T
iếng gõ cửa lại vang lên, vừa dè dặt vừa dứt khoát, trong khi ông bác sĩ bước xuống cầu thang theo tia sáng đèn pin xuyên về phía trước rọi vào những bậc thang màu nâu xỉn, soi tới ván gỗ ghép cùng màu của hành lang tầng dưới. Đó là một căn nhà nhỏ hai tầng bên bờ biển được thắp sáng bởi một hoặc nhiều chiếc đèn dầu mà vợ ông đã mang lên trên gác sau bữa tối. Ông bác sĩ mặc áo ngủ mà không phải pyjama vì lý do giống hệt như lý do ông hút tẩu, thứ mà ông không ý thức được rằng mình chẳng bao giờ học được cách tận hưởng, cùng với những điếu xì gà thỉnh thoảng ông cứ nhận của bệnh nhân vào các ngày Chủ nhật, mặc dù ông sở hữu một căn nhà nhỏ bên bờ biển cũng như căn nhà kề bên và thấy mình hoàn toàn có thể tự mua lấy. Bởi vì ông đã bốn mươi tám tuổi rồi và hồi mới mười sáu, mười tám, hai mươi tuổi, cha ông có thể đã nói (và ông tin) rằng thuốc lá với pyjama là những thứ dành cho đàn bà cùng những gã công tử bột.
Thời khắc nửa đêm đã qua rồi, nhưng chưa quá lâu.
Ông có thể phân biệt được mùi vị của gió cũng như cảm giác tựa hồ có thể sờ thấy nó ngay cả khi đang ở trong căn phòng mà tất cả cửa chính và cửa chớp đều đóng kín mít. Bởi vì ông sinh ra ở đây, bên bờ biển này mặc dù không phải trong chính căn nhà này mà ở nơi khác trong thị trấn, và đã sống ở nơi đây cả đời, tất nhiên cuộc đời ông gồm cả bốn năm học tại trường Y thuộc Đại học Quốc gia cùng hai năm làm bác sĩ thực tập ở thành phố New Orleans nơi mà (người đàn ông còn trẻ đã xổ dáng, với đôi bàn tay mềm mại và mập mạp như tay phụ nữ này, đáng lẽ ra không nên làm bác sĩ, người mà thậm chí sau khoảng sáu năm ở thủ đô, với sự ngạc nhiên mang đậm ý thức cách ly và kiểu cách tỉnh lẻ, vẫn cảnh giác trước các bạn học cũng như những người cùng trang lứa - các gã trai còm nhom khoe vẻ bảnh bao trong những chiếc áo khoác mà đối với ông, đó là nơi họ phô ra vô vàn khuôn mặt vô danh của những nữ y tá thực tập với thái độ tàn nhẫn và quả quyết như đeo đồ trang sức hoặc vòng nguyệt quế) ông đã chán ngấy. Vậy là ông tốt nghiệp, với thứ hạng nghiêng về tốp cuối hơn là tốp đầu trong lớp, rồi trở về nhà, trong cùng năm đó, cưới người vợ mà cha ông đã chọn; trong vòng bốn năm, ông trở thành chủ nhân ngôi nhà mà cha mình đã xây cất và nắm giữ hết cơ ngơi cha mình từng gây dựng, chẳng làm mất gì và cũng chẳng mở rộng thêm được chút nào, rồi trong vòng mười năm, ông sở hữu không chỉ căn nhà bên bờ biển nơi ông cùng vợ trải qua những mùa hè của một cặp vợ chồng không con mà còn cả căn nhà kề bên, nơi ông cho khách du lịch, thậm chí cả những nhóm người đi picnic hoặc những hội đi câu cá, thuê vào mùa hè. Buổi tối sau lễ cưới, ông cùng vợ đến New Orleans và ở trong một khách sạn hai ngày mặc dù họ chưa bao giờ có tuần trăng mật đúng nghĩa. Và mặc dù ngủ chung giường trong suốt hai mươi ba năm, họ vẫn chưa có lấy một mụn con.
Không những có thể phân biệt được mùi vị của gió, qua bức tường bếp mỏng, ông còn có thể nói chính xác được giờ giấc bằng cách ngửi mùi ôi của món xúp mướp tây trong chiếc nồi bằng đất nung được để trên cái bếp đã tắt ngấm từ lâu - cái nồi xúp to tướng vợ ông nấu hồi sáng để chia một phần cho những người hàng xóm và cả những người thuê căn nhà kế bên - nơi được một cặp nam nữ thuê từ bốn hôm trước mà thậm chí chẳng biết rằng người mang cho mình món xúp mướp tây không những là hàng xóm mà còn là chủ nhân của căn nhà đó. Người phụ nữ có mái tóc đen và đôi mắt vàng toát lên vẻ cứng rắn và lạ lùng trên gương mặt có làn da bị kéo căng ở chỗ gò má nhô cao với khuôn cằm không được thanh thoát cho lắm (thoạt đầu ông bác sĩ dùng từ “rầu rĩ” để tả vẻ mặt của người này nhưng sau đó đổi thành “sợ hãi ”), trẻ trung và suốt cả ngày dài đằng đẵng cứ ngồi lì trên chiếc ghế hóng mát rẻ tiền mới toanh nhìn ra biển, mặc cái áo len sờn cũ cùng chiếc quần bò bạc thếch, đi giày vải, không đọc sách cũng chẳng làm gì hết, chỉ ngồi hoàn toàn bất động mà ông bác sĩ (hoặc người bác sĩ ở trong ông) không cần căn cứ vào đặc tính của làn da căng và sự bất động vô hồn của đôi mắt dường như chẳng nhìn vào đâu cả cũng có thể nhận ra ngay lập tức - sự lơ đãng bất động tuyệt đối khiến cả nỗi đau đớn lẫn khiếp sợ đều không tồn tại, và trong trạng thái đó, sinh vật sống ấy dường như đang lắng nghe, thậm chí theo dõi quá trình chảy máu âm ỉ không thể bù đắp được của một trong những cơ quan trong cơ thể mình, như tim chẳng hạn; người đàn ông cũng còn trẻ, mặc chiếc quần kaki bẩn thỉu, nhếch nhác cùng chiếc áo dệt kim không tay và để đầu trần ở cái xứ mà ngay cả những người trẻ tuổi cũng tin rằng mặt trời mùa hè có thể gây chết người, lại còn thường đi chân đất sát mép nước dọc bờ biển, rồi trở về với một bó củi rều được buộc bằng thắt lưng, đi ngang qua chỗ người đàn bà ngồi bất động trên ghế mà tuyệt nhiên không nhận được một dấu hiệu phản ứng nào từ cô ta, dù chỉ là thoáng cử động của mái đầu, thậm chí là của tròng mắt.
