• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Cọ hoang
  3. Trang 8

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • Sau

Cọ hoang

B

uổi sáng ngày thứ Hai, khi thức dậy trong một khách sạn ở Chicago, Wilbourne nhận thấy Charlotte đã mặc quần áo và đi ra ngoài, mang theo mũ, áo khoác cùng túi xách tay, để lại một mảnh giấy viết tay nguệch ngoạc mà trong trạng thái chưa hoàn toàn tỉnh ngủ, thoạt nhìn bạn tưởng mình đã ở với một người đàn ông cho đến khi hiểu ra đó là nét chữ của phụ nữ: Trưa sẽ về. C. và bên dưới chữ viết tắt đó có dòng chữ: Hoặc có thể muộn hơn. Charlotte trở về trước buổi chiều khi anh đã lại ngủ; cô ngồi bên giường, luồn những ngón tay vào tóc anh rồi lay lay đầu anh trên gối để đánh thức anh dậy; cô vẫn mặc nguyên áo khoác không cài cúc và đội chiếc mũ hơi lệch ra sau, nhìn xuống anh bằng đôi mắt màu vàng nghiêm nghị, và giờ đây, quả thực anh lại ngẫm nghĩ về khả năng sắp xếp cuộc sống trong mối quan hệ ngoài hôn nhân của phụ nữ. Đó không phải là sự tằn tiện hay khả năng quán xuyến, mà là năng lực vượt trên những điều đó, phụ nữ (toàn bộ phái nữ) được tạo hóa ban cho khả năng không thể sai hỏng, một khả năng hòa hợp tự nhiên với bản chất của người đàn ông mà họ quan hệ cũng như với hoàn cảnh, và nếu cần, có thể thể hiện tính keo kiệt không chút thú vị của một bà vợ nông dân vùng Vermont được kể trong truyện ngụ ngôn hoặc thói hoang phí đến mức phi lý của người tình trong kịch trào phúng của sân khấu kịch Broadway mà hoàn toàn không để ý đến giá trị thực chất của phương pháp tiết kiệm hoặc lãng phí mình đang áp dụng, cũng chẳng bận lòng lắm về thứ đồ trang sức lòe loẹt rẻ tiền mình đã mua hoặc không có; họ sử dụng cả sự hiện hữu lẫn thiếu vắng của trang sức hoặc tài chính như những con tốt trên bàn cờ trong cuộc chơi với phần thưởng không phải sự an toàn mà là sự đứng đắn trong môi trường mình sống, thậm chí trong cái tổ uyên ương ở dưới bụi hoa hồng, để tuân theo một luật lệ hoặc mô hình; anh nghĩ, Không phải sự lãng mạn của tình yêu bất chính cuốn hút phụ nữ, cũng chẳng phải vì lý tưởng đầy đam mê của hai kẻ bị nguyền rủa, đày đọa, bị thế giới và Thượng đế xa lánh đã lôi cuốn họ mà vì ý niệm về tình yêu bất chính là một thách thức, bởi họ có một niềm khao khát không thể cưỡng lại được (và một niềm tin không gì lay chuyển nổi rằng họ có thể vượt qua thách thức ấy, giống như ai đó tin rằng mình có thể quản lý một nhà trọ vậy), niềm khao khát chấp nhận tình yêu bất chính và biến nó thành tình yêu chân chính, chấp nhận chàng Lothario1 và tỉa những món tóc quăn của người đàn ông độc thân đã nhử họ vào cái bẫy của sự đứng đắn trên những chuyến tàu ngoại ô lộn xộn vào ngày thứ Hai. “Em tìm được rồi”, cô nói. “Tìm được gì cơ?”

1 Nhân vật đào hoa chuyên quyến rũ phụ nữ trong tác phẩm nổi tiếng Đôn Ki-hô-tê của nhà văn Tây Ban Nha Xéc-van-tét.

“Một căn hộ. Một căn phòng. Nơi chúng ta có thể ở và cũng là nơi để em làm việc.”

“Cũng là nơi để em làm việc ư?” Với chứng đãng trí hoang dã, cô lại túm tóc anh rồi lắc mạnh và thực sự làm anh đau chút ít; một lần nữa anh lại nghĩ, Con người nàng phần nào chẳng yêu bất kỳ ai hay bất cứ thứ gì; rồi sau đó một suy luận sâu sắc tựa như tiếng sét ngầm - một luồng ánh sáng trắng - hoặc bản năng, anh không biết rõ nó là gì, lóe lên trong đầu anh: Tại sao nhỉ, vì nàng cô đơn chăng? Không phải là cô đơn. Nàng có cha cùng bốn người anh và cưới người đàn ông giống anh trai mình, và có lẽ từ bé đến giờ nàng chưa từng có được một khoảng trời riêng thế nên nàng phải sống cả cuộc đời trong nỗi cô đơn tuyệt đối và thậm chí không biết đến tình yêu, giống như một đứa trẻ chưa bao giờ nếm bánh và chẳng biết bánh là gì.

“Đúng vậy. Anh nghĩ rằng một nghìn hai trăm đô la đủ cho chúng ta sống mãi mãi ư? Anh sẽ sống trong cảm giác tội lỗi; anh không thể sống bằng những đồng tiền đó được.”

“Anh biết chứ. Tối hôm ấy anh đã suy nghĩ về điều đó trước khi nói với em qua điện thoại rằng anh có một nghìn hai trăm đô la. Nhưng đây là tuần trăng mật; chuyện đó để sau...”

“Em biết.” Cô lại túm tóc anh và làm anh đau mặc dù bây giờ anh biết cô ý thức được điều đó. “Nghe này: Sẽ luôn luôn là tuần trăng mật. Mãi mãi và mãi mãi, cho đến khi một trong hai chúng ta chết. Sẽ không thể là bất cứ gì khác. Không phải thiên đường, chẳng phải địa ngục: Không có sự chuộc tội thanh thản an toàn thoải mái nào để anh và em mong ngóng cho đến khi đạo đức, khả năng kiên nhẫn chịu đựng, nỗi hổ thẹn hoặc ăn năn chiến thắng chúng ta.”

“Vậy anh không phải là nơi em đặt niềm tin, mà là tình yêu”, anh nói và cô nhìn anh. “Không phải anh, chẳng phải bất cứ ai.”

“Đúng vậy. Tình yêu. Khi người ta nói rằng tình yêu giữa hai người nào đó đã chết, điều đó không đúng. Tình yêu không chết. Nó chỉ chối bỏ và rời xa anh, nếu anh không đủ tốt và không còn xứng đáng với nó nữa. Tình yêu không chết, chỉ anh chết thôi. Tình yêu giống như đại dương ấy: Nếu anh không tốt và làm vẩn đục nó, nó sẽ nôn anh ra một nơi nào đó để anh chết. Anh sẽ chết, nhưng em thích chết ở biển hơn là bị nôn ra trên bờ biển, chết khô dưới ánh mặt trời với một vết nhơ hôi thối vô danh, và chỉ có mấy chữ Đây là... trên bia mộ. Dậy đi nào. Em đã nói với người cho thuê nhà rằng chúng ta sẽ chuyển đến đó trong hôm nay.”

Trong vòng một giờ sau, họ rời khách sạn với những chiếc túi xách, bắt taxi tới căn hộ cô thuê; họ leo lên ba tầng cầu thang. Cô thậm chí đã có chìa khóa trong tay và mở cửa cho anh vào; anh biết không phải cô đang nhìn căn phòng mà là nhìn mình. “Thế nào?”, cô nói. “Anh thích không?”

Đó là một căn phòng lớn hình chữ nhật với ô cửa sổ trần ở phía bắc, có lẽ là công trình thủ công của một nhiếp ảnh gia bị phá sản hoặc đã chết hay cũng có thể là của một người thuê nhà là điêu khắc gia hoặc một họa sĩ, với bếp và buồng tắm được xây thụt vào một cách kín đáo. Nàng đã thuê căn phòng có ô cửa sổ trần này, anh thầm nghĩ, trong khi phụ nữ nói chung khi thuê nhà thường quan tâm đến buồng vệ sinh. Họ chỉ cần có một chỗ để ngủ và nấu ăn thôi. Nàng đã chọn một chỗ không phải để cả hai trú ngụ mà để giữ gìn tình yêu; không phải nàng đơn giản chỉ chạy khỏi người đàn ông này để đến với người đàn ông khác; chỉ muốn đổi một mẩu đất sét mà nàng đã nặn thành một bức tượng bán thân để lấy một mẩu đất sét khác. Anh bước vào phòng, và nghĩ, Có lẽ không phải mình đang ôm nàng mà là đang bám lấy nàng bởi có điều gì đó trong con người mình không thừa nhận rằng bọn mình có thể trụ được, hoặc không tin vào điều ấy. “Ổn đấy”, anh nói. “Chỗ này được đó. Giờ thì không gì có thể đánh bại chúng ta.”

Trong sáu ngày tiếp theo, anh cua một vòng tới các bệnh viện, phỏng vấn (hoặc được phỏng vấn bởi) các giám đốc và những người phụ trách nhân sự ở những nơi ấy. Đó là các cuộc phỏng vấn ngắn. Anh không kén chọn việc và có bằng Y khoa do một trường có uy tín cấp để giới thiệu, chào mời; anh đã trải qua hai mươi tháng làm bác sĩ thực tập nội trú tại một bệnh viện danh tiếng, tuy vậy thường thì cứ sau khoảng ba hoặc bốn phút đầu, anh lại nhận ra có điều gì đó không ổn. Anh biết đó là điều gì, mặc dù đã tự nhủ rằng sự thực không phải như vậy (khi anh ngồi trên chiếc ghế đầy nắng giữa những kẻ nhàn rỗi, người chăm sóc cây cối, bảo mẫu và những đứa trẻ trong một công viên): Mình chưa thực sự cố gắng và cũng không thực sự hiểu rõ mức độ cần thiết của sự cố gắng vì mình đã hoàn toàn chấp nhận các quan niệm của nàng về tình yêu; mình có một niềm tin vô hạn rằng mình sẽ được tình yêu bao bọc và nuôi dưỡng như người nông dân ở vùng Mississippi hoặc Louisiana được cải đạo tại một Hội trại phục hồi đức tin, hết lòng ngưỡng vọng tôn giáo mà anh ta tôn thờ, biết rằng lý do không phải vậy, mà là vì anh mới chỉ làm bác sĩ thực tập nội trú được hai mươi tháng thay vì hai mươi tư tháng như quy định, và anh thầm nghĩ, Mình đã bị những con số làm cho thất bại, rồi lại nghĩ, hình như người ta quan niệm rằng thà chết trong sự thơm tho còn hơn được cứu sống bởi một kẻ bỏ đạo.

Cuối cùng, anh cũng tìm được một công việc bình thường tại phòng xét nghiệm của bệnh viện từ thiện thuộc một quận có nhiều người da đen sinh sống, nơi các nạn nhân của rượu hoặc bị thương do súng lục và dao thường được cảnh sát đưa tới, và công việc của anh là làm thủ tục xét nghiệm cho những bệnh nhân mắc bệnh giang mai. “Làm công việc đó, em không cần đến kính hiển vi hay công cụ xét nghiệm của Wassermann”, tối hôm ấy anh nói với cô. “Tất cả những gì em cần là lượng ánh sáng đủ để em có thể biết họ thuộc chủng tộc nào.” Cô gác hai tấm ván lên khung phía dưới của ô cửa sổ trần để tạo thành cái mà cô gọi là “bàn làm việc” và là chỗ mà thỉnh thoảng cô đặt lên đó một túi đựng thạch cao được mua từ tiệm tạp hóa giá rẻ dù anh không thật sự quan tâm cô định làm gì với thứ đó. Giờ đây, cô cắm cúi bên bàn với một mảnh giấy và một chiếc bút chì trong khi anh nhìn đôi bàn tay không thon dài nhưng mềm mại của cô đang viết ra những con số ngổn ngang trên mặt giấy với tốc độ rất nhanh.

“Một tháng anh sẽ kiếm được từng này”, cô nói. “Và mỗi tháng chúng ta tiêu hết từng này. Và chúng ta có từng này để bù vào các khoản chi tiêu.” Các con số lạnh lùng, rõ rành rành, những nét bút chì tạo cho chúng vẻ khinh miệt, chắc chắn; giờ đây cô cũng bảo đảm rằng hàng tuần, anh không chỉ gửi cho chị gái khoản tiền anh muốn hoàn trả mà còn cả một khoản tương đương với tiền phòng và tiền ăn tại một khách sạn ở New Orleans trong sáu tuần. Rồi cô ghi một mốc thời gian bên cạnh con số cuối cùng; đó là một ngày đầu tháng Chín. “Đến ngày đó chúng ta sẽ không còn đồng nào cả.”

Anh nhắc lại điều mình đã nghĩ ra khi ngồi ở công viên ngày hôm ấy: “Sẽ ổn cả thôi. Anh phải quen với tình yêu đã. Trước đây anh chưa bao giờ trải nghiệm nó; em thấy đấy, anh đã bỏ qua ít nhất mười năm ở phía sau. Anh vẫn chưa quen với cuộc sống mới này mà. Nhưng anh sẽ sớm vào guồng thôi”.

“Đúng vậy”, cô nói. Rồi cô vò mảnh giấy, búng nó đi và quay về phía anh. “Nhưng điều đó không quan trọng. Chỉ là thịt hầm hay bánh hăm-bơ-gơ thôi mà. Và đói không phải là đói ở đây...” Cô vỗ vào bụng anh một cái. “Ở đây chỉ là cái dạ dày của anh đang réo thôi. Cái đói thực sự ở đây này.” Cô chỉ vào ngực anh. “Đừng bao giờ quên điều đó nhé.” “Anh sẽ không quên đâu. Không phải bây giờ.” “Nhưng anh có thể sẽ quên. Cơn đói sẽ xuống tới đây, tới bụng và anh sẽ sợ nó. Bởi vì ít nhiều anh luôn sợ những gì mình đấu tranh để chống lại. Nếu trước đây đã từng yêu rồi thì trưa hôm đó anh sẽ không ở trên chuyến tàu ấy. Đúng không?”

“Đúng vậy”, anh nói. “Đúng. Đúng thế.”

“Vậy vấn đề không chỉ là rèn cho trí não nhớ rằng, đói không phải là ở dạ dày. Mà chính cái dạ dày của anh phải tin điều đó. Cái dạ dày của anh có tin điều đó không hả?”

