Ông Mùi ôm thằng Gâu ra ngoài hiên nhà, đặt vào .trong chiếc cũi gỗ ngay dưới lồng chim gáy. Ông hơi cúi, mái tóc sợi trắng sợi vàng xơ xác, rủ xuống cả bên má nhằng nhịt sẹo đỏ sẹo tím. Ông đưa những ngón tay trà rào xoa xoa cái đầu lơ thơ mấy sợi tóc vàng của thằng Gâu, nịnh ngọt. “Âu âu! Cái thằng Gâu của ông lại đòi nghe tiếng gù của chim gáy thổ đồng đây mà. Ư, cháu nghe mãi mà không biết chán nhỉ? Giá mà cháu theo ông đi bẫy chim được nhỉ? Cháu sẽ xách theo lồng chim, vui phải biết cơ. Cháu sẽ nghe chim gáy nó gù ngay ngoài đồng Phiêng Cải quê mình. Nghe con chim gáy nó gù cù-cù…, cái gọng thổ đồng kỳ diệu, thì cháu sẽ hình dung ra cảnh làng quê mình tươi đẹp, ấm áp và thanh bình, sướng lắm. Ơ mà, Gâu ơi! Thương cháu quá! Cháu làm sao đi theo ông được chứ? Khốn kiếp cái thằng giặc Mỹ nó thả bao nhiêu là chất độc da cam/dioxin xuống nước ta, những hơn tám mươi triệu lít chất diệt cây cỏ, thả xuống Phước Long, Thừa Thiên, Bình Định, Long Khánh, Tây Ninh, Quảng Nam, Biên Hòa, Bình Dương, Quảng Trị, Kon Tum nữa. Cháu chả biết gì đâu! Cái chất độc dioxin làm chết hết cỏ cây hoa lá, làm hại biết bao nhiêu dân lành, làm hại biết bao nhiêu chú bộ đội, làm hại ông, làm hại bố cháu, làm hại cháu nội của ông, đau lắm. Ông là người lính từng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, từng đánh giặc ở Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, đánh giặc ở Đắk Tô - Tân Cảnh, nên ông bị nhiễm chất độc da cam lúc nào không biết, để bây giờ làm khổ bố con cháu, thì ông không bao giờ quên chuyện đau thương như thế. Gâu nhỉ? Gâu ơi! Những ngày mải miết đánh giặc, bộ đội mình chẳng ai biết có chất độc da cam đâu. Bộ đội ta cứ hành quân, cứ đánh giặc, vẫn ăn, vẫn ngủ như thường. Nào ngờ, sau này bao nhiêu đồng đội của ông cũng bị nhiễm chất độc da cam như ông đây. Đồng đội ông ở khắp đất nước, người nào bị nhiễm chất độc da cam thì gia cảnh đều đau khổ, bi thương lắm. Bao nhiêu đứa con của đồng đội, của dân lành được sinh ra mà chẳng giống con người bình thường, thương lắm. Gâu ơi! Cháu đừng trách ông nhé! Âu âu! Thằng Gâu ngoan, thì ông cho chim gáy nó gù mà nghe nhé. Cù-cù...”. Ông Mùi chúm môi gù mồi cù-cù mấy tiếng, tức thì con chim gáy nghển cao cái cổ cườm xanh biếc, đầu nghênh nghênh, đôi mắt tròn long lanh, chiếc mỏ bé xíu bặp bặp và gù cù-cù..., tiếng gù cặp năm nghe trầm ấm, rền vang như tiếng cồng chiêng. Thằng Gâu nghe tiếng chim gù thân thuộc liền bám hai tay vào thành cũi, đít tẫng lên, ngẩng nhìn lồng chim, miệng a à vẻ sung sướng lắm. Thấy cháu vui, ông Mùi xúc thìa cháo đặc nhứ vào miệng, nịnh: “Cố thìa nữa nào, thìa nữa nào, ông lại bảo chim gáy nó gù cho cháu nghe nhé”. Thằng Gâu dường như hiểu được tình cảm của ông, nó vừa nuốt cháo, vừa gật gật đầu, miệng a à a à liên tục. “Ư, cháu ngoan, ăn no rồi ngủ, đợi bà về cho sang nhà bé Quê chơi, lát nữa ông