Nhưng vấn đề không phải ở tim đâu, ông bác sĩ nhủ thầm. Ngay từ ngày đầu tiên khi quan sát người đàn bà này qua giậu trúc đào ngăn giữa hai nhà - không phải cố tình nghe trộm, ông đã dám chắc như vậy. Tuy nhiên đối với ông, việc thừa nhận vấn đề không phải ở chỗ ấy dường như đã chứa đựng cả bí mật lẫn câu trả lời. Có vẻ ông đã thấy cái bóng lờ mờ của sự thật rồi, cứ như thể ông bị ngăn cách với sự thật chỉ bởi một tấm màn mỏng cũng giống như chỉ cách người đàn bà kia một tấm bình phong được tạo thành từ những lá trúc đào thưa thớt vậy. Không phải ông đang nghe trộm hay rình mò gì đâu, có lẽ ông nghĩ mình còn khối thời gian để khám phá xem cô ta đang lắng nghe bộ phận nào trong cơ thể mình chảy máu; họ đã trả tiền thuê căn nhà hai tuần (có lẽ lúc đó người bác sĩ trong ông cũng biết rằng không cần nhiều tuần, mà chỉ vài ngày thôi, ông sẽ biết sự thật), và ông nghĩ nếu cô ta cần sự giúp đỡ thì thật là may mắn vì ông - người cho thuê nhà - cũng là một bác sĩ cho đến khi ông chợt hiểu ra rằng có khả năng họ không biết ông là chủ nhà và nếu đúng như vậy, thì chắc gì họ đã biết ông là một bác sĩ.
Gã môi giới nhà đất nói với ông qua điện thoại về những người thuê nhà. “Cô ta mặc một cái quần”, anh ta nói. “Ý tôi là không phải quần chùng của phụ nữ đâu mà là quần của đàn ông. Tôi muốn nói rằng, cái quần cô ta mặc quá nhỏ so với cô ta ở những chỗ nhạy cảm mà bất cứ người đàn ông nào cũng muốn thấy nhưng không một người phụ nữ nào muốn như vậy cả, trừ người mặc nó. Tôi cho rằng bà Martha không ưa kiểu ăn mặc đó lắm đâu.”
“Chẳng sao cả miễn là họ trả tiền thuê nhà đúng hạn”, ông bác sĩ nói.
“Ông yên tâm”, gã môi giới nhà đất nói. “Tôi sẽ lo việc đó. Tôi không làm cái nghề này bấy lâu để rồi chẳng thu được chút kinh nghiệm nào. Tôi bảo ‘Phải trả tiền trước chứ’ và gã đàn ông nói ‘Được thôi. Được thôi. Bao nhiêu?’ cứ như thể gã mang họ Vanderbilt1 hoặc một đại gia nào đó, ôi, cái gã đàn ông vận chiếc quần bẩn thỉu và chẳng có gì hết ngoài cái áo lót mặc trong áo khoác, rút phắt một xấp tiền ra, toàn đồng mười đô la. Tôi vừa mới đưa trả lại gã mười đô la tiền thừa, như vậy gã chỉ còn hai tờ mười đô la để sống thôi, rồi tôi nói ‘Tất nhiên nếu muốn thuê ngôi nhà nguyên trạng, có sẵn đồ đạc, thì anh có thể nhận được cái giá khá rẻ’ và gã nói ‘Được rồi. Được rồi. Bao nhiêu?’. Tôi tin rằng mình đã có thể thu được nhiều tiền hơn bởi vì nếu ông hỏi thì tôi xin nói gã không cần thêm bất cứ đồ đạc gì, tất cả những gì gã muốn là bốn bức tường để gã có thể ở bên trong cùng một cánh cửa để gã đóng lại sau khi đã chui vào đó. Cô ta thì thậm chí không ra khỏi taxi. Cô ta cứ ngồi yên trên xe và đợi, mà đúng là cái quần quá bé so với cô ta, quá bé ở những chỗ nhạy cảm.”
1 Vanberbilt là một gia đình gốc Hà Lan nổi tiếng ở Mỹ vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX nhờ làm ăn phát đạt và nhờ việc hiến tặng đất đai, tiền bạc để xây các công trình công cộng.
Giọng nói ngừng lại; đầu óc ông bác sĩ giờ đây đầy những tiếng ong ong, sự chuyển điệu của sự im lặng nực cười tăng dần, vậy nên ông nói gần như gắt gỏng: “Thế nào? Họ muốn có thêm đồ đạc hay không? Nhà chẳng có đồ đạc gì hết ngoài một chiếc giường, mà đệm trải giường thì không...”.
“Không, không, họ không muốn có thêm bất cứ thứ gì. Tôi đã nói với gã đó rằng trong nhà có một chiếc giường và bếp, còn họ mang theo một chiếc ghế gấp bằng vải bạt để trong taxi. Vậy thôi.” Sự im lặng tức cười kia lại choán hết đầu óc ông bác sĩ.
“Thế nào?”, ông bác sĩ hỏi. “Gì vậy? Anh bị làm sao đấy?”, dù dường như ông biết điều anh ta nói trước khi giọng nói ở đầu dây bên kia lại cất lên:
“Tôi cho rằng bà Martha sẽ chú ý đến cái bụng của cô ả đó hơn cả cái quần của cô ta. Tôi không nghĩ họ đã cưới nhau. Ồ, gã đó nói họ là vợ chồng và tôi không nghĩ gã lừa cô ả, mà có lẽ gã thậm chí không nói dối về bản thân mình. Vấn đề là, họ chưa cưới nhau, cô ta chưa kết hôn với gã đàn ông đó. Bởi vì tôi có thể ngửi mùi của một người chồng. Cứ cho tôi gặp một người đàn bà mà mình chưa từng thấy trước đó trên đường phố của Mobile hoặc New Orleans mà xem, tôi chỉ cần ngửi mùi cũng có thể nói...”