“Có”, anh nói. Chỉ có điều bản thân nàng không thật chắc chắn về điều đó, anh nghĩ thầm, bởi vì ba ngày sau khi từ bệnh viện trở về, anh thấy bàn làm việc của cô bày đầy những mẩu dây kim loại bị vặn xoắn và những lọ sen-lắc, keo hồ, những mẩu gỗ của bút chì, vài tuýp màu vẽ và một cái chảo nước ngâm giấy lụa - những thứ mà sau hai ngày đã trở thành một bộ sưu tập các bức tượng nhỏ - tượng những con nai, ngựa và chó săn, tượng đàn ông, đàn bà và cả những bức tượng không rõ giới tính - tinh xảo và lạ mắt, toát lên vẻ dị thường và phi lý; chiều hôm sau nữa khi trở về, anh không thấy cô và những bức tượng ấy đâu. Một giờ sau cô trở về, đôi mắt màu vàng của cô trông như mắt mèo trong bóng tối, không vui mừng cũng chẳng hân hoan mà đúng hơn là đầy quả quyết, cùng với tờ bạc mười đô la mới cứng.

“Ông ta đã mua tất cả những bức tượng đó”, cô kể, và nói tên của một cửa hàng bách hóa nổi tiếng. “Sau đó ông ta để em trưng bày các bức tượng đó trong một gian hàng. Em có thêm đơn đặt hàng trị giá một trăm đô la - làm tượng các nhân vật lịch sử liên quan đến Chicago. Anh biết đấy - tượng bà O’Leary với khuôn mặt kiểu Nero cùng với một con bò sữa và cây đàn Hawaii, Kit Carson với đôi chân như Nijinsky và không có mặt, chỉ có hai con mắt cùng vầng trán nhô ra để che cho chúng, những con trâu cái đầu to, hông nở. Và còn tất cả các cửa hàng khác ở đại lộ Michigan nữa. Đây. Anh cầm lấy này.”

Anh từ chối. “Đó là tiền của em. Tiền em kiếm được mà.” Đôi mắt màu vàng của cô đăm đăm nhìn anh không chớp - cái nhìn khiến anh bối rối như một con sâu bướm, một con thỏ lúng túng trong luồng sáng đèn pin; một sự bao phủ gần giống lớp kết tủa hóa học dạng lỏng mà trong đó tất cả cặn bã của sự dối trá nhỏ nhặt và tính ủy mị đều tan rã. “Anh không...”

“Anh không thích cái ý niệm người đàn bà của mình giúp mình một tay lo cơm áo, đúng không? Nghe này. Anh không thích những gì chúng ta đang có sao?”

“Em biết là anh thích mà.”

“Vậy thì việc chúng ta phải trả giá như thế nào đâu có quan trọng gì, đúng không? Tiền mà chúng ta có bây giờ là thứ anh nhặt được của người khác; anh sẽ không làm thế nữa, đúng không? Vì tình yêu, chúng ta làm thế không đáng ư, cho dù ngày mai tất cả sẽ tan vỡ và chúng ta phải dành hết phần đời còn lại để trả lãi?”

“Em nói đúng. Chỉ có điều không phải là ngày mai tất cả sẽ tan vỡ. Cũng không phải tháng sau. Cũng chẳng phải năm sau...”

“Không. Chừng nào chúng ta còn xứng đáng được giữ tình yêu, nó sẽ không tan vỡ. Chừng nào chúng ta đủ tốt. Chừng nào chúng ta đủ mạnh mẽ. Chừng nào chúng ta xứng đáng được phép có nó. Hãy cố gắng đạt được những gì anh muốn một cách đàng hoàng nhất có thể, rồi hãy giữ gìn nó. Hãy giữ gìn nó.” Cô bước tới, choàng tay ôm anh thật chặt, ghì người vào cơ thể anh, không phải bằng sự âu yếm mà giống như cái cách cô túm tóc anh để đánh thức anh dậy. “Đó là những gì em sẽ làm và cố gắng làm. Em thích nặn tượng bằng đôi tay mình. Em không nghĩ rằng việc mình thích, muốn có và giữ bấy nhiêu đó là quá đáng.”

Cô kiếm được khoản tiền một trăm đô la từ đơn hàng đó, và giờ thì cô làm việc hằng đêm sau khi anh đã lên giường ngủ được một lúc; trong năm tuần tiếp theo cô kiếm thêm được hai nghìn tám trăm đô la nữa, rồi thực hiện một hợp đồng trị giá tới năm nghìn đô la. Sau đó cô không thể kiếm thêm được đơn đặt hàng nào nữa. Tuy nhiên cô vẫn tiếp tục làm việc, đêm nào cũng vậy, bởi vì ban ngày cô ra ngoài mang theo những mẫu tượng cùng tượng đã hoàn thiện, và bây giờ cô thường làm việc dưới sự quan sát của ai đó khi căn hộ của họ đã trở thành một câu lạc bộ. Đầu tiên là tay nhà báo McCord làm việc cho một tờ báo ở New Orleans lúc người anh ít tuổi nhất của Charlotte mới vào đó tập tọng viết lách. Cô gặp McCord trên đường phố, một hôm anh ta đến ăn tối và một hôm khác anh ta mời họ đi ăn; ba ngày sau, anh ta xuất hiện tại căn hộ của họ vào buổi tối cùng ba người đàn ông, hai người phụ nữ và bốn chai whiskey, rồi sau đó Wilbourne không bao giờ đoán được khi về nhà anh sẽ thấy ai ở đó, chỉ biết rằng Charlotte không ở nhà một mình và, cho dù có mặt ai, cho dù tình trạng ế ẩm đã kéo dài nhiều tuần và mùa hè đã ở trước mặt, cô vẫn làm việc trong bộ áo liền quần rẻ tiền, bẩn thỉu giống như bộ đồ của bất cứ họa sĩ làm việc ở nhà nào với một ly rượu whiskey pha nước lọc được để giữa những sợi kim loại cong queo, những lọ keo hồ, màu vẽ và thạch cao - các chất liệu không ngừng được biến thành các bức tượng tinh xảo, lạ lùng, trông thật kỳ dị và phi lý.

Rồi cô nhận được đơn đặt hàng cuối cùng - một đơn hàng nhỏ mà khi thực hiện xong, cô không nhận thêm được bất cứ đơn đặt hàng nào nữa. Việc bán những bức tượng của cô chấm dứt một cách đột ngột và không thể lý giải nổi giống y như cái cách nó bắt đầu. Ở các cửa hàng, người ta nói với cô rằng bây giờ là mùa hè rồi và các khách du lịch cũng như dân cư sinh sống ở đây đang rời khỏi thành phố để tránh cái nóng như nung người. “Họ nói dối”, cô bảo. “Mặt hàng đó đã bão hòa rồi thì có”, cô nói với anh cũng như tất cả những người đến căn hộ của họ như vậy: Đó là vào một buổi tối, cô trở về nhà muộn cùng một hộp các tông đựng đầy các bức tượng bị từ chối, khi tất cả những người hay lui tới nơi ở của họ đã có mặt đông đủ. “Tôi đã biết trước điều này rồi. Bởi vì những thứ này chỉ để mua vui mà thôi.” Cô lôi những bức tượng ra khỏi hộp và đặt chúng trở lại bàn làm việc. “Chúng giống như thứ gì đó được tạo ra chỉ để sống ở nơi tối tăm thiếu không khí, như trong phòng bọc sắt của ngân hàng hoặc trong đầm lầy đầy khí độc, chứ không phải ở những nơi đầy dưỡng khí trong lành của cây xanh ở Oak Park và Evanston. Đúng thế đấy. Bây giờ tôi không còn là một họa sĩ nữa, tôi mệt và đói, tôi sẽ nằm cuộn tròn với một trong những cuốn sách hay và một mẩu vỏ bánh mì mà bọn tôi có. Vậy nên tất cả các bạn, mỗi người hãy bước tới cái bàn này, tự chọn cho mình một bức tượng nhân dịp này, và đập vỡ nó đi.”

“Chúng ta vẫn có thể kiếm sống được mà”, anh nói với cô. Vả lại, nàng chưa dừng việc đó đâu, anh nghĩ. Nàng không từ bỏ đâu. Nàng sẽ không bao giờ từ bỏ, cũng giống như trước đó anh từng cho rằng có một phần nào đó trong con người cô mà anh cũng như Rittenmeyer chưa bao giờ chạm tới được - cái phần thậm chí không yêu cả tình yêu. Trong vòng chưa đầy một tháng, anh tin rằng mình đã có được bằng chứng cho điều đó; một hôm, anh về nhà và thấy cô lại đang cặm cụi bên bàn làm việc, với niềm phấn khích cao độ mà anh chưa từng thấy trước đó - một niềm phấn khích không thể gọi là hân hoan nhưng mãnh liệt và có sức thôi thúc không thể cưỡng nổi khi cô nói với anh về việc mình đang làm. Đó là một trong những người đàn ông mà McCord từng dẫn tới nhà họ - một nhiếp ảnh gia. Cô sẽ làm những con rối và búp bê, còn anh ta sẽ chụp ảnh chúng cho trang bìa và quảng cáo trên tạp chí; có lẽ sau đó người ta sẽ sử dụng những con rối thật trong các trò chơi đố chữ hay hoạt cảnh sân khấu - một đoàn múa rối, tàu ngựa cho thuê hoặc bất cứ thứ gì. “Đây là tiền của em”, cô nói với anh. “Một trăm hai mươi lăm đô la mà em chưa bao giờ thuyết phục được anh cầm chúng.”

Cô điên cuồng làm việc. Cô thường cặm cụi làm việc khi anh đã đi ngủ, còn anh thường thức vào lúc hai hoặc ba giờ sáng và nhận thấy bóng điện chói lóa phía trên bàn làm việc của cô vẫn thắp. Giờ đây, anh thường trở về căn hộ (đầu tiên là trở về từ bệnh viện, sau đó là từ ghế đá công viên - nơi anh giết thời gian ban ngày của mình sau khi mất việc, rời chỗ đó và về nhà vào giờ tan tầm như thường lệ để cô khỏi nghi ngờ) và nhìn thấy những bức tượng to cỡ gần bằng trẻ nhỏ - một bức tượng Đôn Ki-hô-tê với khuôn mặt hốc hác, ngẩn ngơ, mơ mộng, điên điên rồ rồ và một bức tượng Fanx-tap (một nhân vật trong kịch của Shakespeare) với khuôn mặt phì nộn toát lên vẻ mệt mỏi của một thợ cạo mắc bệnh giang mai (đó là tượng một nhân vật, nhưng khi quan sát nó anh dường như lại nhìn thành hai: Một người đàn ông và một khối thịt tựa như con gấu lớn, con gấu và người quản gấu mắc bệnh lao phổi ốm yếu; anh cảm thấy dường như mình có thể nhìn thấy người đàn ông vật lộn với cả đống ruột giống như người quản gấu vật nhau với con gấu, không phải để đánh bại mà để đi qua và trốn khỏi nó, tựa như bạn vật nhau với những con thú trong cơn ác mộng vậy), nhân vật Roxane với các lọn tóc xoăn tít và một nùi kẹo gôm trông chẳng khác gì người thuyết minh những tờ nhạc bướm trong cửa hiệu rẻ tiền, Cyrano1 với khuôn mặt của người Do Thái đang đóng vai hài xoàng xĩnh trong một vở hài kịch, một khuôn mặt với lỗ mũi không được tạo hình loe ra hệt như động vật thân mềm, một tay cầm mẩu pho mát, tay kia cầm tập ngân phiếu - tất cả những bức tượng đó được bày chất đống ở khắp mọi chỗ trong căn hộ, cả trên sàn lẫn trên tường, ngang ngạnh và mỏng manh, gây cảm giác khó chịu; chúng được tạo ra một cách nhanh chóng đến khó tin, được bắt đầu, tiếp tục và hoàn thiện dưới sự hối thúc của tính siêng năng mãnh liệt - trong một khoảng thời gian không phải được chia theo ngày và đêm kế tiếp nhau mà được chia thành từng quãng bởi hoạt động ăn và ngủ.

1 Roxane và Cyrano là nhân vật nam chính và nữ chính trong vở kịch Cyra- no de Bergerac của nhà soạn kịch người Pháp Edmond Rostand.

Thế rồi sau khi hoàn thành bức tượng cuối cùng, cô đi ra ngoài cả ngày, vắng nhà đến tận nửa đêm; anh thường trở về vào buổi chiều và thấy mấy chữ được viết nguệch ngoạc trên một mảnh giấy, một góc báo hoặc thậm chí trên cuốn danh bạ điện thoại: Đừng đợi em. Ra ngoài ăn đi, và anh làm như cô dặn rồi trở về, lên giường nằm, có hôm ngủ cho đến khi cô trần truồng bò lên giường (cô không bao giờ mặc đồ ngủ, cô nói với anh rằng mình chưa từng có một chiếc váy ngủ) đánh thức anh dậy, buộc anh phải nghe mình nói bằng những động tác như vật lộn, ôm anh trong vòng tay cứng rắn trong khi nói bằng giọng nhanh, trầm và dứt khoát, không phải về tiền hay việc thiếu tiền, không phải về những chi tiết của diễn biến trong ngày với hoạt động chụp ảnh, mà về cuộc sống và hoàn cảnh hiện tại của họ cứ như nó là một chỉnh thể trọn vẹn không quá khứ, không tương lai, một chỉnh thể mà trong đó họ là những cá nhân, còn nhu cầu về tiền cùng những bức tượng mà cô tạo ra là các phần cấu thành giống như của một hoạt cảnh hoặc trò đố chữ, không phần nào quan trọng hơn phần nào; nằm thả lỏng người trong bóng tối trong khi vẫn ôm anh, cô thậm chí chẳng cần biết anh có mở mắt hay không, anh dường như thấy cuộc sống chung của họ giống một quả cầu mong manh, một cái bong bóng mà cô cố giữ cho cân bằng, nguyên vẹn trong giông tố như một con hải cẩu được huấn luyện để giữ một quả cầu. Nàng còn bi đát hơn cả mình, anh nghĩ. Nàng thậm chí không biết có điều gì để hy vọng hay không.

Thế rồi việc làm rối và búp bê của cô cũng kết thúc đột ngột như việc cung cấp tượng trang trí cho các cửa hiệu. Một buổi tối, anh trở về thì thấy cô ở nhà và đang đọc sách. Bộ áo liền quần bẩn thỉu mà cô mặc trong nhiều tuần (bây giờ là tháng Tám) đã biến mất và bàn làm việc của cô giờ đây chẳng những không còn bày đầy các mẩu dây kim loại và màu vẽ mà còn được kéo ra giữa phòng và phủ một mảnh vải hoa sặc sỡ, một tập tạp chí cùng những cuốn sách được để ở một góc, ngạc nhiên hơn cả là trên bàn còn có một lọ hoa. “Em có vài thứ ở đây”, cô nói. “Chúng ta sẽ ăn tối ở nhà để thay đổi không khí.”

