổ-Áo đã giúp Bismarck toàn thắng trong canh bạc vĩ đại quyết định vận mệnh nước Đức và vận mệnh cá nhân của chính mình!
CHIẾN TRANH PHỔ-PHÁP: ĐẠI PHÁO RỀN VANG, HOÀNG KIM VẠN LƯỢNG
Người thua cuộc bất lực nhất trong Chiến tranh Phổ-Áo không ai khác chính là Napoléon III của Pháp, ông chỉ biết giương mắt chứng kiến nước Phổ nổi lên nhanh chóng mà chẳng làm được gì. Trước chiến lược lừa gạt của Bismarck, Pháp chẳng những không nhận được bất kỳ khoản “bồi thường trung lập” nào đáng kể, mà còn bị Bismarck chế giễu về vấn đề của Luxembourg. Napoléon III xa cách với Áo là một sai lầm, cũng chẳng khác nào Sở Hoài Vương “dâng 500 dặm đất Thương Vu” để làm mồi nhử, khiến cho nước Sở và nước Tề cắt đứt quan hệ với nhau, Sở Hoài Vương và Napoléon III đều thuộc típ người tham lam, tuy có chí lớn nhưng tài lược thì hạn chế.
Bấy lâu nay Vương quốc Anh vẫn luôn là kẻ gạo cội trong bàn cờ của các nước lớn, nhưng lúc này cũng chưa đưa ra một quyết sách nhạy bén nào để đối phó với viễn cảnh nước Đức sắp thống nhất và trở thành kỳ phùng của Anh. Nước Anh vẫn còn bị dắt mũi trước sự hư trương thanh thế của Napoléon III, đánh giá quá cao sức mạnh Đế chế Thứ hai của Pháp. Pháp xây dựng kênh đào Suez năm 1859, đến năm 1869 đã chính thức thông thuyền. Vương quốc Anh coi đây là mối đe dọa trực tiếp với Trung Đông và Ấn Độ – hai thuộc địa của mình. Nếu tuyến giao thông giữa Anh và Ấn Độ bị phá vỡ thì điều đó chẳng khác gì cắt đứt xương sống của Đế quốc Anh. Đây là điều mà những người theo chủ nghĩa đế quốc ở Anh không thể nhẫn nhịn. Thế là chính phủ Anh với tầm nhìn thiển cận đã quyết định sử dụng Phổ làm đối trọng với Pháp và bật đèn xanh cho sự thống nhất nước Đức. Hay nói cách khác, mối bận tâm của Anh với nước Pháp đã lấn át nỗi lo lắng của việc nước Đức thống nhất.
Còn nước Nga, sau thất bại thảm hại trong Chiến tranh Crimea thì quan hệ giữa họ với Anh và Pháp trở nên lạnh nhạt. Bề ngoài họ giữ thái độ trung lập, nhưng thực tế lại ủng hộ Phổ gây chiến với Pháp để có thể ngư ông đắc lợi, báo thù năm xưa. Vị Sa hoàng trì trệ và khép kín của họ đang mải mê tập trung quạt gió thổi lửa vùng Balkan hòng kiếm chác chút lợi ích vặt vãnh. Họ hoàn toàn không thèm để tâm đến Đức – một liên bang lỏng lẻo gồm hàng chục tiểu quốc mà năm xưa đã liên minh cùng họ đánh Pháp, chính vì lẽ đó, họ đã đặt nền móng cho sự bại vong của chính mình trong tương lai.
Thất bại mới nhất của Áo đã khiến họ gần như phá sản. Mặc dù muốn ủng hộ Pháp báo thù Phổ, nhưng lực bất tòng tâm.
Nếu nói rằng Bismarck là một chiến lược gia vĩ đại, chi bằng hãy coi ông ấy là một nhà mạo hiểm may mắn. Vận may của ông nằm ở sự sơ suất trong chiến lược của các đối thủ và sự trỗi dậy nhanh như chớp mà ngay cả ông cũng không nghĩ tới. Sau khi chiến tranh Phổ-Áo kết thúc, chỉ mình Bismarck biết rõ rằng muốn hoàn thành đại nghiệp thống nhất nước Đức thì buộc phải tìm cách đánh bại Pháp – một đối thủ hùng cường. Cuộc chiến Phổ-Pháp là không thể tránh khỏi.