Buổi chiều hôm đó họ nhận nhà - ngôi nhà đơn sơ chỉ có vỏn vẹn một chiếc giường mà cả lò xo lẫn đệm đều ọp ẹp, chiếc bếp cũng như cái chảo rán vẫn còn nguyên những lớp mỡ rán cá bị đóng két lại, ấm pha cà phê, bộ thìa nĩa và những con dao xoàng xĩnh, cọc cạch cùng những chiếc cốc, đĩa, tách chén và bình từng là vật đựng các loại mứt và thạch không phải do nhà làm, cùng một chiếc ghế để ngồi hóng gió trên bãi biển - nơi mà người đàn bà nằm ườn cả ngày trên đó như thể để ngắm những lá cọ chạm vào nhau phát ra âm thanh chua chát, khô khốc và hoang dại trước vẻ long lanh ngời ngời của mặt biển trong khi người đàn ông mang những khúc củi rều vào bếp. Vào buổi sáng hai hôm trước, khi xe chở sữa đi một vòng qua bờ biển dừng lại ở đó, vợ ông bác sĩ đã nhìn thấy người đàn ông trở về từ cửa hàng bán thực phẩm nhỏ của một người Bồ Đào Nha từng làm nghề đánh cá, cầm một ổ bánh mì và một túi giấy to. Bà bèn nói với chồng cùng sự kết tội đầy gay gắt và bất bình rằng bà nhìn thấy người đàn ông đang lau dọn (hoặc cố gắng lau dọn) chỗ mổ cá ở bậc lên xuống bếp. Bà vợ là một người chẳng có eo ót gì nhưng chưa đến nỗi béo phúng phính giống ông bác sĩ, người mà từ khoảng mười năm trước toàn thân đã bắt đầu nhuốm một màu xám xịt cứ như thể cả mái tóc, nước da cùng màu mắt của bà ta đều đã và đang bị màu của những chiếc váy mặc ở nhà làm biến đổi một cách tinh vi. “Và anh ta đã tạo ra một đống bẩn thỉu!”, bà kêu lên. “Một đống bẩn thỉu bên ngoài bếp và có lẽ cả một đống tương tự trên bếp nữa!”
“Có lẽ cô ta có thể nấu ăn”, ông bác sĩ ôn tồn nói.
“Nấu ở đâu kia chứ? Bằng cách nào? Ngồi ở ngoài sân kia mà nấu nướng ư? Anh ta bê bếp lò và mọi thứ ra đó cho cô ta ư?” Nhưng đó thậm chí không phải là điều khiến bà thực sự bất bình, mặc dầu bà không nói toạc móng heo ra như vậy. Bà không nói, “Họ không phải là một cặp trai gái có hôn thú đàng hoàng” dù trong đầu cả hai đều nghĩ như vậy. Cả hai đều cho rằng một khi điều đó được nói trắng ra giữa vợ chồng họ, ông bác sĩ sẽ tống khứ những người thuê nhà đó ngay lập tức. Tuy nhiên, cả hai người đều không chịu nói ra điều đó vì lý do sâu xa hơn cả cái lý do rằng ông cảm thấy lương tâm họ phải có trách nhiệm trả lại tiền thuê nhà mà họ đã nhận nếu như đuổi hai người kia đi; riêng về phần ông, có một lý do sâu xa hơn thế, và ông đang nghĩ, Bọn họ chỉ có hai mươi đô la. Ấy là từ ba ngày trước. Và cô ta đang gặp chuyện gì đó không ổn, tiếng nói của người bác sĩ giờ đây át cả tiếng của một người tỉnh lẻ trung thành với chủ nghĩa đạo đức khắt khe, một tín hữu Báp-tít1 từ khi lọt lòng mẹ. Và cũng có điều gì đó trong lòng bà vợ đang cất lên tiếng nói át cả tiếng của người theo giáo phái Báp-tít bởi vì sáng hôm nay, bà đã đánh thức ông bác sĩ dậy từ bên ngoài cửa sổ - nơi bà đứng với cái dáng quái gở trong chiếc váy ngủ bằng vải bông trông như một tấm vải liệm, mái tóc màu xám được làm xoăn bằng cách quấn giấy để chỉ cho ông thấy người đàn ông trẻ kia mới sáng sớm đã đi từ bãi biển về cùng một bó củi rều được buộc bằng dây lưng. Và trưa hôm đó khi ông bác sĩ về nhà, bà vợ đã làm rất nhiều món xúp mướp tây, đủ cho hơn chục người ăn, làm với sự tận tụy không thể lay chuyển của những người phụ nữ Samarita tốt bụng, như thể bà tìm thấy niềm thích thú đầy hận thù và độc ác trước thực tế rằng việc làm phúc của người Samarita sẽ trả giá cho phần mướp tây cả ngày không được đụng đến còn lại trên bếp, để rồi được hâm đi hâm lại cho tới khi được hai con người thậm chí không thích nó đánh chén, những người được sinh ra và nuôi dưỡng trong không khí của biển, thích cá ngừ, cá hồi, cá mòi đóng hộp - loại hải sản bị giết và ướp ở một nơi cách đó ba nghìn dặm trong môi trường sặc mùi dầu máy và không khí thương mại.