phải ra đồng bắt vài con chim gáy béo để nấu cháo cho cháu ăn nhé”. Ông Mùi cho thằng Gâu ăn hết lưng bát cháo, rồi đẩy chiếc cũi vào trong nhà. Thằng Gâu ngoan, lắng nghe chim gù cù-cù, ăn no cháo thì ngủ liền. Ông Mùi đến bên ban thờ, đốt bảy nén hương, vái mấy vái, lầm rầm khấn, như mọi lần, cầu may cho việc đánh chim gáy được nhiều. Ông Mùi thấy cháu ngủ, vội ra chái nhà lấy bộ đồ nghề bẫy chim. Ông Mùi chân đất, quần áo nâu, đầu đội mũ lưỡi trai, vai kềnh dềnh hai cánh lưới với chiếc lồng có mấy con chim mồi và lồng không chim. Ông lững thững đi ra cánh đồng Phiêng Cải, không đến bãi đánh chim gáy thường ngày mà chọn khoảnh ruộng khô ráo nằm kề bên vườn đền Ông Bảy có hàng cây dâu cổ thụ xanh rịm. Ông hạ cánh lưới, ngó lên trời cao xanh. Ờ, heo may rồi! Ông nhìn đàn chim di trú giăng hàng bay từ phương Bắc về Nam, cánh chớp nắng giữa bầu trời se lạnh mà nao lòng. Một lúc, ông dùng bàn chân trần giẫm giẫm những gốc rạ cho nằm rạp xuống đất, làm một khoảng trống để đặt lưới bẫy. Ông giẫm đi giẫm lại, giẫm vòng sát bờ ruộng, nghe cộp, hình như chân ông giẫm phải vật gì cứng cứng, bật ngửa ra. Ơ, hòn gạch! Xước cả bàn chân. Ông cúi nhặt hòn gạch định ném vào bờ dâu thì bất chợt nhìn thấy vật gì đen đen vuông vuông như là mảnh gỗ, ông cầm cái mảnh gỗ đen kéo lên, a không phải, là cái hộp gỗ vuông vuông. Gì thế nhỉ? Sao lại có cái hộp gỗ chôn ở đây? Ông lấy bàn tay gạt nhẹ bùn đất bám quanh hộp, thấy có nắp đậy, mỏ khóa gỉ sét. Gì thế nhỉ? Đồ của đền chắc? Ông nhìn nắp khóa, ái ngại, cái gì ở trong hộp thế nhỉ? Thì cứ mở xem thử, đồ của đền thì đem trả, ông đắn đo một lúc, rồi mở nắp hộp. Mắt ông lóa lên. Ơ, là chiếc dây chuyền bạc với mấy đồng bạc trắng. Ông cầm chiếc dây chuyền lên xem, tay run run, dây chuyền bạc đeo đồng bạc nhỏ có hình nổi rõ một đôi chim chập mỏ như đang mớm nhau, ông lật giở đồng bạc, mặt sau có hình âm dương. Giời ơi! Có phải dây chuyền mà cha đã tặng mẹ hồi lấy nhau không? Ngày cha mất, nghe mẹ kể, khi hạ huyệt, thương cha quá, mẹ đã đem hộp kỷ vật tình yêu đặt trên tấm ván thiên, thế là người ta cứ lấp đất xuống, đâu ngờ... Ông Mùi cúi xuống, lấy mấy ngón tay gầy guộc bới bới, chỉ một chút, dưới lớp đất phù sa đỏ tươi hé lộ tấm gỗ, là tấm ván thiên, ôi giời, có lẽ nào cha vẫn nằm đây suốt mấy chục năm? Ông Mùi cúi gập người, hít hít cái mùi bùn đất phù sa ngai ngái nồng thơm từng bao bọc cha suốt mấy chục năm trời, nước mắt ông ứa ra tràn mi, nóng bỏng. Ông ngẩng lên, bồi hồi, lại một đàn chim di trú bay từ phương Bắc về Nam, ông nghĩ, hôm nay ta không bẫy lũ chim trời nữa, ta vui vì đã tìm thấy cha rồi. Trăm ngàn lạy Đức Phật từ bi! Tự nhiên ông cầm chiếc dây chuyền bạc ấp vào ngực, miệng lẩm bẩm: “Cha ơi! Thế là con đã tìm thấy cha rồi!”. Ông Mùi bật khóc hực hực, tiếng khóc nghẹn ngào, buồn tủi, nước mắt chảy tràn trên gò má nhằng nhịt sẹo đỏ sẹo tím.