Cô có món sườn cừu hoặc món gì đó, trong khi chuẩn bị bữa ăn, cô đeo chiếc tạp dề cũng mới tinh như khăn trải bàn và lòe loẹt đến mức kỳ dị; anh chợt nghĩ sự thất bại, cũng đã tác động đến cô như tác động đến một người đàn ông, bằng cách mang đến cho cô sự khiêm tốn đáng quý song lại làm toát lên ở cô một phẩm chất mà trước đó anh chưa từng thấy, một phẩm chất không chỉ rất đàn bà mà có thể gọi là rất nữ tính. Họ ăn tối, sau đó cô dọn bàn. Anh đề nghị giúp một tay nhưng cô từ chối. Vậy nên anh ngồi đọc sách bên ngọn đèn bàn, lắng nghe tiếng lau dọn vọng ra từ trong bếp, rồi cô đi ra và vào phòng ngủ. Vì đi chân trần nên khi cô bước ra từ phòng ngủ, anh không nghe thấy bất kỳ tiếng động nào trên sàn nhà; chỉ khi nhìn lên anh mới nhận ra cô đang đứng bên cạnh mình - sự hợp lý đơn giản và gọn gàng của những đường cong trên cơ thể cùng cái nhìn chăm chú và tỉnh táo từ đôi mắt màu vàng của cô. Cô gỡ cuốn sách khỏi tay anh và đặt nó lên chiếc bàn mới được cải tạo. “Cởi quần áo ra nào”, cô nói. “Em vẫn có thể làm chuyện ấy đấy.”

Trong hai tuần tiếp theo, anh vẫn không nói với cô về chuyện mình mất việc. Anh không còn sợ tin xấu của mình có thể làm ảnh hưởng đến việc mà cô đang tập trung, bởi nếu lý do đó từng có hiệu lực thì giờ đây nó cũng chẳng còn như vậy nữa, và không còn khả năng anh có thể tìm được việc làm trước khi cô cần phải biết sự thật vì anh đã thử và đã thất bại, cũng chẳng phải vì anh có niềm tin giống như niềm tin của Micawber1 về tương lai; có lẽ một phần là do anh hiểu rằng đủ trễ muộn sẽ trở thành đủ sớm, nhưng chủ yếu (anh không cố gắng phỉnh phờ bản thân) là bởi anh đặt niềm tin sâu sắc ở cô. Không phải ở anh và cô, mà là ở cô thôi. Chúa sẽ không để nàng chết đói đâu, anh nghĩ. Nàng quá đáng giá. Chúa sẽ đối xử tốt với nàng. Ngay cả người đã tạo ra tất cả mọi thứ cũng mê thích một thứ gì đó đủ để muốn giữ gìn nó chứ. Vậy là hàng ngày, anh vẫn rời căn hộ vào giờ thường lệ và ngồi ở ghế đá công viên cho đến lúc phải về nhà. Và mỗi ngày một lần, anh lấy ví, lôi ra một mảnh giấy ghi số tiền đang giảm dần, cứ như thể hy vọng mỗi lần làm như thế, anh sẽ thấy số tiền thay đổi hoặc ngày hôm trước mình đã đọc nhầm, để rồi phải đối mặt với thực tế phũ phàng rằng số tiền vẫn thế và anh cũng chẳng đọc nhầm - những con số rõ ràng, và mỗi ngày khoản tiền một trăm tám mươi hai đô la lại hụt đi năm hoặc mười đô so với ngày trước đó; cho đến khi anh biết số tiền trong ví của mình không còn đủ để trả tiền thuê nhà ba tháng vào ngày đầu tiên của tháng Chín. Và rồi sau đó, thỉnh thoảng anh lại lấy ra một mảnh giấy khác - tấm ngân phiếu màu hồng với giá trị hiển thị Ba trăm đô la chẵn. Anh làm điều đó theo cái cách gần như long trọng, giống như việc chuẩn bị tẩu thuốc theo nghi thức của kẻ nghiện thuốc phiện, và sau đó lại rời xa hiện thực như kẻ nghiện thuốc phiện trong khi nghĩ ra cả trăm cách sử dụng nó, đổi chỗ các con số và thay đổi giá trị quy đổi bằng hàng hóa tương đương như chơi trò ghép hình, ý thức được rằng đây là một kiểu tự hành hạ (anh nghĩ, bởi vì mình vẫn đang, và có khả năng sẽ luôn luôn, ở trong giai đoạn túng thiếu), biết rằng nếu quả thực tờ ngân phiếu đó có thể đổi thành tiền mặt và sử dụng được thì anh thậm chí chẳng dám đùa bỡn với ý tưởng đó.

1 Một nhân vật trong tác phẩm của Charles Dickens, một người sống với niềm tin và hy vọng về tương lai.

Một buổi chiều, anh trở về nhà và thấy cô lại đang cặm cụi bên bàn làm việc. Vẫn là cái bàn đó, và nó vẫn ở giữa phòng; cô chỉ lật tấm khăn trải bàn lên, đẩy tập sách và tạp chí ra đầu bàn, cô đeo tạp dề chứ không mặc bộ đồ áo liền quần và giờ đây, cô làm việc một cách trễ nải đến đáng ngạc nhiên như người nào đó đang nghiên cứu một bộ bài để giết thời gian. Bức tượng cô làm không cao - tượng một người đàn ông nhỏ bé, có lẽ là nhân vật từ thời xa xưa, có khuôn mặt không thể gọi là nét nào ra nét ấy của một thằng hề ngây ngô vô hại, trông rất ngớ ngẩn và dị dạng. “Đây là tượng Mùi khó ngửi”, cô nói. Rồi anh hiểu ra, “Chỉ là mùi khó ngửi thôi. Chứ có phải là một con chó sói đứng án ngữ ở cửa đâu. Mà chó sói là vật thể có thật. Cừ khôi và độc ác. Mạnh mẽ nữa, mặc dù chúng là những con vật hèn nhát. Nhưng đây chỉ là mùi khó ngửi thôi bởi vì cái đói không ở đây...”, một lần nữa cô lại đấm vào bụng anh. “Đói là đói ở trên này cơ. Nó không giống cái này đâu. Nó trông như pháo thăng thiên hoặc pháo ống hay ít nhất cũng giống pháo hoa cải tóe lửa thành than có carbon phát sáng cơ.” Cô ngước lên nhìn anh. Rồi anh biết đã đến lúc họ phải đối mặt với thực tế. “Chúng ta còn bao nhiêu tiền?”

“Một trăm bốn mươi tám đô la. Nhưng không sao. Anh...”

“Vậy là anh đã trả tiền thuê nhà ba tháng tới rồi cơ đấy.” Vậy đấy, bây giờ thì đã quá muộn rồi. Vấn đề của mình là mỗi lần nói ra sự thật hoặc nói dối, mình dường như phải bán mình, phải tự thuyết phục chính mình tin điều đó trước đã. “Hãy nhìn em đi. Anh muốn nói rằng hai tháng nay anh không làm ở bệnh viện nữa?”

“Đó là do tay thám tử. Thời gian vừa rồi em bận nên quên không viết thư về New Orleans. Anh ta không cố tình làm tổn... không cố tình khiến anh bị đuổi việc đâu. Chỉ vì anh ta không nhận được tin tức của em nên lo lắng thôi. Anh ta cố tìm hiểu xem em có ổn không. Không phải anh ta mà là tay thám tử đã tiết lộ bí mật. Vậy nên họ đuổi việc anh. Buồn cười thật. Anh bị đuổi việc vì lý do đồi bại về đạo đức. Mà sự thực đâu phải vậy, tất nhiên. Dù sao công việc đó cũng không ổn định và anh biết sớm muộn gì nó cũng sẽ...”

“Ôi”, cô nói. “Chúng ta không còn chai rượu nào. Anh ra cửa hàng mua một chai trong khi em... à, mà không, đợi đã. Chúng ta sẽ ra ngoài ăn và uống rượu luôn. Ngoài ra, chúng ta sẽ phải tìm một con chó.”

“Một con chó ư?” Từ chỗ mình đứng, anh có thể nhìn thấy cô vào bếp, lấy trong ngăn đá ra hai dẻ sườn dành cho bữa tối và gói chúng lại.

“Đúng thế”, cô nói. “Anh lấy mũ đi.”

Đó là một buổi tối tháng Tám nóng nực, đèn nê-ông chói lòa, sáng lóa, những khuôn mặt đầy vẻ ma quái hệt như những xác chết lần lượt lướt qua trên đường phố, cả khuôn mặt của cô và anh cũng vậy; khi họ bước đi, cô vẫn cầm hai dẻ sườn bọc trong tờ giấy dày và bóng nhẫy của cửa hàng thịt. Trên đường đi họ gặp McCord. “Chúng tôi bị mất việc rồi”, cô nói với anh ta. “Vậy nên chúng tôi đang đi tìm một con chó.”

Wilbourne cảm thấy dường như có một con chó vô hình giữa bọn họ. Bây giờ họ đang ở trong một quán bar, nơi họ thường gặp gỡ hai lần một tuần do tình cờ hoặc hẹn trước với nhóm người mà McCord đã đưa tới cuộc sống của họ. Có bốn người quen đang có mặt ở đó (“Chúng tôi mất việc rồi”, McCord nói với họ. “Và bây giờ chúng tôi đang đợi một con chó.”), bảy người bọn họ ngồi quanh một chiếc bàn dành cho tám người, một chiếc ghế để trống, tờ giấy gói được mở ra và hai dẻ sườn được đặt trên chiếc đĩa để bên cạnh một ly whiskey nguyên chất giữa những chiếc cốc vại chứa whiskey pha soda. Họ chưa ăn gì; hai lần Wilbourne ghé sát cô, nói: “Chúng ta không nên ăn chút gì sao? Sẽ ổn cả thôi; anh có thể...”.

“Phải, sẽ ổn thôi. Ổn thôi.” Không phải cô đang nói với anh. “Chúng tôi có tận bốn mươi tám đô la; hãy nghĩ đến số tiền đó. Phong lưu hơn cả anh em nhà Armours1 ấy chứ.

1 Những người sở hữu một trong những công ty chế biến thực phẩm lớn nhất ở Chicago thời bấy giờ.

Uống thôi nào, những chàng trai đáng yêu. Và hãy tìm con chó đi nào.”

“Phải đấy”, McCord nói. “Hãy uống mừng những gã giàu có đa tình trong biển cả của hemingwaves nào.”1

1 Nguyên văn câu này là: “Set, ye armourous sons, in a sea of hemingwaves”. Ở đây nhân vật McCord đã sử dụng cách chơi chữ: Armourous = Armour (nhà Armour) + amourous (đa tình), hemingwaves = Hemingway (nhà văn Hemingway) + waves (những con sóng).

Đèn nê-ông sáng trưng, chói lóa, đèn giao thông nhấp nháy chuyển từ màu xanh sang màu đỏ rồi lại trở về màu xanh phía trên những chiếc taxi rên rỉ và những chiếc limousine trông như xe tang. Họ vẫn chưa ăn gì mặc dù hai thành viên của nhóm đã vắng mặt, và bây giờ bọn họ còn sáu người, ngồi chen chúc trên một chiếc taxi trong khi Charlotte vẫn cầm hai dẻ sườn (giờ đây không còn mảnh giấy bọc nữa) và McCord ôm con chó vô hình; bây giờ con chó có tên là Moreover2 theo Kinh Thánh. “Nghe này”, McCord nói. “Hãy lắng nghe một phút này. Doc, Gillespie và tôi sở hữu chỗ đó. Gillespie hiện giờ đang ở trên ấy, nhưng ngày mùng Một cậu ta sẽ phải trở lại thành phố và vì thế sẽ không có ai ở đó hết. Các bạn có thể mang một trăm đô la của mình tới đó...”

2 Trong Kinh Thánh có câu: “Moreover, the dogs came and licked his sores” (Tạm dịch: Thêm vào đó, những con chó đến liếm vết ghẻ lở của anh ta). “Moreover” trong tiếng Anh có nghĩa là “thêm vào đó”, và vì từ này được viết hoa nên nhân vật McCord đã sử dụng theo kiểu hài hước như một cái tên.

“Anh chẳng thực tế chút nào”, Charlotte nói. “Anh đang nói về sự an toàn. Anh không có tâm hồn sao? Harry, bây giờ chúng ta còn bao nhiêu tiền?”

Anh nhìn đồng hồ đo cây số trên taxi. “Một trăm hai mươi đô la.”

“Nghe này”, McCord nói.

“Thôi được”, cô nói. “Nhưng bây giờ không phải lúc nói chuyện đó. Anh đã chuẩn bị giường ngủ, vậy thì hãy đi nằm đi. Và hãy kéo chăn qua đầu.” Họ dừng lại tại một quầy thuốc ở Evanston với một cái đèn pin trong tay, chiếc taxi chạy chầm chậm dọc vỉa hè của một khu dành cho những người giàu ở vùng ngoại ô trong khi Charlotte nhoài người qua McCord để rọi đèn pin tới những thảm cỏ lúc nửa đêm. “Ở kia có một con kìa”, cô nói.

“Tôi chẳng nhìn thấy con chó nào cả”, McCord nói. “Hãy nhìn về phía hàng rào kia mà xem. Anh đã bao giờ nghe nói đến một hàng rào sắt có những nhành hoa Păng-xê được uốn thành vòng ở mỗi ô mà lại không có một con chó sắt ở bên trong chưa? Ngôi nhà này có mái hai lớp.”

“Tôi chẳng nhìn thấy ngôi nhà nào hết”, McCord nói. “Tôi cũng không nhìn thấy. Nhưng hãy nhìn cái hàng rào đó đi.”

Chiếc taxi dừng lại và bọn họ bước ra khỏi xe. Ánh đèn pin nhảy nhót trên hàng rào sắt có những thanh nhọn hình mũi giáo xoắn kiểu trôn ốc được chôn cố định xuống bệ bê tông; có cả một chỗ buộc ngựa trên bức tượng khắc nổi một thằng bé da đen ở bên cạnh cái cổng cuốn nhỏ. “Cô nói đúng”, McCord nói, “Có một con ở đây”. Bây giờ họ không sử dụng đèn pin, nhưng thậm chí trong ánh sao mờ họ có thể nhìn thấy nó - một con chó Saint Barnard bằng sắt có khuôn mặt vừa giống hoàng đế Franz Josef lại vừa giống một chủ nhà băng ở Maine năm 1859. Charlotte đặt những dẻ sườn lên trán tường rồi họ quay trở lại xe. “Nghe này”, McCord nói. “Chỗ đó được trang bị đầy đủ - ba phòng và bếp, giường ngủ, dụng cụ nấu ăn, và có thừa gỗ để chặt làm củi; nếu muốn, cô có thể tắm ở hồ. Và tất cả những ngôi nhà khác ở xung quanh đều sẽ vắng khách sau ngày mùng Một tháng Chín, sẽ không ai quấy rầy cô hết; nhà ở ngay bên hồ, cô có thể câu cá và chỉ cần vài trăm đô la tiền thực phẩm là đủ sống, mà phải đến tháng Mười, hoặc có thể là đến tháng Mười một trời mới trở lạnh; các bạn có thể ở đó đến Giáng Sinh hoặc lâu hơn nữa nếu không ngại cái lạnh...”