1 Tín hữu Báp-tít là thành viên của giáo hội Báp-tít, một trong những giáo phái Tin Lành cải chính lớn trên thế giới.
Đích thân ông bác sĩ có dáng người thấp đậm, đầu tóc không được gọn gàng cho lắm và mặc bộ đồ lanh ấy đã đem bát xúp mướp tây đi cho - bát xúp đậy một chiếc khăn tay bằng vải lanh nhăn nhúm (thậm chí chưa được giặt là, mặc dù còn mới) được đưa qua giậu trúc đào một cách hơi vụng về, góp thêm cho việc làm mang tính biểu tượng không gì ngăn cản nổi của người theo đạo Cơ Đốc, hành động được thực hiện không phải bởi sự chân tình hay lòng thương hại mà vì bổn phận, một vẻ đẹp ngượng ngùng của lòng tốt; ông bác sĩ hạ tô xúp xuống (người phụ nữ trẻ không đứng dậy khỏi ghế cũng không nhúc nhích, chỉ mỗi đôi tròng mắt vàng như mắt mèo của cô ta là chuyển động) cứ như thể tô xúp có chứa chất dễ gây cháy nổ, khuôn mặt béo phúng phính chưa được cạo râu của ông nở nụ cười ngớ ngẩn, nhưng đằng sau khuôn mặt đó, đôi mắt của người bác sĩ trong ông phát huy sự sắc sảo, không bỏ sót bất cứ điều gì khi tập trung quan sát khuôn mặt của người phụ nữ không quá gầy nhưng thực sự hốc hác mà chẳng hề mỉm cười, e ngại, và nghĩ, “Đúng rồi. Độ một hoặc hai. Có lẽ độ ba. Nhưng không phải là tim đâu”, rồi thức giấc, bừng tỉnh, để nhận ra đôi mắt hoang dại và trống rỗng đang nhìn trừng trừng ông - một người mà cô ta chưa từng gặp bao giờ - với nỗi hận thù vô biên, sâu nặng khôn lường. Đó là nỗi hận thù bâng quơ, không hướng vào bất cứ người nào cụ thể, giống như một người trong lòng sẵn đã hân hoan vui sướng thì nhìn bất cứ cái cây hay cái cột nào cũng cảm thấy thích thú. Ông (người bác sĩ) không hề kiêu căng, biết rõ điều này; không phải nỗi hận thù kia nhằm vào ông. Nó nhằm vào toàn thể nhân loại, ông nghĩ vậy. Ồ, không, không. Đợi đã. Đợi đã - tấm màn bí mật sắp được vén lên rồi, những bánh răng của sự suy luận sắp sửa khớp nhau đâu vào đấy rồi - Không phải nỗi hận thù kia nhằm vào cả nhân loại mà nhằm vào tất cả đàn ông, toàn bộ giống đực. Nhưng tại sao kia chứ?
Tại sao? Trong tình huống này, bà vợ của ông ắt hẳn sẽ để ý đến dấu vết mờ mờ của chiếc nhẫn cưới trên ngón tay người đàn bà này, nhưng ông, người bác sĩ, thấy được nhiều hơn thế: Cô ta là người đàn bà đã có con, ông nghĩ. Ít nhất là một đứa, chắc chắn cô ta có con rồi; Mình dám đem bằng cấp của mình ra đánh cược đấy. Và nếu Cofer (cái gã ở đại lý nhà đất) đã đúng khi khẳng định tay đàn ông kia không phải là chồng của cô ta, và như gã nói, gã chỉ cần ngửi cũng biết tay đàn ông đó không phải là một người chồng bởi vì hình như gã làm nghề môi giới cho thuê những căn nhà bên bờ biển vì chính cái lý do hoặc sự thúc bách, hoặc nhu cầu tương tự đã khiến một số người dân ở các thành phố trang bị và cung cấp các căn phòng để những người giấu tên hoặc mang tên giả thuê thì... cứ cho là cô ta căm thù đàn ông sâu sắc đủ để bỏ chồng, bỏ con; điều đó có thể hiểu được. Thế nhưng cô ta bỏ chồng con không chỉ để đi với người đàn ông khác mà còn để sống trong cảnh túng quẫn trong khi bản thân lại đang ốm nặng. Hay nói cách khác, cô ta đã bỏ chồng con đi theo một người đàn ông khác và chịu đựng cảnh khốn khó, để rồi phải... phải... Ông cảm nhận, nghe thấy tiếng chuyển động của những bánh răng sự thật: Những bánh răng kêu lách cách khi chuyển động nhanh; ông cảm thấy mình cần phải rất khẩn trương để bắt kịp nhịp chuyển động đó, bởi ông có linh cảm rằng tiếng lách cách cuối cùng sẽ báo hiệu các bánh răng khớp nhau cùng tiếng chuông của sự sáng tỏ sẽ ngân lên và ông sẽ không ở đủ gần để nhìn và nghe được: Đúng. Đúng. Người đàn ông kia, một đại diện của giống đực cũng như mình, người mà trước đó cô ta chưa từng gặp mà nếu có gặp cũng chẳng buồn nhìn đến lần thứ hai, đã làm chuyện gì đó với cô ta để đến nỗi mỗi lần từ bờ biển lên cùng với một bó củi rều để nấu nướng cho cô ta ăn, anh ta đều phải bước qua khoảng không gian trải đầy cái nhìn chất chứa nỗi hận thù ghê gớm của người đàn bà ấy.
Cô ta thậm chí (chẳng buồn nhấc thân lên) không hề có biểu hiện muốn nhận bát thức ăn từ tay ông. “Không phải là xúp thường đâu, mà là món xúp mướp tây đấy”, ông nói. “Vợ tôi nấu món này đấy. Bà ấy... chúng tôi...” Người đàn bà không nhúc nhích, chỉ nhìn ông trân trân khi ông buộc cái thân hình béo phúng phính trong bộ đồ kẻ sọc nhăn nhúm của mình phải cúi xuống một cách vất vả với tô xúp trong tay; ông thậm chí không biết người đàn ông kia đang ở gần đó cho đến khi người đàn bà nói với anh ta.
“Cảm ơn”, cô ta nói. “Mang nó vào trong nhà đi, Harry.” Và giờ cô ta thậm chí không thèm nhìn ông nữa. “Cảm ơn vợ của ông”, cô ta nói.