Ngay hôm sau, cả làng Phiêng Cải người nối người với cờ, hoa, kèn, trống, tưng bừng đưa hài cốt ông Trần Gia Thành về Nghĩa trang đầm Vạc. Việc hiếu với cha hoàn tất, ông Mùi vật ra ốm. Ông ốm mà không rõ bệnh, chỉ thấy trong người mê mệt, lìm lịm, mắt dim díp muốn ngủ, và ông ngủ thiếp luôn ba ngày ba đêm. Giấc ngủ hun hút khiến ông mê mụ, chìm vào giấc chiêm bao dài lê thê. Ông mơ gặp cha. Người cha thân yêu, chân guốc mộc, áo the, khăn xếp, kính trắng, tóc bạc phơ, ria dài cũng trắng phơ. Cha Thành ngước kính trắng, nhìn âu yếm, bảo: “Cha bị lạc đường, xa nhà lâu quá, nhớ các con, nhớ các cháu lắm!”. Ông Mùi ngước nhìn cha, giọng run run: “Tại con không quan tâm hết lòng đến cha. Con có lỗi với cha!”. Cha Thành bảo: “Con không có lỗi! Tại sông Hồng mùa lũ, phù sa phủ dày, xóa hết dấu vết bờ bãi, nên cha mới bị lạc đường. Bây giờ con đã tìm thấy cha, đưa cha về nhà. Cha cảm ơn con trai hiếu thảo!”. Ông Mùi bật khóc: “Vâng, con vui mừng vì đã tìm thấy cha, đưa cha về nhà, từ nay con không để cha lạc đường nữa, không bao giờ nữa!”... Ba ngày thì ông Mùi tỉnh ngủ. Ông trở dậy, sao nhà vắng vẻ, thằng Gâu ở đâu, bà thằng Gâu ở đâu, vườn lao xao gió, cù-cù-cù..., a, con chim gáy thổ đồng, ông ngó nghiêng, chiếc lồng chim treo lơ lửng chái nhà, ông chợt nhớ lời hẹn với ông Sa Thổ và Neo, thế là ông cưỡi xe đạp, đem theo lồng chim có con gáy thổ đồng cườm xanh biếc, đạp miết lên bản Nà Lai, vào nhà ông Sa Thổ. Cả buổi sáng, ông Mùi với ông Sa Thổ và Neo bàn bạc kỹ lưỡng về việc sẽ mời ông Tử Pín tham gia đầu tư vào Dự án du lịch sinh thái cộng đồng núi Chúa, nhân đấy đem tặng ông Tử Pín con chim gáy thổ đồng. Ngang chiều, Neo đèo ông Mùi trên chiếc Suzuki, đem theo lồng chim gáy, còn ông Sa Thổ đi chiếc Dream, vù lên thị trấn Khau Sưa, vào dinh Tử Pín. Cửa dinh Tử Pín khép hờ. Ông Mùi xuống xe, xách chiếc lồng chim đến trước cửa dinh, nhấn chuông. Chuông reo. Quản gia Miêu ra cổng, nhìn qua song sắt, nhận ra người từng đến đây bán chim cho cậu Tử Pín, liền hỏi:
- Ông lại đến bán chim à?
- Tôi đến tặng ông Tử Pín con chim gáy thổ đồng. - Ông Mùi giơ chiếc lồng chim, vẻ mặt phấn khởi.
- Ông nên về thôi! - Quản gia Miêu nghênh kính trắng, giọng trầm buồn.
- Tôi tặng ông Tử Pín thật mà! - Ông Mùi thành thật.
- Tặng hay bán cũng thế thôi!
- Ông nói thế là sao?
- Là vì... - Quản gia Miêu ngập ngừng - Cậu Tử Pín điên thật rồi! Biết gì nữa đâu mà chim gáy với chim hót!
- Ông Tử Pín điên ư? - Ông Mùi ngây mặt, những vết sẹo đỏ sẹo tím cứ giật giật, miệng lập bập - Tội nghiệp! Hay là... ông cứ đem com chim gáy thổ đồng treo ngoài hiên, để nó gù cho ông Tử Pín nghe, đỡ buồn chăng?
- Cảm ơn ông!