Ngòi nổ của Chiến tranh Pháp-Phổ là sự kiện được gọi tên “Điện tín Ames”. Đầu tháng 7 năm 1870, một vị hoàng tử gia tộc Phổ – Hohenzollern được bầu làm người thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha. Napoléon III viện lý do là Pháp không thể chấp nhận mối đe dọa từ cả phương Đông và phương Tây, nên ra lệnh cho đại sứ Pháp tại Phổ lên tiếng phản đối. Thời điểm đó, Wilhelm I đang nghỉ ngơi tại suối nước nóng Ames, ông nói với đại sứ Pháp rằng, gia tộc Hohenzollern có thể xem xét từ bỏ quyền thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha. Nhưng Napoléon III vẫn không chịu nhượng bộ, ra lệnh cho đại sứ Pháp tìm đến Wilhelm I, yêu cầu ông đảm bảo bằng văn bản. Wilhelm I hứa sẽ quay lại Berlin để thương lượng vấn đề và gửi một bức điện tín cho Bismarck. Bismarck đã xóa một số nội dung của bức điện tín, biến nó thành thông điệp rằng Wilhelm I từ chối đàm phán với đại sứ Pháp và đăng nó trên báo. Ngày 19 tháng 7 năm 1870, Napoléon III tuyên chiến với nước Phổ với lý do bị xúc phạm.
Nhưng lúc này, Pháp thậm chí không có lấy một đồng minh.
Với tư cách là công thần của cuộc chiến Phổ-Áo, địa vị của Breslauer không còn như xưa, từ một tiểu tốt, giờ đây họ đã trở thành một đối tác bình đẳng của gia tộc Rothschild. Sự tin tưởng của Bismarck dành cho Breslauer vượt quá cả sự kính sợ của ông đối với gia tộc Rothschild, không lâu sau cuộc chiến Phổ-Áo kết thúc. Bismarck kiên quyết chuyển tài sản trong tất cả các tài khoản riêng của mình từ Ngân hàng Rothschild ở Frankfurt sang Ngân hàng Breslauer.
10 ngày trước khi cuộc chiến nổ ra, trong bức mật thư gửi đến Bismarck để dò hỏi về khả năng xảy ra cuộc chiến, Breslauer đã khôn khéo nhắc tới tình hình đầu tư liên quan đến các tài khoản riêng của Bismarck. Ông đã hỏi rằng:
Theo đánh giá cá nhân, tôi không cho rằng những tình huống chính trị nghiêm trọng đã thực sự xuất hiện, vì vậy tôi không rao bán tài sản trong tài khoản của ngài. Nếu phán đoán của tôi là sai, và ngài nghĩ rằng sẽ có nhiều điều chẳng mấy vui vẻ sắp xảy ra, tôi rất mong ngài đưa ra cảnh báo kịp thời.
Quả nhiên, chuyện này liên quan đến sự tổn hại tài sản cá nhân của Bismarck, nên Bismarck không dám bỏ bê. Ngày hôm sau, thư hồi âm đã được gửi đến, nhưng với tên của bà Bismarck:
Anh ấy không nghĩ rằng những người khác sẽ đột nhiên tấn công chúng tôi, vì cuộc bỏ phiếu ở Tây Ban Nha không đáp ứng nguyện vọng của bất cứ ai. Tuy nhiên, anh ấy dự cảm rằng chiến tranh chắc chắn sẽ xảy ra. Vì vậy, việc bán cổ phiếu đường sắt có lẽ là một ý tưởng hay. Dù sao, anh ấy cũng cần tiền ở đây.
Sau khi nhận được hồi âm, Breslauer hiểu rằng cuộc chiến sắp bắt đầu. Ngày hôm sau, ông gửi thông tin cực kỳ có giá trị này đến Rothschild ở Paris: “Giá cổ phiếu sẽ nhanh chóng tụt giảm.” Đồng thời, ông chỉ thị cho đội ngũ nhân viên ở châu Âu rao bán tất cả tài sản của mình, thậm chí là chấp nhận lỗ vốn. Breslauer không thể để tâm quá nhiều vào lúc này.
Cuộc chiến Phổ-Áo cũng đặt dấu chấm hết cho cuộc khủng hoảng hiến pháp của Phổ, chính phủ của Bismarck đã đạt được tự do tài chính đáng kể. Ngày 21 tháng 7 năm 1870, Hội đồng Liên minh Bắc Đức do Phổ lãnh đạo đã phê chuẩn gói tín dụng chiến tranh trị giá 120 triệu taylor.