Ông bác sĩ nghĩ về hai người thuê nhà khi bước xuống cầu thang trong ánh đèn chập chờn, đi vào vùng không khí đầy mùi xúp mướp tây ôi ở hành lang phía dưới để tiến ra phía phát ra tiếng gõ cửa. Không phải linh cảm hay điềm báo nói cho ông biết rằng người gõ cửa chính là người đàn ông mang tên Harry. Mà là bởi trong suốt bốn ngày qua, ông không nghĩ đến bất cứ chuyện gì khác ngoài chuyện người đàn ông trung niên trong chiếc áo ngủ cổ lỗ sĩ mà giờ đây đã trở thành trang phục xuất hiện trong một vở hài kịch được diễn ở phạm vi quốc gia, choàng dậy trên chiếc giường cũ kỹ của người vợ vô sinh, đang nghĩ về (có lẽ đã và đang mơ thấy) ngọn lửa căm hờn sâu sắc không nhằm vào một người nào cụ thể hiển hiện trong đôi mắt của người đàn bà xa lạ kia; và ông lại linh cảm về điều sắp xảy ra, có cảm giác mình đang ở ngay phía bên kia tấm màn bí mật, đang mò mẫm, thậm chí đã chạm vào hình hài của sự thật nhưng chưa thực sự nắm bắt được nó, nhìn thấy nó rồi nhưng chưa thấy thật rõ ràng, cụ thể, và ông đứng như trời trồng trên bậc cầu thang trong đôi dép lê lỗi mốt, nghĩ thật nhanh: Phải rồi. Phải rồi. Một điều gì đó mà đàn ông, giống đực, đã gây ra hoặc cô ta tin là đã gây ra cho cô ta.
Tiếng gõ cửa lại vang lên, như thể qua sự thay đổi của ánh sáng đèn hắt ra từ khe cửa, người gõ cửa biết rằng ông bác sĩ đã dừng lại và giờ đây anh ta lại bắt đầu gõ với kiểu nài nỉ rụt rè của một kẻ xa lạ tìm kiếm sự giúp đỡ giữa đêm hôm khuya khoắt; vị bác sĩ lại tiếp tục dấn bước, không phải để đáp lại tiếng gõ cửa lại vang lên mà cứ như sự tái diễn của tiếng gõ cửa đơn thuần trùng với cơn bế tắc nhạt nhẽo, cũ rích, lặp lại của bốn ngày thất bại và dò dẫm, đầu hàng và thỏa hiệp; cứ như thể bản năng có thể khiến ông di chuyển - thể xác có khả năng chuyển động song trí năng thì không, và ông tin rằng việc thể xác tiến lên phía trước có thể đưa ông đến gần tấm màn bí mật ngay khi nó được vén lên, để lộ ra sự thật cô lập bất khả xâm phạm mà ông gần như đã chạm tới. Vậy là ông mở cửa và ngó ra ngoài, soi đèn về phía người gõ cửa. Đó đúng là người đàn ông mang tên Harry. Anh ta đứng đó trong bóng tối, trước làn gió biển không ngừng thổi mạnh cùng tiếng xào xạc của những tàu lá cọ chẳng thể nhìn rõ giữa đêm đen, giống như mọi lần ông vẫn thấy anh ta, với chiếc quần vải thô bẩn thỉu và áo ba lỗ, nói lí nhí để xin lỗi vì đã làm phiền ông vào lúc đêm hôm và nhã nhặn trình bày nhu cầu cấp bách của mình, xin được gọi nhờ điện thoại khi ông bác sĩ, trong chiếc áo ngủ dài đến bắp chân, nhìn săm soi người gọi cửa và nghĩ với niềm hân hoan dâng trào, Bây giờ mình sẽ khám phá ra bí mật đó là gì. “Được”, ông nói, “anh không cần phải gọi điện thoại đâu. Tôi là bác sĩ đây”.
“Ôi”, người kia nói. “Ông có thể sang bên đó ngay bây giờ được không ạ?”
“Được. Để tôi mặc quần đã. Có chuyện gì thế? Tôi hỏi để biết mình phải mang theo những gì.”
Người kia ngập ngừng một lát - điều này không có gì lạ đối với ông bác sĩ bởi ông đã từng trải nghiệm nó và tin rằng mình biết nguồn cơn của vẻ ngập ngừng ấy: Bản năng tự nhiên không thể tiệt trừ của loài người là muốn giấu giếm một sự thật nào đó, thậm chí giấu cả bác sĩ hoặc luật sư - những người sở hữu kỹ năng và kiến thức được họ trả tiền. “Cô ấy bị chảy máu”, anh ta nói. “Tiền công của ông...”
Nhưng ông bác sĩ không để ý đến điều đó. Ông còn đang mải nghĩ: Ồ. Phải. Tại sao mình lại không... phổi, tất nhiên rồi. Tại sao mình không nghĩ cô ta bị bệnh phổi nhỉ? “Đúng rồi”, ông nói. “Anh đợi ở đây nhé? Hay vào trong này đợi nhỉ? Tôi sẽ xuống ngay.”
“Tôi đợi ở đây được rồi”, người kia nói. Nhưng ông bác sĩ không hề chú ý nghe câu trả lời ấy mà chạy vội lên thang gác, tiến vào phòng ngủ - nơi vợ ông đang chống khuỷu tay nhỏm dậy nhìn ông vội vàng xỏ chân vào ống quần, quan sát cái bóng của ông được tạo ra từ ánh sáng của chiếc đèn trên cái bàn thấp cạnh giường ngủ hắt lên tường trông thật khôi hài, và cái bóng của bà trông cũng thật quái dị, giống như Nữ thần tóc rắn, bởi mái tóc màu xám quấn giấy tạo thành những lọn cứng quèo phía trên khuôn mặt xám xịt và chiếc váy ngủ cổ cao trông cũng xám xịt nốt, cứ như thể mọi thứ quần áo bà mặc đều nhuốm cái màu xám xịt của hệ thống đạo đức không thể thay đổi và bác bỏ của bà, kiểu đạo đức mà ông bác sĩ về sau hiểu ra là hoàn toàn dựa trên lý trí. “Đúng”, ông nói, “bị chảy máu. Có thể là xuất huyết. Phổi. Mà tại sao tôi lại không...”.
“Nhiều khả năng anh ta đã chém hoặc bắn cô ta”, bà vợ nói bằng giọng chua cay và lạnh lùng. “Mặc dù qua ánh mắt mà em thấy trong một lần nhìn cô ta ở khoảng cách rất gần, em có thể nói rằng cô ta mới chính là người sẽ chém và bắn ai đó.”