Tối Chủ nhật trước ngày lễ Lao động, McCord lái xe đưa họ đến vùng hồ đó cùng một lượng thực phẩm trị giá một trăm đô la - đồ hộp, đậu hạt, gạo, cà phê, muối, đường và bột - được để ở ghế phụ. Wilbourne ngẫm nghĩ về hàng hóa quy đổi của đồng đô la cuối cùng mà họ có với tâm trạng khá điềm tĩnh. “Anh không biết tiền dễ chuyển đổi như thế nào đâu cho đến khi đổi nó để lấy một thứ gì đó”, anh nói. “Có lẽ đó chính là kiểu thu hoạch tiệm giảm mà các nhà kinh tế thường nói tới.”

“Không phải cậu muốn nói đến tính dễ chuyển đổi”, McCord nói. “Mà là tính dễ bốc hơi của đồng tiền. Đó là cái mà Quốc hội gọi là tiền mặt. Nếu tiền chảy vào chúng ta ào ạt trước khi chúng ta mang những thứ này vào một chỗ có mái che, thì cậu sẽ hiểu thôi. Đậu, gạo và rau quả sẽ làm chúng ta tràn ra khỏi cái xe này như ba que diêm trong một thùng ủ men rượu.” Họ có một chai whiskey và McCord cùng Wilbourne thay nhau lái xe trong khi Charlotte ngủ. Họ đến căn nhà bên hồ ngay trước bình minh. Đó là một cái hồ rộng hơn một trăm héc ta, có những cây vân sam phái sinh bao quanh, bốn khoảnh đất trống ở ven hồ, trên mỗi khoảnh đất có một căn nhà nhỏ (có khói bay lên từ ống khói của một trong các căn nhà đó) và một cái cầu, giống cầu tàu nhô ra hồ. “Đó là Bradley đấy”, McCord nói. “Tôi cứ nghĩ anh ta đã biến khỏi đây rồi cơ.” Ở đó còn có bãi tắm hẹp nơi một con hươu đực đang đứng bất động, toàn thân nhuốm một màu hồng trong ánh bình minh ngày Chủ nhật, đầu ngẩng cao, nhìn họ từ xa trước khi co chân chạy nhanh như gió, cái đuôi cụt của nó cong cong hình vòng cung theo những bước chạy dài trong khi Charlotte, đứng bật dậy từ trong xe với khuôn mặt hơi nặng sau giấc ngủ, chạy ào ra mép nước, reo lên, “Đây chính là những gì mình đã cố gắng tạo ra! Không phải những con vật, những con chó, con nai hay ngựa mà là sự chuyển động, là tốc độ”.

“Chắc chắn rồi”, McCord. “Hãy ăn cái đã.” Họ dỡ đồ trên xe xuống và mang các thứ vào trong nhà, bắt đầu nhóm lửa; trong khi Charlotte nấu bữa sáng, Wilbourne cùng McCord mang chai rượu ra sát mép nước và ngồi xổm ở đó.

Họ cầm cả chai mà uống, chúc tụng nhau. Và rồi chỉ còn khoảng một ly rượu trong chai. “Của Charlotte”, McCord nói. “Cô ấy có thể uống như một kẻ đã cai rượu lâu ngày giờ mới lại được uống.”

“Tôi đang hạnh phúc”, Wilbourne nói. “Tôi biết chính xác mình đang đi đâu. Một lối đi thẳng tắp giữa hai hàng can, hộp và bao tải, mỗi bên trị giá năm mươi đô la. Không phải ở phố xá đông đúc toàn những nhà và người. Nơi này vắng vẻ. Và hồ nước lao xao trong khi anh nằm ngắm nó.” Ngồi xổm và vẫn cầm chai rượu gần như đã cạn, anh dùng bàn tay còn lại để khỏa nước, nước hồ phẳng lặng trong hơi thở của bình minh với nhiệt độ tương đương với nước đá nhân tạo trong các phòng khách sạn, những gợn sóng lăn tăn chầm chậm lan từ chỗ cổ tay anh ra xa theo hình nan quạt. McCord nhìn anh chằm chằm. “Và rồi mùa lá rụng cùng đợt lạnh đầu tiên sẽ đến, những chiếc lá vàng, lá đỏ bay trong gió, những chiếc lá kép - hình ảnh phản chiếu của một chiếc lá trên mặt hồ - sẽ dâng lên để gặp chiếc lá rơi cho đến khi chúng chạm vào nhau, khẽ rung, nhưng không khít hoàn toàn. Và khi có thể mở mắt ra một phút nếu muốn và nhớ làm điều đó, anh hãy nhìn cái bóng của những chiếc lá rung lên khi chúng chạm vào khuôn ngực của người bên cạnh anh.”

“Lạy Chúa”, McCord nói. “Kẻ bắt chước Teasdale1 dở ẹc nào đây hả? Cậu chưa kết thúc đoạn trường đói khát của mình đâu. Cậu chưa hoàn thành giai đoạn làm quen với thiếu thốn đâu. Nếu không cẩn thận, cậu sẽ nói chuyện đó với một gã sẽ tin và đưa súng cho cậu để xem cậu sử dụng nó như thế nào. Đừng nghĩ về bản thân mình nữa, hãy nghĩ cho Charlotte một chút đi.”

1 Trong câu này McCord có ý chỉ trích Harry là kẻ ủy mị, bắt chước Sarah Teasdale, một nhà thơ sáng tác những bài thơ tự sự cho thấy một tâm hồn đa sầu, đa cảm.

“Đó chính là người tôi đang nói đến đấy thôi. Nhưng dù gì tôi cũng sẽ không sử dụng súng đâu. Bởi vì tôi bắt đầu chuyện này quá muộn. Tôi vẫn còn tin ở tình yêu.” Rồi anh kể cho McCord nghe về tấm ngân phiếu. “Nếu không tin vào tình yêu thì tôi đã đưa cho anh tấm ngân phiếu này và gửi cô ấy về cùng anh ngay trong tối nay.”

“Và nếu cậu tin vào tình yêu nhiều như vẫn nói, thì cậu đã xé nó từ tám đời rồi.”

“Nếu tôi xé nó đi, thì sẽ không ai lấy được tiền hết. Ngay cả anh ta cũng không thể nhận lại số tiền từ ngân hàng.”

“Quỷ tha ma bắt hắn ta đi. Cậu đâu có nợ nần gì hắn cơ chứ. Chẳng phải cậu đã cướp vợ hắn khỏi tay hắn là vì hắn sao? Cậu tuyệt thật đấy. Cậu thậm chí không có gan của một kẻ ăn vụng, đúng không?” McCord đứng dậy. “Vào nhà thôi. Tôi ngửi thấy mùi cà phê rồi.”

Wilbourne không nhúc nhích, tay anh vẫn ở dưới nước. “Tôi chưa làm cô ấy tổn thương.” Rồi anh nói, “À mà tôi đã làm cô ấy tổn thương rồi. Nếu cho đến bây giờ vẫn chưa để lại dấu ấn của mình nơi cô ấy, thì tôi đã...”.

“Thì sao?”

“Thì tôi đã không chịu tin vào tình yêu.”

Trong một phút, McCord đứng nhìn anh trong khi anh ngồi xổm, một tay vẫn cầm chai rượu, một tay để nước ngập đến khuỷu. “Khốn thật!”, anh nói. Rồi họ nghe thấy tiếng Charlotte gọi. Wilbourne đứng dậy.

“Tôi sẽ không dùng súng đâu”, anh nói. “Tôi sẽ vẫn chấp nhận chuyện này.”

Charlotte không uống rượu ngay mà đặt chai rượu lên mặt lò sưởi. “Để nhắc chúng ta nhớ đến sự khai hóa văn minh đã trở nên uổng phí khi lông trên người bắt đầu phát triển”, cô nói. Họ ăn sáng. Mỗi phòng ngủ có một chiếc giường đơn bằng sắt, và hai chiếc khác được kê trong khoảng hiên được ngăn bằng tấm bình phong. Trong khi Wilbourne rửa bát đĩa, Charlotte và McCord trải những tấm khăn mà họ tìm thấy trong tủ lên những chiếc giường ngoài hiên; khi đi ra, Wilbourne thấy McCord nằm thư giãn trên một chiếc giường với đôi chân đã tháo giày và đang hút thuốc. “Lại đây đi”, anh ta nói. “Nằm nghỉ đi. Charlotte nói cô ấy không muốn ngủ nữa.” Cô đi ra ngoài, mang theo một tập giấy, một cái cốc thiếc và hai hộp màu vẽ.

“Chúng tôi còn một đô la rưỡi, thậm chí sau khi đã mua chai whiskey này”, cô nói. “Có lẽ con hươu đó sẽ quay lại.”

“Hãy xát ít muối vào đuôi của nó nhé”, McCord nói. “Có lẽ nó sẽ đứng yên để làm mẫu cho cô vẽ đấy.”

“Tôi không muốn nó làm mẫu cho tôi vẽ. Đó không phải là điều tôi muốn. Tôi không muốn sao chép hình ảnh của một con hươu. Việc đó ai mà chẳng làm được cơ chứ.” Cô đi ra, cánh cửa bị đóng sập lại sau lưng. Wilbourne không nhìn theo cô mà nằm hút thuốc, gối đầu lên hai tay.

“Nghe này”, McCord nói. “Các bạn còn nhiều thức ăn, có nhiều củi ở đây và đầy thứ để che chắn khi trở lạnh, và khi tình hình ở thành phố khả quan hơn, có lẽ tôi có thể bán vài thứ lặt vặt mà cô ấy làm ra, kiếm đơn đặt hàng...”

“Tôi không lo lắng lắm đâu. Tôi đã nói với anh rồi, tôi hạnh phúc mà. Không ai có thể tước đi của tôi những gì tôi đã và đang có.”

“Đừng có ngọt ngào như thế. Nghe này. Tại sao cậu không đưa cho tôi cái ngân phiếu chết tiệt đó và gửi cô ấy về thành phố cùng tôi, còn cậu có thể dùng chỗ thực phẩm đáng giá cả trăm đô la ấy, sau đó đi vào rừng, ăn kiến, làm Thánh Anthony trên cây và vào Giáng Sinh, cậu có thể kiếm một cái vỏ trai rồi tự làm một món quà cho mình. Tôi ngủ đây.” Anh ta trở mình, dường như ngủ ngay lập tức, và chẳng bao lâu sau Wilbourne cũng thiếp đi. Khi tỉnh giấc một lần và nhìn ánh mắt trời, anh biết rằng đã quá trưa và nhận thấy cô không ở trong nhà. Nhưng anh chẳng băn khoăn mà nằm đó một lát, chẳng phải để nhìn lại hai mươi bảy năm khô khan, kham khổ của đời mình, mà là nghĩ cô cũng chẳng đi đâu xa, chỉ ở trong một lối mòn thẳng tắp giữa hai hàng can và túi thực phẩm được mua với giá năm mươi đô la mỗi hàng, và cô sẽ đợi anh. Nếu thực tế đúng là như vậy, thì nàng sẽ đợi, anh nghĩ. Nếu chúng mình cứ nằm như thế này phía dưới những chiếc lá vàng, lá đỏ bị gió cuốn bay của một năm đang cạn dần, dưới những cái hôn lặp lại của vô số những chiếc lá thì chúng mình sẽ ở bên nhau trong sự biệt lập, mặc kệ Mac cùng sự giễu cợt của anh ta.

Khi cô trở về, mặt trời đã xuống thấp đến mức trông như thể đang treo lơ lửng phía trên các ngọn cây. Tờ đầu tiên của tập giấy lúc trước cô mang đi vẫn trắng tinh, mặc dù màu vẽ đã được sử dụng. “Thế nào? Không tồi chứ?”, McCord nói. Anh ta đang bận nấu một món ăn với đậu, gạo và những quả mơ khô - một món tủ hay nói cách khác là món thuộc chuyên môn về ẩm thực mà gã độc thân nào dường như cũng biết và vài người có thể tạo ra mặc dù chỉ mới liếc qua.

“Có lẽ một con chim nhỏ đã mách cho cô ấy biết anh đang làm gì với chỗ thực phẩm trị giá năm mươi xu của chúng tôi nên cô ấy phải chạy vội về”, Wilbourne nói. Việc pha chế cuối cùng cũng kết thúc. Món ăn không tồi lắm, Wilbourne thừa nhận. “Chỉ có điều tôi không biết liệu nó có thực sự hợp vệ sinh hoặc có tác dụng phòng ngừa hay không, tôi nếm thử thấy không phải như vậy nhưng nó tương ứng với bốn mươi hoặc năm mươi xu đấy và liệu có phải tôi không có tuyến sản sinh ra tính hèn nhát trong vòm miệng hoặc dạ dày hay không.” Anh và Charlotte rửa bát đĩa, còn McCord đi ra ngoài và trở về với một ôm củi, bắt đầu nhóm lửa. “Đêm nay chúng ta không cần đốt lửa đâu”, Wilbourne nói.

“Có tốn xu nào đâu, chỉ tốn củi thôi mà”, McCord nói. “Và từ đây đến biên giới Canada cậu có thể kiếm được vô khối củi. Cậu có thể làm cho khói của nhà này tỏa khắp cả vùng Bắc Wisconsin nếu muốn.” Sau đó họ ngồi bên đống lửa, hút thuốc và hầu như im lặng cho đến khi McCord lên đường trở về thành phố. Dù gì anh ta cũng không ở lại, dẫu ngày mai có vui hay không. Wilbourne tiễn McCord và khi bước lên xe, McCord ngoái lại nhìn cái bóng của Charlotte phản chiếu trong ánh lửa. “Đúng”, anh ta nói. “Cậu không cần phải lo lắng, chỉ là một bà già được một cảnh sát hoặc một hướng đạo sinh dắt qua đường thôi mà. Bởi vì khi chiếc xe của kẻ say rượu chết tiệt lao đến, không phải bà già mà là gã cảnh sát hoặc chàng hướng đạo sinh sẽ bị nó cán. Hãy cẩn thận đấy.”