Trong những ngày đầu của cuộc chiến, thị trường chứng khoán Berlin rơi vào trạng thái hoảng loạn, các cổ phiếu chất lượng cao như đường sắt Köln-Minden cũng lao dốc gần 30%. Chính phủ Phổ rao bán khẩn cấp 100 triệu taylor trái phiếu chiến tranh đợt đầu, thử thoát khỏi các kênh bảo lãnh vốn bị lũng đoạn bởi các chủ ngân hàng và trực tiếp bán chúng ra thị trường, với điều kiện lãi suất 5% và chiết khấu 12%. Các chủ ngân hàng đề xuất chiết khấu 15%, nhưng Chính phủ đã từ chối.
Oppenheimer nhấn mạnh trong lá thư gửi Breslauer rằng: “Đây là một điều kiện nực cười trong tình hình thị trường hiện tại.” Việc rao bán trái phiếu đã thất bại thảm hại và chỉ bán được 60 triệu taylor. Gốc rễ của vấn đề là nếu chính phủ rao bán trực tiếp thì các ngân hàng sẽ không thể kiếm được khoản phí bảo lãnh, do đó họ đã áp dụng hành vi chống đối tập thể. Điều này đã một lần nữa chứng minh uy lực của câu nói “ai nắm được các kênh dẫn vốn thì kẻ đó là vua” trên thị trường tài chính.23
23 Ibid.
Ngày 1 tháng 9 năm 1870, trận chiến Sedan giữa quân đội hai nước Phổ-Pháp nổ ra, kết quả là quân Pháp lại một lần nữa thảm bại. Hôm sau, Napoléon III đã dẫn 100.000 quân Pháp ra đầu hàng. Đến ngày 4 tháng 9, các công nhân Paris tổ chức một cuộc vũ trang nổi dậy và lật đổ sự cai trị của Napoléon III.
Sau trận chiến Sedan, có tới gần 300.000 tù binh Pháp bị Phổ giam cầm. Breslauer nhận thức sâu sắc rằng đây là một cơ hội tuyệt vời để kiếm tiền, ông chủ động đứng ra nhận “trách nhiệm” thay mặt các các tù binh chiến tranh thanh toán chi phí sinh hoạt mỗi tháng cho Phổ. Đối với ông đây chính là một thương vụ làm ăn “thu lãi không lỗ”, bất kể ai đại diện cho chính phủ Pháp trong tương lai, họ đều phải trả tiền gốc và lãi cho khoản vay thanh toán chiến phí này. Breslauer không sợ người Pháp chây ì trả nợ, bởi nếu quân đội Phổ không nhận được tiền bồi thường chiến tranh thì họ chắc chắn sẽ không rời khỏi đất Pháp. Trong khi đó quân đội Pháp đã hoàn toàn sụp đổ, và hoàn toàn không có khả năng khôi phục trong thời gian ngắn.
Khi chiến tranh đến gần và bùng nổ, việc liên lạc thư tín hằng ngày của Breslauer và Rothschild ở Paris ngày càng khó khăn hơn. Sau đó, việc liên hệ trực tiếp giữa Berlin và Paris buộc phải chuyển qua Brussels và Amsterdam. Breslauer thường xuyên báo cáo về tình hình thị trường Berlin. Trước khi xảy ra trận chiến Sedan, Breslauer thông báo khẩn cấp cho Rothschild, yêu cầu họ rao bán cổ phần tuyến đường sắt Köln-Minden càng sớm càng tốt. Breslauer cũng thay mặt gia tộc Rothschild rao bán 1.250 cổ phiếu đường sắt với giá 128 taylor/cổ phiếu, vào tháng 7 thì mức giá là 95,72 taylor.
Sau ngày 15 tháng 9, liên lạc giữa hai bên bị gián đoạn, Paris bị vây chặt vào ngày 20 tháng 9 và Rothschild mắc kẹt ở Paris. Mãi đến tháng 2 năm 1871 mới kết nối lại. Trong quãng thời gian này, gia tộc Rothschild ở Paris chỉ có thể thỉnh thoảng gửi tin đi bằng khinh khí cầu. Ngày 5 tháng 10, quân đội Phổ trưng dụng trang viên Ferriere’s Manor của gia tộc Rothschild làm sở chỉ huy của Wilhelm I, Bismarck và Thống chế Phổ. “Cuộc họp Ferrie” nổi tiếng tổ chức tại đây, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp đã cố gắng thuyết phục Bismarck ký kết hiệp ước hòa bình nhưng không có kết quả.