“Vớ vẩn”, ông nói, cúi xuống chỉnh dây đeo quần. “Vớ vẩn.” Bởi vì giờ đây không phải ông đang nói chuyện với bà. “Đúng. Đồ ngốc. Đưa cô ta đi đâu không đưa lại đưa đến cái xó này. Đến bờ biển Mississippi. Em có muốn anh tắt đèn không?”
“Có. Nếu đợi đến khi được trả công thì có thể anh sẽ phải ở đó lâu đấy.” Ông thổi tắt chiếc đèn và bước xuống cầu thang trong ánh sáng đèn pin. Chiếc túi ông cần đang nằm trên cái bàn ngoài hành lang bên cạnh chiếc mũ đội đầu. Người đàn ông tên Harry vẫn đứng bên ngoài ngưỡng cửa.
“Có lẽ ông nên nhận cái này”, anh ta nói.
“Cái gì?”, vị bác sĩ hỏi. Ông dừng lại rồi nhìn xuống khi soi đèn pin lên tờ giấy bạc duy nhất trong tay người đàn ông. Dù không tiêu gì chăng nữa, thì bây giờ anh ta cũng chỉ còn mười lăm đô la thôi, ông nghĩ. “Không, để sau đi”, ông nói. “Có lẽ chúng ta nên sang bên đó ngay.” Ông tiến lên trước theo ánh đèn pin nhấp nhoáng, bước thật nhanh trong khi người đàn ông kia đi qua khoảnh sân có mái che của nhà ông, qua giậu trúc đào để bước vào một khoảng trống nơi gió biển không bị ngăn trở, cứ mặc sức quét qua những cây cọ vô hình, rít lên từng cơn trong đám cỏ dại mọc trên khoảng đất trống; giờ đây ông có thể thấy ánh sáng yếu ớt trong ngôi nhà kia. “Cô ấy bị chảy máu, đúng không?”, ông hỏi. Trời tối om, gió vô hình từ ngoài biển thổi mạnh, thổi liên hồi giữa những cây cọ đứng trong bóng tối - âm thanh đều đều khó chịu chứa đầy tiếng sóng vỗ rì rầm vào những hòn đảo chắn ngoài khơi, vào các mỏm cát và vách cát nhô ra biển được bảo vệ bởi những cây thông xơ xác đang vặn mình trước gió. “Bị xuất huyết, đúng không?”
“Gì cơ?”, người kia nói. “Xuất huyết ư?”
“Không phải sao?”, ông bác sĩ nói. “Vậy thì cô ấy chỉ khạc ra một chút máu khi ho thôi, đúng không?”
“Khạc ư?”, người kia nói. Không phải ngôn từ mà chính là giọng điệu của anh ta mới đáng chú ý. Nó không hướng vào ông bác sĩ và còn hơn cả tiếng cười, cứ như thể cái đích nó nhằm tới không tiếp thu được tiếng cười; không phải ông bác sĩ - người sở hữu đôi chân ngắn ít vận động vẫn rảo bước về phía trước theo ánh đèn pin nhấp nhoáng, tiến về hướng có ánh đèn lờ mờ đang đợi họ - mà là tín hữu Báp-tít dường như đã dừng lại trong khi người đàn ông trong ông nghĩ, không phải trong cơn sửng sốt mà trong nỗi kinh ngạc đầy thất vọng: Mình sẽ phải mãi mãi sống phía sau chướng ngại của sự ngây thơ bất diệt giống một con gà bị nhốt trong chuồng ư? Ông nói rõ ràng và khá thận trọng; tấm màn bí mật giờ đây đang chuyển động giãn ra, nó sắp sửa tách rời và ông không muốn thấy những điều nằm sau tấm màn ấy; ông biết rằng vì sự thanh thản của tâm hồn mình sau này, ông không dám chứng kiến sự thật và cũng hiểu giờ thì đã quá muộn và ông chẳng thể cứu nổi mình nữa; ông nghe thấy giọng nói của chính mình cất lên câu hỏi ông không muốn hỏi, để rồi phải nhận câu trả lời mà mình không muốn nghe:
“Anh nói rằng cô ấy đang bị chảy máu. Cô ấy bị chảy máu ở đâu?”
“Ở chỗ mà phụ nữ thường bị chảy máu chứ còn ở đâu nữa hả?” Người kia trả lời, gần như gào lên bằng giọng bực tức, và vẫn không dừng lại. “Tôi không phải là bác sĩ. Nếu là bác sĩ, thì việc gì tôi phải lãng phí năm đô la cho ông hả?”
Ông bác sĩ không nghe thấy những lời anh ta nói. “Phải”, ông lẩm bẩm. “Phải. Tôi hiểu. Phải.” Ông không dừng lại. Ông biết chẳng thể dừng lại bởi vì gió vẫn không ngừng thổi qua. Bởi vì mình không còn ở cái tuổi thích hợp cho chuyện này, ông nghĩ. Nếu hai mươi lăm tuổi thì mình có thể nói, ơn Chúa mình không phải là anh ta vì mình biết đó chỉ là may mắn ngày hôm nay thôi và có thể ngày mai hoặc năm sau chuyện đó sẽ xảy ra với mình, vậy nên mình không cần phải ghen tị với anh ta. Và nếu sáu mươi lăm tuổi thì mình có thể nói, tạ ơn Chúa mình không phải là anh ta bởi khi đó mình nhận ra mình quá già nên chuyện đó không thể xảy ra với mình, vậy nên chẳng việc gì phải ghen tị với anh ta bởi vì anh ta có bằng chứng của tình yêu, của đam mê trên cơ thể cho thấy anh ta chưa chết. Nhưng bây giờ mình bốn mươi tám tuổi và mình cho rằng mình không đáng phải biết chuyện này. “Đợi đã”, ông nói, “đợi đã”. Người kia dừng lại; họ đứng đối diện với nhau, hơi nghiêng người trong gió đêm đầy những âm thanh khô khốc hoang dại của những cây cọ.
“Tôi đề nghị được trả công cho ông”, người kia nói. “Năm đô la không đủ sao? Nếu không đủ thì ông hãy cho tôi biết tên của người nào đó chấp nhận mức thù lao này và cho tôi gọi nhờ điện thoại, được không?”