“Cẩn thận ư?”

“Đúng. Cậu không thể lúc nào cũng e sợ mà không dám chấp nhận chút đau đớn nào.”

Wilbourne quay vào nhà. Đêm đã khuya, nhưng cô vẫn chưa cởi quần áo; anh lại ngẫm nghĩ, không phải về khả năng thích nghi với hoàn cảnh của đàn bà mà về khả năng thích nghi với mối quan hệ bất hợp pháp, thậm chí vô đạo đức, với tiêu chuẩn đứng đắn kiểu tư sản khi nhìn cô đi chân trần quanh phòng, tạo ra những sự thay đổi tinh tế ở những đồ đạc được bày sẵn trong cái nơi trú ngụ tạm bợ đó cũng như ở trong các phòng khách sạn mà họ chỉ thuê một đêm, lấy ra từ một trong những chiếc hộp mà anh tin rằng chỉ chứa những thứ từ căn hộ họ thuê ở Chicago - những thứ mà anh chẳng những không biết cô có mà còn quên rằng họ đã sở hữu bấy lâu nay - các cuốn sách mà họ đã mua, một cái bát bằng đồng, thậm chí một cái khăn phủ bàn in hoa từ cái bàn làm việc của cô trước đây, một hộp các tông đựng xì gà đã được cô biến thành vật giống như chiếc quan tài nhỏ, một bức tượng mô phỏng ông già nhỏ thó và tượng Mùi Khó Ngửi; anh nhìn cô đặt bức tượng lên bệ lò sưởi rồi đứng đó ngắm nó một lát với vẻ trầm ngâm, cầm chai rượu chỉ còn khoảng một ly mà anh và McCord để phần mình, sau đó với vẻ điềm tĩnh gần như trang trọng, cô rót rượu ra nền lò sưởi. “Cúng tiến Thần Lửa và Thần Đất”, cô nói. “Em không biết tiếng Latin, nhưng các vị thần sẽ hiểu em muốn nói gì.”

Họ ngủ trên hai chiếc giường đơn ngoài hiên, đến gần sáng thì trời trở lạnh, cô liền đi chân trần trên sàn gỗ từ giường của mình sang giường anh, chui vào chăn với anh, người cô phảng phất mùi thịt xông khói và dầu thơm, khuỷu tay và hông cô thúc vào người anh khiến anh tỉnh giấc. Ánh sáng màu trắng xám trùm lên mặt hồ, và khi nghe thấy tiếng chim hót, anh biết chính xác đó là loài chim gì, thậm chí còn biết nó trông thế nào; anh lắng nghe tiếng hót trầm đục của nó rồi thầm nghĩ, trong tất cả các loài động vật chỉ có con người là cố làm mòn nhụt những giác quan tự nhiên của mình; động vật bốn chân lấy thông tin qua việc ngửi, nhìn, nghe và không tin gì khác ngoài các giác quan đó trong khi động vật hai chân chỉ tin vào những gì mình đọc được.

Buổi sáng lửa ấm mang lại cảm giác dễ chịu. Trong khi cô rửa bát đĩa thì anh ra phía sau nhà chặt thêm củi sưởi; anh cởi áo len lúc ánh mặt trời trở nên gay gắt, và khi nghe thấy tiếng gọi của cô từ trong nhà vọng ra, anh đang nghĩ ở đới khí hậu này, ngày lễ Lao động được đánh dấu bằng tiếng thở dài của mùa hè hướng về mùa thu và sự lạnh lẽo. Anh vào nhà thì gặp một người lạ đang đứng giữa phòng với một cái thùng các tông trên vai; người đàn ông này chạc tuổi anh, đi chân trần, mặc chiếc quần kaki bạc phếch và áo ba lỗ, có nước da rám nắng, đôi mắt xanh da trời, hàng lông mi bạc vì nắng cùng mái tóc màu rơm với những sóng tóc đối xứng - sự phản ánh về tay nghề không thể chê vào đâu được của một thợ cắt tóc - đang lặng im nhìn bức tượng trên bệ lò sưởi. Qua cánh cửa để mở phía sau người đàn ông đó, Wilbourne nhìn thấy một chiếc xuồng máy nhỏ. “Đây là...”, Charlotte nói. “Anh vừa mới giới thiệu tên anh là gì nhỉ?”

“Bradley”, gã đàn ông lạ mặt trả lời. Anh ta nhìn Wilbourne, đôi mắt nhiều lòng trắng tương phản với màu da của anh ta giống như như một tấm phim Kodak âm bản, cố giữ chiếc hộp cân bằng trên vai bằng một tay, chìa tay còn lại ra để bắt tay Wilbourne.

“Đây là Wilbourne”, Charlotte nói. “Bradley là hàng xóm. Hôm nay anh ấy sẽ rời khỏi đây. Anh ấy mang cho chúng ta chỗ thực phẩm chưa dùng đến.”

“Tha lôi những thứ này đi chẳng ích gì”, Bradley nói.

“Vợ anh nói với tôi rằng các bạn còn ở lại đây một thời gian, vậy nên tôi nghĩ...”, anh ta dành cho Wilbourne cái bắt tay lạnh lùng và mạnh chẳng khác gì động tác bóp vỡ xương cổ tay của người khác. “... Tôi tốt nghiệp một trường đại học ở miền Đông cách đây hai năm và hiện đang làm môi giới chứng khoán.”

“Anh thật tốt bụng. Chúng tôi rất vui được nhận những thứ này. Nào, để tôi...” Nhưng bàn tay kia của người đàn ông đã quẳng cái hộp các tông chứa đầy thực phẩm xuống sàn nhà. Charlotte và Wilbourne giữ ý không nhìn những thứ trong hộp. “Cảm ơn rất nhiều. Chúng ta càng có đông người ở trong nhà thì chó sói càng khó mò tới.”

“Hoặc là chúng ta tập trung lại khi chó sói mò tới”, Charlotte nói. Bradley nhìn cô. Anh ta chỉ cười bằng miệng còn mắt thì không - đó là đôi mắt của kẻ muốn lợi dụng người khác, mang đầy vẻ quả quyết của một kẻ chỉ đạo thành công các buổi khiêu vũ ở trường đại học.

“Một ý tưởng không tồi”, anh ta nói. “Các bạn...” “Cảm ơn”, Charlotte nói. “Anh dùng cà phê nhé? “Cảm ơn, tôi ăn sáng rồi. Chúng tôi dậy sớm. Tối nay chúng tôi phải trở về thành phố.” Anh ta lại nhìn bức tượng trên bệ lò sưởi. “Tôi xin phép xem nó một chút nhé?”, anh ta nói rồi đến bên lò sưởi. “Tôi có biết nhân vật này không nhỉ?

Hình như...”

“Tôi hy vọng là không”, Charlotte nói. Bradley nhìn cô.

“Cô ấy muốn nói chúng tôi hy vọng anh chưa biết”, Wilbourne nói. Nhưng Bradley lại nhìn Charlotte, đôi lông mày bạc rướn lên vẻ dò hỏi phía trên đôi mắt đầy mong muốn chiếm đoạt và không hề mang ý cười.

“Đó là tượng Mùi Khó Ngửi”, Charlotte nói.

“Ồ. Tôi hiểu.” Anh ta nhìn bức tượng. “Cô đã tạo ra nó. Hôm qua tôi nhìn thấy cô vẽ. Ở phía bên kia hồ.”

“Tôi biết anh đã nhìn thấy tôi.”

“Lúc ấy cô đang ký họa”, anh ta nói. “Thứ lỗi cho tôi nhé? Không phải tôi cố ý rình mò đâu.”

“Tôi cũng có cố giấu mình đâu.” Bradley nhìn cô và giờ đây, lần đầu tiên, Wilbourne thấy đôi lông mày và cái miệng của anh ta phối hợp đồng điệu với nhau, cùng thể hiện vẻ giễu cợt, mỉa mai và độc ác - những biểu hiện khiến toàn bộ con người anh ta toát lên sự tự tin, xấc xược và thô bỉ.

“Thật vậy hả?”, anh ta nói.

“Thật mà”, Charlotte nói. Cô tới bên lò sưởi rồi cầm bức tượng lên. “Chán quá, anh chị lại đi khỏi đây trước khi chúng tôi kịp sang thăm vợ anh. Nhưng có lẽ anh sẽ nhận cái này làm kỷ niệm.”

“Không; thực sự, tôi...”

“Anh nhận đi mà”, Charlotte vui vẻ nói. “Chắc chắn anh cần nó hơn chúng tôi.”

“Cảm ơn cô.” Anh ta cầm lấy bức tượng. “Cảm ơn cô. Tối nay chúng tôi sẽ trở về thành phố. Nhưng có lẽ trên đường ra khỏi đây chúng tôi sẽ ghé thăm các bạn. Vợ tôi sẽ...”

“Vâng”, Charlotte nói.

“Cảm ơn”, anh ta nói rồi quay ra phía cửa. “Cảm ơn cô lần nữa nhé.”

“Chúng tôi cũng xin cảm ơn anh lần nữa”, Charlotte nói. Wilbourne nhìn anh ta bước ra ngoài, đẩy chiếc xuồng khỏi bờ và trèo lên xuồng. Sau đó anh đi tới chỗ chiếc hộp và cúi xuống.

“Anh định làm gì vậy?”, Charlotte hỏi.

“Anh định mang nó ném vào cửa nhà hắn.”

“Đồ ngốc”, cô nói. Cô bước tới bên anh. “Đứng thẳng lên nào. Chúng ta sẽ ăn những thứ đó. Hãy đứng thẳng như một người đàn ông thật sự nào.” Anh đứng lên, cô choàng tay ôm và kéo anh về phía mình với vẻ nôn nóng tột độ được kìm nén. “Tại sao anh không lớn khôn lên hả, gã hướng đạo sinh phá hoại hôn nhân? Anh không biết rằng ngay cả những kẻ đần độn cũng nhận ra chúng ta trông chẳng giống một cặp vợ chồng hợp pháp sao? Cô ghì siết lấy anh, hơi ngả người về phía sau, cặp hông áp vào người anh khẽ lắc trong khi nhìn anh đăm đăm qua đôi mắt màu vàng ánh lên vẻ bí hiểm và giễu cợt với mức độ đủ để anh nhận ra - sự chân thực đến tàn nhẫn và gần như không thể chịu đựng nổi. “Như một người đàn ông, em nói rồi đấy”, cô nói, ghì siết anh vào bờ hông đang chuyển động của mình mặc dù việc đó không cần thiết. Nàng không cần phải chạm vào người mình anh nghĩ. Không cần âm thanh của giọng nói, thậm chí không cần mùi cơ thể của nàng, chỉ cần một chiếc dép lê, một trong những điều xúi giục mơ hồ đối với tình dục, bị vứt trên sàn nhà cũng đủ. “Nào. Được đấy. Như vậy khá hơn đấy. Được đấy.” Cô buông một tay ra và bắt đầu cởi cúc áo của anh. “Chỉ có điều người ta cho rằng làm chuyện này trước mười hai giờ trưa là không may mắn đâu, đúng không nhỉ? Có đúng vậy không nhỉ?”

“Ừ”, anh nói. “Ừ.” Cô bắt đầu cởi dây thắt lưng của anh.

“Hoặc đây là cách anh làm dịu bớt sự nhục mạ nhằm vào em, được không? Hay anh sẽ lên giường với em chỉ vì ai đó tình cờ nhắc anh nhớ ra rằng con người em có hai nửa1?”

1 Trong truyền thuyết của người Do Thái, quỷ nữ Lilith được miêu tả từ rốn trở lên là một phụ nữ đẹp, và từ rốn trở xuống là lửa.

“Ừ”, anh nói. “Ừ.”

Sau đó vào giữa trưa, họ nghe thấy tiếng xe của Bradley nổ máy. Cô đang nằm sấp, vắt ngang nửa người trên anh (lúc ngủ, cô nặng nề thả lỏng cơ thể, đầu cô ở dưới cằm anh, hơi thở của cô chậm và sâu); cô liền nhỏm dậy, một bên khuỷu tay tì trên bụng anh, tấm chăn tuột khỏi vai cô, trong khi tiếng động cơ xe nhỏ dần. “Ôi, cái yết hầu”, cô nói. “Có sao đâu, bấy lâu nay chúng ta luôn chỉ có hai người với nhau thôi”, anh nói.

“Từ cái đêm đầu tiên ấy. Từ lúc chúng ta đứng trước bức tranh đó. Chúng ta chỉ có hai người với nhau, dù ai ở quanh ta ra đi chăng nữa.”

“Em biết điều đó. Em muốn nói rằng bây giờ em có thể đi bơi.” Cô trườn ra khỏi giường. Anh nhìn cô, ngắm tấm thân mộc mạc, nở nang và rắn chắc hơn thân hình của người mẫu quảng cáo dầu cá trên tạp chí Hollywood một chút, quan sát đôi chân trần của cô bước nhẹ trên ván lót sàn đi về phía cửa.

“Có mấy bộ đồ bơi ở trong tủ đấy”, anh nói. Cô không trả lời. Tiếng sập cửa vang lên. Sau đó anh không thể nhìn thấy cô nữa, còn nếu muốn, anh sẽ phải nhổm dậy.

Sáng nào cô cũng đi bơi song vẫn chưa hề đụng tới ba bộ đồ bơi trong tủ. Ăn sáng xong, anh thường nằm trên chiếc giường đơn và nghe tiếng bước chân trần của cô ở trong phòng lẫn ngoài hiên; có khi anh nhìn thân hình rám nắng, mịn màng và rắn chắc của cô lướt qua trong hiên. Sau đó anh lại ngủ tiếp (đúng một giờ sau thì thức dậy - một thói quen của anh trong vòng sáu ngày đầu) để rồi sau đó đưa mắt nhìn ra ngoài, thấy cô nằm ngửa hoặc sấp trên chiếc cầu nhô ra hồ, hai tay khoanh trước ngực hoặc chống cằm; thỉnh thoảng anh cứ nằm đó, không ngủ, thậm chí chẳng nghĩ gì, chỉ tồn tại trong trạng thái lơ mơ giống như một bào thai, thụ động và không có cảm giác trong cái bụng của sự yên bình và hoang vắng, cử động chỉ đủ để môi anh chạm vào một bên hông rám nắng của cô và nếm vị của mặt trời khi cô dừng lại bên giường. Thế rồi một ngày anh nhận thấy mình có vấn đề.