Cuối tháng 10 năm 1870, rút kinh nghiệm từ bài học trước, chính phủ Phổ chỉ định Hansman thành lập một tổ chức bảo lãnh phát hành tại London và Berlin để rao bán trái phiếu chiến tranh đợt hai trị giá 20 triệu taylor. Tình hình chiến sự khả quan của quân đội Phổ, khiến giá trái phiếu ngày một tăng lên, Chính phủ sẽ có thể sớm gỡ bỏ một số khoản tín dụng thế chấp. Cuối cùng, lãi suất khối nợ quốc gia dành cho chiến tranh được định mức 5% và thời gian đáo hạn là 5 năm. Những khoản tiền tài trợ chiến tranh khổng lồ liên tục chảy đến đại quân Phổ ở mặt trận Pháp. Ngày 30 tháng 11, một lần nữa, các chủ ngân hàng đã tiếp tục nỗ lực để để huy động thành công 34 triệu taylor trái phiếu ở Anh với chiết khấu 0,8%, và họ có quyền lựa chọn phát hành thêm 17 triệu taylor nữa. Trong lúc đó, mặc dù người Anh bắt đầu dành sự thương cảm cho nước Pháp đen đủi, nhưng trái phiếu của nước Pháp gần như chẳng thể bán được ở Anh, vậy là trên trận tuyến vô hình mang tên “tài chính”, nước Pháp một lần nữa lại thất bại.
Ngày 18 tháng 1 năm 1871, Vua Wilhelm I của Phổ đã lên ngôi hoàng đế tại Cung điện Versailles, và Đế quốc Đức đã tuyên bố thành lập. Đến ngày 28, các bên tham chiến ký một hiệp định đình chiến, sang ngày 26 tháng 2 thì ký hiệp ước hòa bình sơ bộ.
Tại thời điểm này, khi cuộc chiến tranh Pháp-Phổ kết thúc, tổng chi phí cho cuộc chiến ở Phổ là 22 triệu taylor.
5 TỶ FRANC BỒI THƯỜNG CHIẾN TRANH: “CHIẾC BÁNH LỚN” CỦA CÁC CHỦ NGÂN HÀNG
Khi quân đội Bismarck bắt đầu nghỉ ngơi, cũng là lúc các chủ ngân hàng quốc tế trở nên bận rộn hơn. Khoản phí bồi thường chiến tranh lên tới 5 tỷ franc là một thương vụ lớn mà bất cứ ai cũng thèm muốn. Nếu tính 1% phí giao dịch thì chỉ riêng thương vụ này đã là một chiếc bánh lớn trị giá 50 triệu franc!
Tháng 11 năm 1870, gia tộc Rothschild của Áo đã chủ động đề xuất với Bismarck rằng, họ hân hạnh cung cấp dịch vụ, thay mặt nước Phổ nhận khoản tiền bồi thường chiến tranh mà Pháp sẽ trả trong tương lai. Tất nhiên, Oppenheimer và các gia tộc ngân hàng quốc tế khác cũng đang cạnh tranh để được cung cấp dịch vụ. Bismarck tìm kiếm lời khuyên từ Breslauer. Tất nhiên, một vị quan chức cấp cao như vậy thì ai chẳng muốn dựa dẫm. Breslauer vừa vội vàng vừa sốt sắng đến Versailles ngày 7 tháng 2 năm 1871. Cuối cùng ông nhận được hai thương vụ lớn mà ông muốn nhất, huy động 200 triệu franc tiền bồi thường chiến tranh cho Paris và sắp xếp phối hợp bồi thường chiến tranh trên khắp nước Pháp.
Về số tiền bồi thường chiến tranh, chính phủ Thiers Pháp đã dự tính là 5 tỷ franc, nhưng Bismarck nhanh tay lấy một tờ giấy và viết con số 6 tỷ franc! Thiers nhảy dựng lên. Hai người tranh cãi kịch liệt. Bismarck tức giận trước phản ứng của Pháp. Thêm nữa là phía Anh đột nhiên xen vào, yêu cầu Bismarck phải “biết giữ chừng mực”. Thiers cho rằng, khoản bồi thường chiến tranh quá mức là không công bằng và cũng không thực tế, Pháp không thể lấy đâu ra nhiều tiền như vậy. Bismarck nổi trận lôi đình, quyết không nhượng bộ. Cuối cùng, Thiers đề nghị mời Rothschild xuất đầu lộ diện. Khi Rothschild xuất hiện, Bismarck trút hết sự tức giận của mình lên Rothschild, tất cả những người có mặt đều thấy sốc. Bismarck vẫn không mảy may động lòng, kiên quyết cho rằng 5 tỷ franc là con số bồi thường “có thể tiếp tục”. Sau đó, Breslauer đề cập đến điều này trong một bức thư gửi cho vua Wilhelm II. Wilhelm II cũng rất không hài lòng với hành vi thô lỗ có chủ ý của Bismarck.