“Đợi đã”, ông bác sĩ nói. Vậy là gã Cofer đã nói đúng, ông nghĩ. Anh và cô ta không phải là vợ chồng. Có điều tại sao anh lại phải nói với tôi như vậy nhỉ? Tất nhiên ông chỉ nghĩ thôi, không thốt ra câu đó, thay vì thế ông nói: “Anh chưa... Anh chưa... Anh làm nghề gì nhỉ?”.
Người kia cao hơn ông bác sĩ, hơi cúi đầu trong gió mạnh, nhìn xuống ông với vẻ sốt ruột và cam chịu đầy bứt rứt. Trong gió đêm, ngôi nhà đơn sơ trở nên vô hình, ánh sáng lờ mờ không phải được đóng khung bởi bất kỳ ô cửa chính hay cửa sổ nào mà giống như một như một mảnh cờ xỉn màu, xám xịt, bất động trong gió. “Tôi làm gì á?”, anh ta nói. “Tôi đang cố trở thành một thợ vẽ. Ông hỏi thế là có ý gì?”
“Một thợ vẽ ư? Nhưng ở đây làm gì có hoạt động xây dựng, cũng chẳng có sự bùng nổ hay phát triển nào cả1. Tất cả đã lụi tàn từ chín năm trước rồi. Anh muốn nói rằng anh đến đây mà không có lời mời làm việc cũng như hợp đồng gì ư?”
1 Trong nguyên tác, ở tình huống này, cả Wilbourne và ông bác sĩ đều dùng từ “painter”.Trong tiếng Anh, “painter” có nghĩa là họa sĩ, nhưng cũng có nghĩa là thợ sơn nhà.
“Tôi vẽ tranh”, người kia nói. “Chí ít, tôi nghĩ mình vẽ tranh... Sao hả? Tôi có được phép sử dụng điện thoại của ông hay không?”
“Anh vẽ tranh”, ông bác sĩ nói bằng giọng khẽ ngạc nhiên, cái giọng mà ba mươi phút sau và ngày hôm sau, ngày hôm sau nữa cứ lơ lửng giữa nỗi oán hận, tức giận và thất vọng: “Có lẽ cô ấy vẫn đang bị chảy máu. Đi thôi”. Họ bước đi. Ông vào nhà trước; ngay lập tức hiểu rằng mình đã đi trước người đàn ông kia và không giống như một vị khách, thậm chí cũng chẳng giống người sở hữu ngôi nhà, mà bởi ông tin rằng mình là một trong hai người có quyền bước vào ngôi nhà đó chừng nào người đàn bà kia còn trong ấy. Giờ đây, họ không còn ở ngoài trời đầy gió nữa. Giờ đây, gió, rầu rĩ và đen ngòm, mạnh và không thể đo lường được, tựa vào cánh cửa mà người đàn ông có tên Harry đã đóng lại phía sau lưng họ, ngay lập tức ông bác sĩ lại ngửi thấy mùi của món xúp mướp tây ôi. Ông thậm chí còn biết món đó được để chỗ nào trong gian bếp lạnh lẽo vì ông đã quá thông thuộc nơi này, và biết món xúp chưa hề được đụng tới (Họ thậm chí không nếm nó, ông nghĩ. Nhưng tại sao họ lại phải nếm món đó chứ nhỉ? Nhân danh Chúa, tại sao họ lại phải nếm nó chứ?). Cái bếp sứt mẻ, bộ xoong nồi đơn sơ, bộ dao nĩa xoàng xĩnh, những chiếc cốc, cái chén cọc cạch từng đựng mứt và hoa quả dầm được sản xuất hàng loạt và dán nhãn lòe loẹt. Ông biết rõ toàn bộ căn nhà này, ông sở hữu và xây dựng nó - những bức tường gỗ mỏng (chúng thậm chí không được nối với nhau bằng mộng ngàm như tường của căn nhà ông đang ở mà chỉ có những mối nối giả đã bị mưa nắng tác động và khí ẩm của biển làm cong vênh, lộ ra tất cả những thứ cần được che đi giống như chiếc quần rách để lộ da thịt) đầy những tiếng rì rầm của các hồn ma từ một nghìn ngày đêm được sử dụng làm chỗ tá túc của những người thuê nhà; những ngày đêm mà ông bác sĩ (không phải vợ ông) từng nhắm mắt lại, khăng khăng một niềm rằng luôn luôn có người thứ ba trong bất kỳ nhóm người hỗn tạp nào đã ở lại đây qua đêm trừ cặp đôi mới đến thuê nhà này, những người lạ tự xưng một cách đàng hoàng là vợ chồng, mặc dù bây giờ ông biết rõ và chắc chắn vợ ông cũng thừa hiểu họ không phải vợ chồng. Bởi vì ngày mai cái cảm giác giận dữ và oán hận này sẽ đan xen với nỗi thất vọng: Tại sao anh cứ nhất thiết phải nói với tôi chứ, ông nghĩ. Những người thuê nhà khác có đem chuyện của họ nói với tôi đâu, có làm phiền tôi đâu, có mang chuyện rắc rối đến đây đâu, mặc dù tôi không biết họ có thể đã mang đi khỏi đây những gì.
Ngay lập tức, ông có thể nhìn thấy ánh sáng đèn lờ mờ phía bên kia cánh cửa để mở. Nhưng nếu không có ánh sáng đó thì ông cũng biết đâu là cánh cửa có giường ngủ phía sau, chiếc giường mà vợ ông nói sẽ không nỡ để làm chỗ ngủ cho một người hầu da đen; ông có thể nghe thấy tiếng bước chân của người đàn ông kia phía sau mình và lần đầu tiên chợt nhận ra rằng người đàn ông có tên Harry vẫn đi chân trần sắp sửa đi vượt qua ông để bước vào phòng trước, rồi ông nghĩ (với tư cách là bác sĩ) mình, người thực ra có một phần nhỏ duy nhất cái quyền được bước vào căn phòng, có thể kiềm chế, và cảm thấy có một nhu cầu mãnh liệt được cười thành tiếng khi nghĩ, Các người thấy đấy, tôi không biết quy ước trong những trường hợp như thế này bởi vì khi còn trẻ và còn sống ở thành phố nơi mà những chuyện như thế này xảy ra, tôi nghĩ rằng mình sợ, quá sợ hãi, rồi ông dừng lại bởi người kia đã làm như vậy: Vì thế với cái nhìn mà bản thân không ý thức được là khả năng thấy được các sự việc bị che khuất hoặc ở ngoài tầm mắt, ông dường như cảm giác cả hai người bọn họ đều đã dừng lại như thể để cho phép cái bóng người chồng hợp pháp của người đàn bà đang ở trong phòng, người hiện vắng mặt và đang tức giận, có quyền chính đáng đi vượt lên trước họ. Một tiếng động từ trong phòng vọng ra - âm thanh của một cái chai chạm vào ly - khiến họ dấn bước.