Quản gia Miêu cảm nhận lòng thành của ông Mùi, nên nhận lồng chim, xách vào hiên nhà. Ông Mùi và ông Sa Thổ vào theo. Ô, dinh ông Tử Pín vốn hoành tráng, lộng lẫy, vui tươi là thế mà bây giờ..., bên thềm dinh bóng loáng mấy chiếc xe hạng sang đỗ châu đầu vào nhau, đít chổng ra ba hướng, im phắc, kia, cả giàn hoa phong lan rũ lá, lèo tèo mấy nhành hoa quắt queo, bao nhiêu lồng chim lúc lắc, các chú chim ngơ ngác, chẳng thấy líu ríu hót ca nữa, con Pốp như con hùm xám gừ-gừ-gừm mỗi khi thấy người lạ đến dinh mà bây giờ nằm oải bên thềm, ô, thật là, cả không gian ắng lặng, lạnh lẽo làm sao, thật là người tính không bằng giời tính. Ông Mùi nghĩ thầm, sự nghiệp kinh doanh của ông Tử Pín đang phất lên như diều gặp gió, đâu ngờ, mà bây giờ ông Tử Pín điên thật thì làm sao còn tham gia đầu tư cho Dự án du lịch sinh thái cộng đồng núi Chúa của Neo chứ? Thấy chiếc xe Cub 82 cũ rỉn ghếch bên thềm, phía sau một chiếc cặp số buộc chặt dây thun, ngần ngừ một lúc, ông Mùi nhìn quản gia Miêu, hỏi:
- Ông quản gia sắp đi đâu à?
- Tôi về nhà tôi thôi! - Quản gia Miêu nghênh kính trắng.
- Còn công việc ở đây?
- Cậu Tử Pín không cần tôi giúp việc nữa! - Quản gia Miêu ngước kính trắng, nhìn hút lên núi Khau Sưa, giọng trầm buồn - Tôi cũng như con chim gáy thổ đồng của ông đấy, chẳng cần gù nữa đâu, bởi cậu Tử Pín nghe đấy mà như không nghe gì cả, buồn thế!
- Còn cô Mê đâu? - Ông Mùi chợt hỏi.
- Cô Mê về từ mấy hôm rồi!
- Thế thì ai cơm nước cho ông chủ chứ?
- Cậu chủ chẳng còn biết miếng ngon do cô Mê nấu, thì bây giờ ai cơm nước cho cậu chẳng được, chắc cô Xinh phải tự lo thôi.
- Còn ông Rô và ông Báo?
- Hai ông ấy cũng về nhà mình từ hôm qua rồi.
- Thế ai bảo vệ cho ông chủ?
- Cậu Tử Pín ra người như thế, chẳng còn uy, chẳng còn oai, chẳng còn quan trọng với ai, chẳng còn ai nể sợ nữa, cũng chẳng còn ai thù ghét cái người điên dại, thì cần gì phải bảo vệ cơ chứ. Cậu thành người vô hại, cứ mặc thôi.
- Bọn trẻ đâu cả rồi?
- Con Ly Ly, con Phăng Phăng đi học rồi.
- Còn thằng By?
- Ôi giời! - Quản gia Miêu dệu miệng, lắc đầu - Nó bị mấy người lạ bắt đi mất rồi, chắc là người nhà của mẹ nó.
- Thôi chết!
- Thương thằng By quá! - Quản gia Miêu rơm rớm nước mắt.
- Ông cho tôi gặp ông Tử Pín được không?
- Cậu Tử Pín kia!