Tháng Chín trôi qua, đêm và sáng trời khá lạnh; cô đã đổi giờ bơi từ sau bữa sáng sang sau bữa trưa và họ bàn với nhau khi nào sẽ chuyển giường từ ngoài hiên vào trong phòng có lò sưởi. Nhưng về bản chất, ngày không thay đổi - vẫn là khúc lặp lại bất biến của khoảng thời gian đổ nắng giữa bình minh và hoàng hôn, vẫn là những ngày dài tĩnh lặng, vẫn là sự tiếp nối đơn điệu và thuần túy của những trưa tràn đầy thứ mật ấm nóng của mặt trời, còn năm đang trôi qua trong sự úa tàn của những chiếc lá to bản mang sắc vàng đỏ không biết từ đâu đến cũng chẳng rõ sẽ bay về đâu.

Hàng ngày, cô ra khỏi nhà cùng tập giấy và hộp màu vẽ ngay sau khi đi bơi và tắm nắng, bỏ lại anh quanh quẩn trong căn nhà vừa trống vắng lại vừa xáo động bởi tác động mạnh từ sự hiện hữu của cô - vài bộ quần áo, tiếng động tựa như tiếng thì thầm từ đôi chân trần của cô trên sàn gỗ - trong khi anh tin rằng mình đang lo lắng, không phải về cái ngày cạn kiệt thức ăn chắc chắn sẽ đến, mà vì anh nhận ra mình chẳng hề bận tâm đến điều đó: Trạng thái lạ lùng mà vào một mùa hè trước kia anh từng trải nghiệm khi bị anh rể điệu đi thực hiện nghĩa vụ công dân bởi anh từ chối không chịu đi bầu cử. Anh nhớ khi đó, nỗi bực tức chực bùng nổ thành cơn thịnh nộ và anh đã cố đưa ra lý do với anh rể để rồi cuối cùng hiểu rằng mình nói một cách hăng hái như vậy không phải để thuyết phục ông anh rể mà là để bào chữa cho nỗi tức giận của bản thân giống như trong cơn ác mộng lúc nửa đêm, anh dường như đã chộp lấy chiếc quần đang tụt xuống; không phải anh đang nói với ông anh rể mà là đang nói với chính mình.

Điều đó trở thành nỗi ám ảnh đối với anh; khi bình tĩnh lại, anh hiểu rằng mình đã phát điên một cách âm thầm và ngấm ngầm; giờ đây anh không ngừng nghĩ về dãy hộp và những cái túi mà anh cố làm cho khớp theo tỉ lệ nghịch với số ngày đang tăng dần, tuy nhiên anh không nhìn giá để thực phẩm hay đếm những gì họ còn. Anh cứ tự nhủ rằng trước kia mình từng phải lẻn ra ghế đá công viên, lôi một mảnh giấy từ trong ví ra rồi cặm cụi lấy số này trừ đi số kia, trong khi giờ đây tất cả những gì anh phải làm chỉ là liếc dãy hộp trên giá; anh có thể đếm số hộp và biết chính xác thực phẩm của họ còn đủ cho bao nhiêu ngày, có thể lấy một chiếc bút chì và đánh dấu ngày lên giá và thậm chí không cần đếm chúng, anh vẫn có thể liếc cái giá và đọc được ngày họ cạn lương thực ngay lập tức, giống như đọc nhiệt kế vậy. Nhưng anh thậm chí không nhìn vào đó.

Anh biết rằng trong khoảng thời gian này mình đang bị điên và đôi khi cũng đấu tranh chống lại chứng điên, tin rằng mình đã chế ngự được nó, bởi những chiếc hộp, ngoài thú nhận bi thảm rằng chúng thậm chí chẳng quan trọng, thì chúng cũng hoàn toàn không nằm trong mối quan tâm của anh như thể chúng chưa hề tồn tại, và anh cứ nhìn những gì quen thuộc xung quanh mình với cảm giác chán nản não nùng, thậm chí chẳng ý thức được rằng mình đang lo lắng quá đỗi khi nhận ra bản thân không biết lo lắng về điều đáng phải lo; trong nỗi kinh ngạc đến bàng hoàng, anh nhìn cái nơi hoang vắng tràn ngập ánh mặt trời - nơi hiện tại cô đã đi khỏi mà như chưa đi và là nơi mà lát nữa cô trở về, sẽ lại bước vào cái không gian vẫn còn lưu lại mùi hương thoang thoảng của cô khi cô ra ngoài, và cô có thể sẽ nhận thấy anh đang nằm dài trên giường mà không ngủ, thậm chí không đọc sách, bởi anh đã đánh mất những thói quen đó và đang lẩm bẩm một mình, Mình buồn chán. Mình chán muốn chết. Ở đây mình chẳng được tích sự gì. Ngay cả nàng cũng chẳng cần mình. Mình đã chặt củi đủ dùng cho đến tận Giáng Sinh rồi và chẳng còn việc gì khác để làm nữa.

Một hôm, anh bảo cô cùng anh phân loại màu và giấy vẽ. Cô làm như anh nói và phát hiện ra anh bị mù màu, thậm chí không thể nhận biết được màu sắc. Sau đó, ngày nào anh cũng nằm trong khoảng rừng thưa nhỏ hẹp có mùi nhựa cây rất hắc, hút một cái tẩu rẻ tiền (thứ duy nhất anh đem theo trước khi rời Chicago để dự phòng cho cái ngày họ hết sạch cả thức ăn lẫn tiền bạc), một nửa tập giấy dùng để vẽ phác thảo và một ít màu vẽ chưa sử dụng đựng trong hộp được để bên cạnh. Rồi một hôm, anh quyết định tạo một cuốn lịch - ý niệm được hình thành một cách ngây thơ không phải bởi tư duy hay mong muốn, mà do nỗi buồn bực của cơ bắp, và anh thực hiện việc đó với niềm thích thú âm thầm hoàn toàn theo cảm tính của người đàn ông chạm khắc một cái giỏ từ hột đào hoặc khắc Kinh Lạy Cha trên đầu một cây kim; anh vẽ những nét rõ ràng trên mặt giấy, ghi những con số biểu thị ngày tháng lên đó, suy tính để sử dụng các màu thích hợp và khác nhau cho những ngày Chủ nhật và ngày lễ. Anh lập tức phát hiện ra rằng mình đã mất khả năng tính ngày, nhưng điều đó chỉ giúp anh thêm hào hứng, kéo dài việc anh đang làm, tạo thêm thích thú - cái giỏ bằng hột đào trở thành một chiếc giỏ kép, Kinh Lạy Cha trở thành mật mã. Và anh nhớ lại buổi sáng đầu tiên cùng McCord ngồi xổm trên bờ hồ, biết hôm đó là ngày bao nhiêu và thứ mấy, rồi đếm xuôi bằng cách khôi phục lại từ trí nhớ về những ranh giới lờ mờ giữa những buổi bình minh kế tiếp, lần tìm các ngày thứ Ba, thứ Sáu, Chủ nhật từ cái nơi hoang vắng bị tác động bởi ánh sáng mặt trời và không có thủy triều này, lần ra từng ngày từng ngày một; và khi chợt nghĩ rằng mình có thể chứng thực các con số, chứng minh sự chính xác toán học của những khoảng trống vô tận đầy ánh nắng mà trong đó, các ngày đơn lẻ đã mất hút bằng những ngày Charlotte có kinh nguyệt và khoảng thời gian giữa hai chu kỳ của cô, anh cảm thấy mình chắc hẳn đang trải nghiệm cái cảm giác của ông già mê nghiên cứu chiêm tinh học sống trên ngọn đồi cổ xưa ở Syria sau khi tình cờ biết được công thức của một nhà toán học ở Alexandria - chứng minh sự thật về các vì sao mà ông đã ngắm hằng đêm trong suốt cuộc đời - và biết rằng sự thật là như vậy nhưng không biết giải thích bằng cách nào và tại sao mình lại biết.

Có điều gì đó không ổn xảy ra với anh. Anh ngồi nhìn thứ mà mình tạo ra, hân hoan và ngạc nhiên đến mức sửng sốt trước sự khéo léo của mình trong việc sáng chế cho Thượng Đế và tự nhiên một thứ bộc lộ sự phí phạm, ngông cuồng không có khuôn mẫu, phi lý, phi toán học và chẳng theo bất kỳ trật tự nào, chứng minh những khó khăn trong việc làm tính khi anh phát hiện ra mình đã để tháng Mười có những sáu tuần và ngày mà anh đang sống là ngày Mười hai tháng Mười một. Anh cảm thấy dường như mình có thể nhìn thấy rõ rành rành các chữ số rất thật và đơn lẻ trong sự kế tiếp không tên của những ngày đã mất; anh dường như nhìn thấy dãy hộp chứa thực phẩm trên giá cách mình nửa dặm, các hình thù rõ ràng như những quả ngư lôi giờ đây đã rơi từng chiếc từng chiếc một khỏi giá - không tiếng động và trọng lượng - vào khoảng thời gian chậm chạp không phải về phía trước mà ở trạng thái ngược dòng thời gian và bằng cách nào đó tìm thức ăn cho hai nạn nhân của nó khi họ còn thở; thời gian giờ đây là đối tượng chuyển động, tiến về phía trước một cách từ từ và chẳng thể cưỡng lại được, thấm hút những chiếc can đó, từng chiếc, từng chiếc một cách đều đặn và không ngừng như bóng mây bao trùm không gian. Đúng vậy, anh nghĩ. Mùa hè India đấy. Mình đã bị một ả điếm già dụ tới thiên đường của một gã đần; bị thần Lilith già khụ và mệt mỏi của năm bóp nghẹt và vắt kiệt tất cả sức mạnh lẫn ý chí.

Anh đốt những tờ lịch đi rồi quay trở về căn nhà bên hồ. Cô vẫn chưa về. Anh đi tới giá để thực phẩm và đếm những chiếc hộp trên đó. Khoảng hai tiếng đồng hồ nữa mặt trời mới lặn; khi nhìn về phía hồ, anh phát hiện ra rằng hiện tại mình không nhìn thấy mặt trời mà chỉ có một đám mây lớn như đám bông bẩn trên bầu trời giăng từ phía đông lên phía bắc, sang phía tây và cảm giác không khí cũng đã thay đổi. Đúng vậy, anh nghĩ. Đồ chó cái già. Cô ta đã phản bội mình và bây giờ cô ta thậm chí không cần phải giả vờ giả vịt nữa. Cuối cùng anh nhìn thấy cô đi vòng theo bờ hồ trở về, mặc quần của anh cùng một chiếc áo len cũ mà họ tìm thấy trong tủ để chăn. Anh bước ra để gặp cô. “Lạy Chúa lòng lành”, cô nói. “Em chưa bao giờ nhìn thấy anh phấn khích như thế này. Anh đã vẽ được một bức tranh hay cuối cùng đã phát hiện ra rằng loài người thậm chí không cần phải cố gắng cũng có thể tạo ra các tác phẩm nghệ thuật...”Anh không ý thức được rằng mình di chuyển nhanh đến thế; khi choàng tay ôm cô và làm cô đứng khựng lại bằng sức mạnh của cơ thể; cô ngả người về phía sau, nhìn anh bằng ánh mắt thể hiện sự thẳng thắn và không vương chút ngạc nhiên giả tạo.

“Ừ”, anh nói. “Hôn một cái nhé?”

“Tại sao, tất nhiên rồi”, cô nói. Rồi cô lại ngả người về phía sau để nhìn anh. “Có chuyện gì vậy? Chuyện gì đã xảy ra vậy?”

“Em có sợ phải ở đây một mình đêm nay không?” Anh hỏi trong khi cô bắt đầu vùng vẫy để thoát ra khỏi vòng tay anh.

“Buông em ra. Em thấy anh không ổn lắm.” Anh buông cô ra, mặc dù cố đối diện với cái nhìn từ đôi mắt màu vàng không chớp của cô - đôi mắt mà anh chưa bao giờ có thể nói dối khi nhìn thẳng vào nó. “Đêm nay ư?”

“Hôm nay là ngày Mười hai tháng Mười một.”

“Đúng. Vậy có chuyện gì nào?” Cô nhìn anh. “Vào nhà đi. Vào nhà và nói rõ đầu đuôi em nghe xem nào.” Họ vào nhà; cô đứng lại và đối diện với anh. “Nào, anh hãy nói rõ ngọn ngành xem.”

“Anh vừa mới đếm những chiếc hộp. Anh đã tính...” Cô nhìn anh chằm chằm với vẻ cứng cỏi gần như lạnh lùng. “Chúng ta chỉ còn đủ thức ăn cho khoảng sáu ngày nữa.”

“Phải. Vậy thì sao nào?”

“Thời tiết ôn hòa. Cứ như thể thời gian đã ngừng trôi và chúng ta giống như hai lát khoai tây trên mặt hồ. Vậy nên anh đã không nghĩ ngợi để rồi đâm lo hoặc khoanh tay ngồi nhìn. Anh sẽ đi bộ tới ngôi làng gần nhất. Nó chỉ cách đây mười hai dặm thôi. Anh có thể trở về trước chiều mai.” Cô nhìn anh không chớp. “Có một bức thư. Thư của Mac đang ở đó.”

“Anh nằm mơ thấy nó ở đó, hay anh đã tìm thấy nó trong bình cà phê khi kiểm tra chỗ thực phẩm còn lại?”

“Có thư ở đó thật mà.”

“Thôi được. Nhưng đợi đến sáng mai hãy đi. Anh không thể đi bộ mười hai dặm trước khi trời tối được.” Họ ăn tối và đi ngủ. Lần này cô lên giường ngủ với anh từ sớm, thúc mạnh khuỷu tay vào người anh khi bàn tay gây đau của cô túm tóc anh, lắc đầu anh với vẻ nôn nóng hoang dại. “Lạy Chúa, trong đời mình em chưa từng thấy ai cố gắng hết sức để trở thành một người chồng như anh đang làm. Hãy nghe em nói này, anh ngốc lắm. Anh thử nghĩ xem nếu những gì em muốn chỉ là có một người chồng thành đạt, đủ thức ăn và một chiếc giường thì em đã ở lại nơi em có tất cả những thứ ấy, chứ tội gì em phải đến đây hả?”

“Em cũng phải ngủ, phải ăn chứ.”

“Tất nhiên chúng ta phải ngủ, phải ăn. Nhưng tại sao phải lo lắng về chuyện đó nhỉ? Giống như người ta cứ lo phải tắm chỉ vì phòng tắm sắp bị mất nước.” Rồi cô ngồi bật dậy, đột ngột ra khỏi giường với niềm phấn khích; anh nhìn cô vội vàng bước ra mở cửa và thò đầu ra ngoài. Anh có thể ngửi thấy mùi tuyết trước khi cô nói, “Đang có tuyết rơi”.