“Đợi một chút”, người đàn ông tên Harry nói. Anh ta bước vội vào phòng; ông bác sĩ nhìn thấy chiếc quần bò bạc, quá chật so với người đàn bà được vắt trên chiếc ghế gấp dùng để ngồi hóng gió trên bãi biển. Nhưng ông không nhúc nhích. Ông chỉ đứng yên nghe tiếng bước chân trần của người đàn ông trên sàn nhà và sau đó nghe thấy giọng nói căng thẳng, không to, trầm trầm và khẽ khàng của anh ta. Vậy là bỗng nhiên ông nhận ra rằng mình biết tại sao trên khuôn mặt của người đàn bà mình nhìn thấy trước đó không hề có biểu hiện đau đớn hay sợ hãi nào, rằng chính người đàn ông mới đang mang nỗi đau đớn hoặc sợ hãi như khi mang những khúc củi rều (chắc chắn không còn nghi ngờ gì nữa) dùng để nấu nướng cho cô ta. “Không, Charlotte”, anh ta nói. “Em không được làm thế. Em không thể làm thế. Hãy trở lại giường nằm đi.”
“Tại sao tôi lại không thể?”, người đàn bà cất giọng. “Tại sao tôi lại không thể hả?” Và giờ đây ông bác sĩ có thể nghe thấy họ đang cãi cọ. “Hãy để mặc tôi, đồ khốn vụng về” (Ông bác sĩ tin rằng mình đã nghe thấy từ “rat”). “Anh đã hứa rồi mà, rat. Đó là tất cả những gì em đòi hỏi ở anh và anh đã hứa rồi mà. Bởi vì, nghe này, rat...” Ông bác sĩ có thể nghe thấy từ đó, và giờ đây giọng nói trở nên khó nghe, đầy bí mật: “Không phải là anh ta, anh biết mà. Không phải là gã con hoang Wilbourne ấy đã làm chuyện đó đâu. Em đã rũ bỏ gã đó giống như đã rũ bỏ anh. Là người khác kia. Dù có chuyện gì xảy ra, anh cũng không được động đến anh ta. Em tự biện hộ cho cái mông của mình giống như người ta biện hộ cho cái bụng của họ và không ai biết sự thật về một con điếm như thế nào để mà kết tội một ai đó...”. Ông bác sĩ có thể nghe thấy tiếng bước đi của hai đôi chân trần; tiếng động nghe như thể họ đang khiêu vũ một cách cuồng nhiệt trong chốc lát mà không mang giầy. Sau đó tiếng động ngừng lại, giọng nói không còn khó nghe cũng không còn vẻ bí mật nữa. Nhưng nỗi thất vọng ở đâu nhỉ? Ông bác sĩ nghĩ. Cơn khiếp sợ ở đâu nhỉ? “Ôi Chúa ơi, em lại bị như thế rồi. Harry! Harry! Anh đã hứa rồi mà.”
“Anh hiểu. Được rồi. Quay về giường đi.” “Đưa ly rượu cho em.”
“Không. Anh đã nói và giải thích tại sao em không được uống nữa. Bây giờ em còn đau lắm không?”
“Chúa ơi, em không biết nữa. Em không biết mình có đau lắm hay không. Hãy đưa cho em một ly rượu đi, Harry. Có thể nó lại bắt đầu đấy.”
“Không. Không thể. Muộn rồi. Vả lại bác sĩ đã đến rồi. Ông ấy sẽ lo chuyện đó. Anh sẽ mặc đồ cho em để ông ấy có thể vào trong này.”
“Và để cái váy ngủ duy nhất em có bị dính máu ư?” “Đó chính là lý do tại sao chúng ta có cái váy ngủ. Có thể đó là tất cả những gì cần phải có để bắt đầu giải quyết chuyện này. Thôi nào.”
“Tại sao lại phải mời bác sĩ chứ? Tại sao phải tốn năm đô la hả? Đồ vô tích sự... Không không không không. Nhanh lên. Nó lại bắt đầu rồi. Chặn nó lại nhanh lên. Em đau. Em không thể chịu nổi. Ôi, chết tiệt thật, chết tiệt thật...”, người đàn bà bắt đầu cười; đó là tiếng cười khó nhọc, không to, giống như tiếng nôn ọe hoặc tiếng ho. “Đấy. Nó đấy. Giống như súc sắc. Bảy rồi mười một. Có lẽ nếu như em có thể tiếp tục nói...” Ông bác sĩ có thể nghe thấy tiếng của hai đôi chân trần trên sàn nhà, tiếp đến là tiếng rên rỉ của đệm lò xo, người đàn bà vẫn cười - tiếng cười không to, đầy khó hiểu, và chất ngất nỗi thất vọng mà ông đã nhìn thấy trong mắt cô ta khi đưa bát xúp mướp tây cho cô ta buổi trưa hôm ấy. Ông đứng đó, ôm chiếc túi nhỏ màu đen sờn cũ đựng thuốc men và y cụ của mình, nhìn chiếc quần bò bạc phếch giữa đám trang phục đang vắt trên ghế; rồi ông thấy người đàn ông có tên Harry quay ra, nhặt chiếc váy ngủ trong đám quần áo đó lên và lại biến mất; ông bác sĩ nhìn chiếc ghế. Đúng, ông nghĩ. Anh ta mang nỗi đau đớn hoặc sợ hãi giống như mang những khúc củi rều vậy. Rồi ông thấy người đàn ông tên Harry xuất hiện trở lại ở cửa phòng.
“Bây giờ ông có thể vào được rồi”, anh ta nói.