Nổi giận thì nổi giận, nhưng địa vị của Rothschild trên thị trường tài chính quốc tế vẫn không thể bàn cãi. Nếu không chấp nhận điều kiện của ông thì đừng nghĩ đến việc huy động đủ tiền bồi thường chiến tranh, quân đội Phổ sẽ phải lưu lại trên đất Pháp vô thời hạn trong không khí tràn ngập sự thù địch. Chi phí mỗi ngày cung ứng cho quân đội tăng lên nhanh chóng. Trong khi đó, sự bất mãn của Phổ và châu Âu với Bismarck cũng nhanh chóng tích tụ. Sau khi cân nhắc lợi - hại, Bismarck đành phải chấp nhận mức bồi thường chiến tranh là 5 tỷ franc. Vậy là việc mà chính phủ Thiers không thể làm được, gia tộc Rothschild vừa xuất đầu lộ diện đã lập tức giải quyết xong.
Ngày 10 tháng 5 năm 1871, Phổ và Pháp chính thức ký Hiệp ước hòa bình Frankfurt. Hiệp ước quy định: Pháp phải trả khoản tiền bồi thường chiến tranh 5 tỷ franc, cắt nhượng toàn bộ vùng Alsace và một phần lớn của vùng Lorraine.
Pháp bắt đầu huy động 2 tỷ franc trái phiếu đợt đầu tiên để bồi thường chiến tranh, với lãi suất 5%. Liên minh bảo lãnh phát hành của Phổ do Breslauer đứng đầu được thành lập và các gia tộc như Oppenheimer và Warburg đã tham gia vào việc phát hành. Kết quả thành công ngoài mong đợi, số lượng đặt mua vượt mức 14 lần. Pháp gom đủ 2 tỷ franc tiền bồi thường chiến tranh trước thời hạn và chuyển trực tiếp khoản tiền đó từ Ngân hàng gia tộc Rothschild sang Ngân hàng Breslauer và Ngân hàng Hansman. Năm 1872, 3 tỷ franc trái phiếu bồi thường chiến tranh đợt thứ hai được đặt mua vượt mức 13 lần, chỉ riêng gia tộc Oppenheimer đã bảo lãnh cho 490 triệu taylor, trong đó chính họ nắm giữ 47 triệu taylor. Quá trình bồi thường diễn ra suôn sẻ. Vào mùa hè năm 1873, Pháp hoàn tất việc thanh toán khoản bồi thường chiến tranh. Quân Phổ bắt đầu rút khỏi lãnh thổ Pháp. Khả năng huy động vốn mạnh mẽ trong thị trường tài chính là điều hoàn toàn không thể tưởng tượng được trong quá khứ. Các khoản bồi thường chiến tranh trong triều đại nhà Thanh thường trực tiếp áp xuống cho người nghèo dưới hình thức sưu thuế, trong khi phương Tây cung cấp cơ hội đầu tư cho người giàu thông qua hình thức đầu tư trái phiếu. Hai quan điểm khác nhau đã tạo ra hiệu ứng hoàn toàn khác nhau.
Trong quá trình này, các ngân hàng quốc tế đóng vai trò kép. Một mặt, họ giải quyết vấn đề, mặt khác họ lại là người tạo ra vấn đề. Họ cung cấp một gói “dịch vụ chiến tranh toàn diện” cho các bên tham chiến, từ việc đưa các công ty vũ khí niêm yết trên sàn chứng khoán, phát hành trái phiếu vũ khí, tài trợ hoạt động, phát hành trái phiếu chiến tranh quốc gia, bồi thường sau chiến tranh, chuyển tiền bồi thường và tài trợ tái thiết quốc gia. Trong chiến tranh, các chính phủ thường bất chấp mọi giá để giành được phần thắng, và đó là cơ hội tốt cho các chủ ngân hàng mua tài sản nhà nước với giá rẻ. Người Trung Quốc có câu tục ngữ thể hiện rất rõ về điều này: “Đại pháo rền vang, hoàng kim vạn lượng!” Bất luận kết quả của cuộc chiến ra sao, các ngân hàng quốc tế của cả đôi bên đều sẽ kiếm bội tiền.
Vẫn chỉ có Napoléon là nhìn thấu được điều này: Tiền bạc thì không có tổ quốc, trong mắt của các chủ ngân hàng thì chỉ có lợi ích mà thôi!