Quản gia Miêu chỉ tay ra phía cổng. Thiêng thế! Vừa nhắc đến cậu chủ thì cậu chủ về. Cậu chủ gầy nhẳng, da tái xám, tay chống gậy, vai đeo túi vải, chân bước dề dệt, nghênh nghênh đầu tóc xù rối, cổ lấp loáng chiếc vòng bạc, dái tai lấp lánh cái mấm bạc, miệng lẩm bẩm gì đó. Khổ thân! Từ ngày được ông Sa Thổ, cô Sao, thầy Khổng đưa lên động cậu Cóc trên núi Chúa cứu chữa, cậu chủ thoát chết, chợt tỉnh được mấy ngày, nhưng hình như thần kinh vẫn không bình thường, nên bây giờ ngơ ngơ, cậu như một cái bóng, trầm lặng, thỉnh thoảng lẩm bẩm một mình, cứ chiều tà là cậu lại chống gậy, vai đeo túi đầy hương, túc tắc đi lên núi Khau Sưa, lúc lúc lại rút hương ra đốt, cắm xuống đất, miệng lẩm bẩm... Ông Mùi quay vào hiên lấy chiếc lồng chim, rồi bước nhanh ra cổng, kéo chiếc mũ lưỡi trai cao lên cho rõ mặt và đon đả chào: “Chào ông Tử Pín!”. Cậu Tử Pín chợt sững lại, ngó ngơ người đứng trước mặt mình, mắt chớp chớp như thể muốn nhớ lại xem cái người trước mặt mình là ai? Ông Mùi giơ chiếc lồng chim trước mặt cậu Tử Pín, xởi lởi: “Tôi mang tặng ông con chim gáy thổ đồng đây này!”. Cậu Tử Pín ngó ngơ chiếc lồng chim, đầu lắc lắc, không nói gì. Ông Mùi cao giọng: “Con chim gáy thổ đồng thật mà!”. Cậu Tử Pín vẫn không nói gì. Ông Mùi giơ cao lồng chim, chúm miệng gù mồi cù-cù-cù..., tức thì con chim gáy cất giọng cù-cù-cù-cù..., tiếng gù cặp năm trầm ấm, rền vang như tiếng cồng chiêng, nghe hay vô cùng. Ông Mùi đưa lồng chim cho cậu Tử Pín, nhưng cậu Tử Pín cứ ngó nghiêng, lắc lắc đầu. Một lúc, cậu Tử Pín nhe răng như cười mà không phải cười. Cậu Tử Pín đưa mấy ngón tay xương xẩu vê vê nốt ruồi lông trên mi mắt, miệng chẹp chẹp. Cậu quăng gậy, ngó ngơ mọi người, bỗng giật phắt lồng chim từ tay ông Mùi, tập tễnh bước ra cổng, vòng vào hồ bán nguyệt. Mọi người lo lắng đi theo. Quản gia Miêu lẩm bẩm: “Khổ thân cậu Tử Pín, cậu cũng thành “mo”, thành “zêrô” mất rồi”. Ông Mùi bước sát cậu Tử Pín, cùng nâng nâng chiếc lồng chim. Ông Mùi thở dài, mấy cái sẹo đỏ sẹo tím cứ giật giật, nghĩ, thế là từ nay ông Tử Pín không còn nghe được tiếng chim gáy thổ đồng tuyệt vời nữa. Ông Sa Thổ rơm rớm nước mắt, nghĩ, dù sao ông Tử Pín cũng là người dân Khau Sưa này, thật tình thương ông Tử Pín lắm. Thằng Neo mím mím môi, vẻ mặt buồn, miệng lẩm bẩm: “Ông Tử Pín chẳng còn khả năng tham gia dự án làm du lịch sinh thái cộng đồng núi Chúa được nữa, thật phí hoài cả cái hầm tiền của ông, tiếc quá!”... Ô này, hồ bán nguyệt trong xanh, gợn sóng long lanh, cậu Tử Pín treo lồng chim lên cành tùng Mã-lai, rồi ngước nhìn xa xăm, hình như cậu nhìn về thị trấn Khau Sưa, nhìn về thành phố Mã Sơn, nhìn mãi về núi cao đồi thấp - nơi ấy có nhà máy thủy điện Hoang Thủy, có Khách sạn Hoa Ban Tím, có Siêu thị ô tô xe máy Acalon và Siêu thị Thời trang Hoàn Mỹ, có mấy căn hộ chung cư ở Vincom PLAZA, có Khách sạn Tang Bồng, có đô thị Lâm Viên với Công viên Hỷ Hỷ, có cây cầu Quy Sơn và trang trại Đô La Xinh, có đô thị Cò Lả và biệt thự cổ tích thác Mây núi Cò Lả, xa nữa, có... có..., có cả những khát vọng của cậu còn dang dở, cậu nhìn đăm đắm, rất lâu, chợt lấy cả nắm thẻ hương trong túi vải ra đốt, nắm hương cháy đỏ, khói thơm nồng, cậu bước lò dò từng bước, mỗi bước cậu lại cắm xuống ven hồ bán nguyệt một cây hương, và quỳ gối, chắp tay vái, miệng lẩm bẩm…
Khởi thảo tại Nhà Sáng tác Tam Đảo, tháng 10-2017
Tiếp tục viết tại Nhà Sáng tác Đà Nẵng, tháng 5-2018
Hoàn thành bên dòng sông Mẹ - Hồng Hà, tháng 8-2018