“Mình biết. Mình biết trưa nay nàng hiểu ra rằng trò chơi đã kết thúc.”

“Nàng ư?” Cô đóng cửa lại. Lần này cô đi tới chiếc giường khác và trèo lên đó. “Cố ngủ đi anh. Ngày mai anh sẽ phải đi bộ vất vả đấy, nếu như tuyết rơi nhiều.”

“Dù sao thư vẫn ở đó.”

“Được rồi”, cô nói rồi ngáp và xoay lưng lại phía anh. “Có thể thư đã được chuyển tới đó khoảng một hoặc hai tuần rồi.”

Rạng sáng, anh lên đường. Tuyết đã ngừng rơi và trời khá lạnh. Anh tới ngôi làng gần nhất sau bốn giờ đi bộ và tìm thấy bức thư của McCord gửi cho họ. Trong phong bì thư có hai mươi lăm đô la; anh ta đã bán được một bức tượng và tìm được việc làm cho Charlotte ở một cửa hàng trong mùa Giáng Sinh. Không lâu sau khi trời tối, anh về tới căn nhà bên hồ. “Em có thể bỏ tất cả những gì chúng ta còn vào nồi”, anh nói. “Chúng ta có hai mươi lăm đô la. Và Mac tìm được một công việc cho em đấy. Tối thứ Bảy, anh ấy sẽ lái xe tới đây.”

“Tối thứ Bảy ư?”

“Anh đã gọi điện cho Mac rồi. Anh ở đó đợi anh ấy trả lời nên về muộn.”

Họ ăn tối và lần này cô lặng lẽ đi tới chiếc giường chật hẹp với anh, khẽ trườn tới gần anh, và anh ngạc nhiên vì từ trước đến giờ chưa từng thấy cô xử sự như vậy trước bất cứ chuyện gì.”

“Em sẽ tiếc nếu phải rời khỏi đây.”

“Em sẽ tiếc ư?”, anh khẽ nói bằng giọng bình thản, trong khi vẫn nằm ngửa, hai tay khoanh trước ngực như bức tượng đá trên một ngôi mộ cổ của thế kỷ X. “Tiếc thì tiếc nhưng khi tới đó, em có thể sẽ cảm thấy vui vì mình đã trở về. Em sẽ gặp lại mọi người, McCord và những người em thích, sẽ hưởng Giáng Sinh và mọi thứ. Em có thể đi gội đầu và làm móng tay ở tiệm.” Lần này cô - người có thói quen tấn công anh dữ dội mà không cần quan tâm đến cảm giác của anh, thường túm tóc anh lắc giật không chỉ vì muốn có sự chuyển biến mà còn vì muốn nhấn mạnh - lại nằm im. Quả thực, lần này cô nằm im, thậm chí gần như không thở, giọng nói của cô không tràn ngập tiếng thở dài mà đầy hoài nghi đến mức gây ngạc nhiên:

“Có thể em sẽ. Em. Em có thể. Harry, anh nói thế là có ý gì?”

“Anh muốn nói rằng anh đã gọi điện cho Mac đến đón em. Em sẽ có việc làm đến hết mùa Giáng Sinh. Anh nghĩ anh sẽ giữ một nửa số tiền hai mươi lăm đô la này và ở lại đây. Có lẽ Mac có thể sẽ tìm cho anh công việc nào đó; nếu không có công việc gì khác, thì có thể xin việc tại W.P.A1 cũng được. Khi đó anh sẽ trở về thành phố và chúng ta có thể...”

“Không!”, cô kêu lên. “Không! Không! Lạy Chúa, không! Hãy ôm em đi! Hãy ôm em thật chặt, Harry! Chúng ta đã làm tất cả những gì có thể và phải trả giá để được như thế này: Để chúng ta được ở bên nhau, ngủ với nhau hằng đêm, chứ không phải chỉ để ăn, tìm chỗ sơ tán, ngủ cho ấm người rồi lại thức dậy ăn, tìm chỗ để sơ tán và ngủ cho ấm người! Hãy ôm em đi! Hãy ôm em thật chặt! Thật chặt!” Anh ôm cô bằng hai cánh tay căng cứng, mặt vẫn hướng lên phía trên, bờ môi cong cong để lộ cả những chiếc răng.

Chúa, anh nghĩ. Chúa sẽ giúp nàng. Chúa sẽ giúp nàng.

1 Tên viết tắt của Works Progress Adminitration, một cơ quan của chính phủ Mỹ được lập ra để giải quyết nạn thất nghiệp.

Họ rời khỏi vùng tuyết phủ bên hồ, mặc dù trước khi tới Chicago, họ đã đi qua khoảng không gian cuối của mùa hè đang trôi về phía nam của India. Nhưng những ngày ấy cũng chẳng kéo dài và giờ đây ở Chicago cũng đang là mùa đông, gió Bắc từ Canada tràn xuống khiến nước trong Hồ Lớn đóng băng và thổi thốc vào những hẻm núi đá nơi có những cây Holly đã đâm chồi đón mùa Giáng Sinh sắp đến, làm khuôn mặt của những viên cảnh sát, nhân viên văn phòng, kẻ ăn mày và cả những người thuộc Hội Chữ thập đỏ và Cứu thế quân mặc trang phục của ông già tuyết nhăn nhúm và lạnh cóng; ngày tàn đi trong ánh đèn nê-ông tỏa sáng trên khuôn mặt trùm khăn hay mũ bằng lông thú của các bà vợ và các cô con gái của những đại gia phất lên nhờ khai thác gỗ và nuôi gia súc, các ả tình nhân của những tay cảnh sát từ châu Âu và từ những khu du lịch sinh thái tới để nghỉ lễ tại các căn hộ sang trọng bên hồ nước đã đóng băng và ở trong phố, khoe khoang sự giàu sang của thị thành trước khi lên đường tới Florida, những đứa con trai của các nhà môi giới chứng khoán ở Luân Đôn, các hiệp sĩ ở Midland, những thượng nghị sĩ ở Nam Phi, những người đến để vãn cảnh Chicago bởi đã đọc các tác phẩm của Whitman, Masters, Sandburg ở trường Oxford hoặc Cambridge - các thành viên của giống người không có tài khám phá, được trang bị sổ ghi chép, máy ảnh cùng túi không thấm nước đựng đồ vệ sinh cá nhân khi đi du lịch, giống người đã quyết định bỏ qua mùa nghỉ lễ của người Thiên Chúa giáo trong các khu rừng hoang vu, tối tăm mà ở đó người ta dễ bị cắn, đốt.

Charlotte làm việc trong chính cái cửa hiệu từng mua những bức tượng đầu tiên mà cô tạo ra. Công việc của cô là sắp xếp và trang trí cửa hàng, vậy nên ngày làm việc của cô thỉnh thoảng bắt đầu vào buổi chiều, lúc tiệm đã đóng cửa và những người làm công khác hết giờ làm. Wilbourne và đôi khi cả McCord đợi cô tại quán bar ở góc đường nơi họ ăn tối sớm. Sau đó, McCord rời khỏi đó để bắt đầu buổi làm việc lấy đêm làm ngày của anh ta tại tòa soạn báo còn Charlotte và Wilbourne trở lại cái cửa hàng mà giờ đây đã bắt đầu đời sống nghịch chuyển kỳ cục của nó - kính crom, hang động bằng cẩm thạch nhân tạo - nơi mà trong tám tiếng đồng hồ ban ngày đã đầy ứ những tiếng rì rầm đầy tham lam, thô tục của những người mua hàng mặc đồ may bằng lông thú, nơi thừa mứa vẻ nhăn nhó đồng dạng cố hữu của những cô bán hàng mặc đồ xa tanh tựa những con rô bốt, giờ đây không còn sự ồn ào, chỉ còn ánh sáng lấp lánh và không khí im ắng cùng sự dội lại của bầu im lặng sâu hút, nơi dường như đang bị thu nhỏ, đầy ắp nỗi tức giận căng thẳng nham hiểm như một bệnh viện vắng người lúc nửa đêm mà trong đó một vài bác sĩ phẫu thuật trông giống người Pích-mê1 cùng vài y tá chiến đấu bằng sự đứng đắn không ồn ã để giành giật sự sống mỏng manh, vô tăm tích nào đó, nơi mà Charlotte cũng mất hút (không hẳn là biến mất hoàn toàn: Thỉnh thoảng, anh nhìn thấy cô trao đổi với ai đó như thể bằng ngôn ngữ cơ thể về đồ vật mà một trong số họ đang cầm, hoặc đi lại trong gian hàng). Anh có một tờ báo buổi tối và trong hai hoặc ba tiếng đồng hồ tiếp theo, anh ngồi trên chiếc ghế mỏng manh đặt giữa các bức tượng không có khớp nối và rỗng ruột được tạo tác đầy tinh tế có khuôn mặt trông thanh thản đến mức gần như khó tin, các bức gấm thêu kim tuyến, những đồng xêquin hoặc những viên kim cương giả lấp lánh, trong khi những người phụ nữ làm công việc lau dọn xuất hiện trong tư thế quỳ, đẩy những chiếc xô phía trước như thể họ là một loài vật, chuột chũi chẳng hạn, từ một đường hầm hoặc một cái lỗ nào đó trong lòng đất bò lên, phục vụ quy tắc vệ sinh khó hiểu nào đó, không phải vì sự lộng lẫy câm lặng mà họ thậm chí chẳng buồn nhìn mà vì cái khu vực ngầm bí mật mà họ sẽ bò trở về trước khi trời sáng.

1 Chủng tộc người nhỏ bé nhất thế giới, cư trú rải rác trong các khu rừng rậm dọc xích đạo Trung Phi và tập trung nhiều nhất ở các khu rừng nhiệt đới Congo.

Khi Giáng Sinh đến gần, mười một giờ hoặc nửa đêm, thậm chí muộn hơn, anh và cô mới trở về nhà - căn hộ không có bàn làm việc cũng chẳng có ô cửa sổ trần mà là một căn hộ mới và đơn sơ, thuộc một quận gần công viên (nơi mà cứ khoảng mười giờ sáng khi đang nằm trên giường giữa giấc ngủ đầu tiên và giấc ngủ thứ hai của ngày, anh có thể nghe thấy giọng nói của những đứa trẻ đang vui chơi bị các cô bảo mẫu làm phiền vọng tới), nơi mà Charlotte lên giường đi ngủ còn anh thì lại ngồi bên chiếc máy chữ, ném hầu hết thời gian của cả ngày vào cái công cụ mà thoạt tiên anh mượn của McCord, sau đó thuê từ một đại lý rồi mua về cho riêng mình giữa đống súng ngắn và những chiếc răng vàng trong một tiệm cầm đồ; với chiếc máy chữ, anh đã viết rồi bán cho những tạp chí chuyên đăng các mẩu truyện rẻ tiền dành cho độc giả nữ - những mẩu truyện bắt đầu bằng câu “Tôi có một cơ thể và những khát khao của một người đàn bà, nhưng xét về hiểu biết và sự trải đời thì tôi chỉ là một đứa trẻ” hoặc “Ước gì tôi có tình yêu của người mẹ che chở cho tôi trong cái ngày kinh khủng đó”, những mẩu truyện mà từ chữ cái in hoa đầu tiên cho đến đoạn cuối cùng đều được anh viết bằng thôi thúc đau đớn và nỗi điên cuồng khôn nguôi giống như trung vệ của một đội bóng học hành chật vật, cướp được bóng (chính các tác phẩm như Chim hải âu, Nghìn lẻ một đêm mới là đấu thủ của gã trung vệ chứ không phải là những vạch vôi rõ rành rành, đáng sợ và vô nghĩa như cơn ác mộng của một kẻ đần độn trên sân thi đấu) và chạy mướt mồ hôi cho tới khi cuộc chơi kết thúc - gục xuống hoặc nằm vắt ngang đường biên, không quan trọng là đường biên của bên nào; sau đó, đôi khi vào lúc mặt trời hiện ra bên ngoài ô cửa sổ mở toang của phòng ngủ lạnh lẽo, anh trèo lên giường nằm cạnh Charlotte trong khi cô trở mình về phía anh mà không tỉnh giấc, lẩm bẩm điều gì đó bằng giọng nghèn nghẹt nghe chẳng rõ, và anh lại nằm đó ôm cô giống như đã từng làm trong cái đêm cuối cùng bên hồ; anh thức chong chong, cứng người, im lặng và không hề biết đến cảm giác thèm ngủ, chỉ nằm đó đợi mùi và tiếng vọng của mẻ truyện rẻ tiền mới nhất dành cho loại độc giả tầm thường được trút ra khỏi cơ thể mình.

Vậy là hầu như anh thức trong khi cô ngủ và ngược lại. Cô thường thức dậy, đóng cửa sổ, mặc quần áo rồi pha cà phê (bữa sáng mà khi túng thiếu và không biết sắp tới lấy đâu ra cà phê để cho vào bình, họ chuẩn bị đồ ăn và ăn cùng nhau, những chiếc bát đĩa bẩn được xếp kề nhau ở bồn rửa) và rời khỏi nhà lúc nào anh không hay biết. Sau đó đến lượt anh thức dậy, lắng nghe tiếng những đứa trẻ đi ngoài đường phố trong khi cà phê được hâm nóng, uống cà phê rồi ngồi xuống bên chiếc máy chữ, không cần cố gắng hay có niềm hối tiếc đặc biệt nào, bắt đầu trôi vào cơn mê của tính sáng tạo đơn điệu. Thoạt đầu, anh tự làm bữa trưa cho mình theo kiểu thực hiện một thủ tục - lấy thực phẩm, thái thịt và chế biến chúng hệt như tối hôm trước, giống một đứa bé trai trong bộ quần áo kiểu Daniel Boone mới toanh tích trữ những chiếc bánh quy trong ngăn tủ để chổi. Nhưng từ khi mua được cái máy chữ (anh tự nhủ sẽ sẵn lòng từ bỏ vị trí nghiệp dư của mình và thậm chí không còn phải giả vờ với chính mình rằng đó là một việc làm cho vui nữa), anh bắt đầu chẳng buồn bận tâm đến chuyện ăn trưa, thay vì thế anh ngồi viết mải miết, chỉ ngừng gõ máy chữ để các ngón tay được nghỉ ngơi một lúc, trong khi điếu thuốc chầm chậm cháy xém vào mép bàn, nhìn mà như không nhìn vào hai hoặc ba dòng chữ hiển hiện của mẩu truyện hư cấu ngớ ngẩn mới nhất được đánh máy bằng chữ đậm và đám bã kẹo cao su, rồi chợt nhớ ra điếu thuốc và vội cầm nó lên, dụi vào mép bàn, tạo ra một vết sẹo mới trên mặt gỗ trước khi tiếp tục viết. Rồi cứ đến giờ nhất định, anh lại rời khỏi căn hộ với một chiếc phong bì đã được dán tem ghi sẵn địa chỉ đôi khi vừa mới ráo mực, và đi bộ qua các con phố đông đúc, qua những buổi chiều đang bị rút ngắn một cách đều đặn của một năm đang lụi tàn, để đến cái quán bar - nơi anh, Charlotte và McCord gặp nhau.

Ở quán bar cũng đã có không khí Giáng Sinh, những nhành Holly và dây tầm gửi được đặt giữa những chiếc ly được xếp thành hình tháp lấp lánh, những chiếc gương nhại lại hình ảnh của những chiếc áo khoác nhẹ của phục vụ trông thật khôi hài, những bát rượu rum cùng whiskey được hâm nóng bốc hơi để khách có thể ngắm và khuyên nhau dùng trong khi đã cầm trong tay ly cocktail hoặc whiskey pha soda có đá họ đã uống trong suốt mùa hè. McCord ngồi tại chiếc bàn quen thuộc với những thứ anh ta gọi là bữa sáng - một cốc vại bia, một ít bánh quy hoặc lạc rang muối hay bất cứ thứ gì quán bar có, còn Wilbourne thì nhâm nhi ly rượu mà anh cho phép mình thưởng thức trước khi Charlotte xuất hiện (“Bây giờ tôi có thể trả tiền cho sự điều độ và tỉnh táo”, anh nói với McCord) và họ đợi đến khi các cửa hàng hết khách, những cánh cửa kính mở rộng, dồn ra phố thứ ánh sáng lạnh lẽo và nhợt nhạt của đèn nê-ông cùng các khuôn mặt trùm khăn và mũ lông thú có cài những nhành Holly, làm lộ ra khoảng không gian hút gió tựa các hẻm núi diêm dúa và đầy màu sắc tươi tắn với những giọng nói hoạt bát cất lên lời chúc đầy thiện ý từ những cái miệng không ngừng thở ra khói, các nhân viên bán hàng trong bộ đồ xa tanh đen đổ ra như một dòng thác, những đôi chân sưng to vì đứng lâu, những khuôn mặt thể hiện nỗi đau đớn vì đã phải mang vẻ nhăn nhó cứng nhắc trong suốt nhiều tiếng đồng hồ. Và rồi Charlotte bước vào quán; họ ngừng nói chuyện, nhìn cô bước tới, chen qua đám đông ở quầy bar, len lách giữa đám người phục vụ cùng những chiếc bàn kê san sát, với chiếc áo khoác không cài cúc mặc ngoài bộ đồng phục gọn ghẽ, chiếc mũ được đội theo kiểu hơi hếch về phía sau như thể cô đã dùng cánh tay gạt nó trong một cử chỉ thể hiện cơn thấm mệt thường thấy ở phụ nữ, đi tới bên chiếc bàn họ đang ngồi, sắc mặt không được hồng hào mà đầy vẻ mệt mỏi mặc dù cô vẫn bước đi một cách mạnh mẽ và vững chãi như mọi khi, đôi mắt toát lên vẻ trung thực cố hữu không thể lung lạc phía trên chiếc mũi ngắn cùng sự mạnh mẽ trên cái miệng thô, rộng, nhợt nhạt. “Rượu rum nhé, các chàng”, cô nói rồi ngồi lún sâu trong chiếc ghế đã được một trong hai người bọn họ kéo ra: “Rồi, bố ạ”. Sau đó họ ăn, vào cái giờ không thích hợp khi mà hầu như những người khác chỉ mới bắt đầu chuẩn bị nấu nướng (“Tôi cảm thấy bọn mình giống như ba con gấu trong một cái chuồng vào chiều Chủ nhật vậy”, cô nói), ăn bữa mà không ai trong bọn họ muốn rồi giải tán, McCord tới tòa soạn, Charlotte và Wilbourne quay trở lại cửa hàng.

Hai ngày trước Giáng Sinh, cô bước vào quán bar với một gói quà trong tay. Đó là quà Giáng Sinh dành cho hai đứa con gái của cô. Nơi họ đang sống không còn bàn làm việc cũng chẳng có ô cửa sổ trần. Cô mở cái gói đó ra rồi gói lại theo cách của mình trong lúc ngồi ở mép giường - nơi mà việc hoài thai trẻ con xảy ra không có chủ ý giờ đây trở thành cái bệ tôn nghiêm của hoạt động nghi lễ dành cho chúng; cô ngồi giữa đám giấy gói quà được trang trí hình những chiếc lá nhỏ, những sợi dây màu xanh, đỏ mỏng manh và những cái nhãn được phết keo dính mà nhìn hai gói quà mình đã chọn mua với giá khá đắt nhưng chẳng có gì đặc biệt bằng ánh mắt đờ đẫn, chán nản. “Em thậm chí không được dạy cách gói các thứ”, cô nói. “Trẻ con ư?” Đây thực sự không phải là việc của trẻ con mà là của người lớn: Một tuần để quay trở lại làm trẻ con, để tặng thứ mà bản thân anh không muốn cho người chẳng muốn nhận nó, và đòi hỏi người ta phải cảm ơn mình. Và bọn trẻ cũng làm như thế, trao đổi cái chúng không muốn cho anh. Chúng tạm thôi không làm trẻ con để chấp nhận vai trò mà anh đã từ bỏ bởi ham muốn được phát triển vượt khỏi đứa trẻ trong chúng, đứa trẻ bị sao chép theo kiểu trộm giật không từ bất cứ mánh khóe nào - lừa dối, vụng trộm, đóng kịch - để đạt được bất cứ điều gì, bất cứ đồ trang trí lòe loẹt rẻ tiền nào. Những món quà chẳng có ý nghĩa gì với chúng hết cho đến khi chúng đủ lớn để biết một món quà nào đó trị giá khoảng bao nhiêu tiền. Đó là lý do tại sao các bé gái lại thích quà hơn bé trai. Vậy là chúng nhận thứ mà anh tặng không phải vì thà nhận những thứ đó còn hơn không có gì mà bởi đó là tất cả những gì chúng mong đợi từ những kẻ ngốc, những kẻ mà vì lý do nào đó, chúng phải sống cùng hoặc buộc phải có liên quan trên đời này... Bọn họ đã đề nghị em tiếp tục làm việc ở cửa hàng.”

“Gì cơ?”, anh hỏi. Nãy giờ anh không để tâm nghe xem cô nói gì, mà cứ nhìn đăm đăm đôi bàn tay thô của cô giữa đám dây kim tuyến và nghĩ: Bây giờ là lúc mình phải nói, Hãy về nhà đi em. Hãy ở bên các con em đêm nay.

“Gì cơ?”

“Họ sẽ giữ em lại làm việc ở cửa hàng cho đến hè.” Lần này anh đã nghe rõ điều cô nói; anh từng trải qua cảm giác tương tự khi nhận ra con số trên cuốn lịch mà mình tạo ra, bây giờ anh đã biết vấn đề của mình bấy lâu nay, tại sao sáng sớm anh lại nằm cứng người và đầy cảnh giác bên cạnh cô, tin rằng lý do anh không thể ngủ được là để đợi mùi của thứ văn chương tầm thường, rẻ tiền của mình loãng đi, lý do tại sao anh lại ngồi trước một trang bản thảo còn dang dở trên máy chữ, tin là mình đang chẳng nghĩ về điều gì cả, chỉ nghĩ đến tiền mà thôi, tin rằng chẳng bao giờ bọn họ có được đủ tiền như mong đợi, cũng như một kẻ nghiện rượu nhận thấy với mình bao nhiêu rượu cũng chẳng đủ: Không bận tâm chút nào hoặc bận tâm quá nhiều. Mình đang nhớ về thành phố, anh nghĩ. Thành phố và mùa đông, một sự kết hợp quá dữ dội đối với chúng mình - mùa đông dồn con người vào bên trong những bức tường ở bất cứ nơi đâu họ sống, nhưng mùa đông và thành phố kết hợp với nhau thành một địa lao; Thậm chí tội lỗi cũng trở thành thói thường, ngay cả ngoại tình cũng được xá tội. “Không”, anh nói. “Bởi chúng ta sẽ rời khỏi Chicago.”

“Rời khỏi Chicago ư?”

“Đúng vậy. Mãi mãi. Em sẽ không làm việc chỉ vì tiền nữa. Đợi chút”, anh nói nhanh. “Anh biết thời gian qua chúng ta sống như thể đã cưới nhau được năm năm rồi, nhưng anh sẽ không đặt gánh nặng của người chồng lên vai em nữa. Anh biết mình nghĩ, ‘Mình muốn vợ mình được hưởng những gì tốt nhất’ nhưng chưa nói, ‘mình không thích người phụ nữ của mình phải làm việc để kiếm sống’. Đó không phải là mục đích của chúng ta. Khi hiểu ra mình làm việc vì mục đích gì thì đã quá muộn và chúng ta đã nhiễm thói quen làm việc mất rồi. Em có nhớ em đã nói gì ở bên hồ khi anh gợi ý rằng em nên rời khỏi đó không - rằng ‘Chúng ta đã trả giá để đạt được điều này: Để được ở bên nhau, được ăn, ngủ cùng nhau’ có đúng không nào? Bây giờ em hãy nhìn chúng ta mà xem. Khi chúng ta ở bên nhau, thì đó là ở quán rượu, trong xe hơi hoặc đi bộ trên đường phố đông đúc và khi chúng ta ăn cùng nhau, thì đó là ăn tại một quán ăn đầy người trong khoảng thời gian người ta cho em nghỉ ở cửa hàng để em có thể ăn và giữ sức, để họ có thể tiếp tục khai thác giá trị của đồng tiền mà họ trả cho em vào những ngày thứ Bảy, và chúng ta không ngủ cùng nhau nữa, chúng ta nhìn nhau ngủ, người này thức thì người kia ngủ; khi chạm vào em, anh biết em quá mệt và biết mình không nên làm em thức giấc, còn em, có lẽ em mệt tới mức không đủ sức để chạm vào anh.”

Ba tuần sau, với cái địa chỉ được viết nguệch ngoạc trên một mẩu rìa báo nào đó được gấp lại trong túi áo vest, anh bước vào một tòa nhà văn phòng, đi lên tầng hai mươi để tới một cánh cửa kính mờ có ghi tên Callaghan Mines; lúc bước vào trong, anh gặp chút khó khăn vì phải vượt qua một cô nhân viên văn phòng khi cuối cùng cũng hiện diện ở phía bên kia một chiếc bàn phẳng gần như chỉ có mỗi cái điện thoại và bộ bài được bày sẵn cho kiểu chơi một người, đối mặt với một người đàn ông khoảng năm mươi tuổi có đôi mắt lạnh lùng, khuôn mặt đỏ bừng bừng, đầu tóc trông như kẻ cướp đường và mang thân hình của một hậu vệ thuộc đội bóng sinh viên; người đàn ông nặng hai trăm hai mươi pound1 đó đã phát phì trong một bộ vest tông bằng vải tuýt đắt tiền chẳng hợp với mình chút nào, cứ như thể ông ta đã kiếm được bộ đồ đó từ một vụ bán tống bán tháo, và giờ đây Wilbourne đang cố giới thiệu ngắn gọn về trình độ cũng như kinh nghiệm trong nghề y của mình với ông ta.

1 Đơn vị cân Anh: 1 pound = 0,454 kilogram.

“Tôi không quan tâm đến những cái đó”, người đàn ông ngắt lời anh. “Anh có thể xử lý các vết thương thông thường mà những người làm việc trong hầm mỏ gặp phải không?”

“Tôi chỉ đang cố nói với ông...”

“Tôi đã nghe anh nói rồi. Tôi hỏi anh điều khác kia. Tôi nói rồi, tôi chỉ cần biết anh có thể xử lý những vết thương thông thường hay không thôi.” Wilbourne nhìn ông ta.

“Tôi không nghĩ mình...”

“Tôi chỉ quan tâm đến cái mỏ đó. Những người sở hữu nó. Những người đã đổ tiền vào đó. Những người sẽ trả lương cho anh chừng nào anh còn hữu ích. Tôi không quan tâm anh biết ít hay nhiều về mổ xẻ và thuốc men, cũng cóc cần biết anh có bao nhiêu bằng. Chẳng ma nào ở đó quan tâm đến chuyện ấy đâu; chẳng có thanh tra nhà nước nào kiểm tra bằng cấp và giấy phép hành nghề của anh cả. Tôi muốn biết liệu anh có phải là người đáng tin cậy để giao phó việc chăm sóc sức khỏe ở mỏ của tôi và công ty của tôi hay không. Lo chuyện thương vong trong những vụ nổ mìn. Lo chuyện bảo hộ lao động cho những gã người Ý nhặt và xúc quặng, những gã người Đông Âu phụ trách mảng thuốc nổ và những gã người Tàu điều khiển xe goòng - những kẻ mà do sai lầm trong suy nghĩ có thể đánh đổi với công ty một bàn tay hoặc một bàn chân để lấy lương hưu hoặc một chuyến quay trở về Canton hoặc Hồng Kông.”

“Ồ”, Wilbourne nói. “Tôi hiểu. Có. Tôi có thể đảm nhận việc đó.”

“Được. Anh sẽ được đưa tới mỏ ngay lập tức. Lương của anh sẽ là...”, ông ta đưa ra một con số.

“Mức lương đó không phải là nhiều”, Wilbourne nói. Người đàn ông nhìn anh bằng đôi mắt đỏ ngầu. Anh đối diện với cái nhìn đó. “Tôi tốt nghiệp một trường đại học Y có tiếng. Chỉ thiếu vài tuần là tôi hoàn thành chương trình của bác sĩ thực tập tại bệnh viện - nơi có một...”

“Vậy là anh không muốn nhận việc làm này. Nó không xứng với bằng cấp của anh và, tôi dám nói, không xứng với những gì anh đáng được hưởng. Chào nhé, chúc một ngày tốt lành.” Đôi mắt lạnh lùng của ông ta nhìn anh trừng trừng; anh không nhúc nhích. “Tôi nhắc lại, chúc buổi sáng tốt lành.”

“Tôi sẽ phải đưa cả vợ tôi đến đó”, Wilbourne nói.

Hai ngày sau con tàu chở họ rời ga lúc ba giờ sáng. Họ đợi McCord tại căn hộ nơi họ đã sống trong hai tháng mà chẳng để lại dấu vết gì ngoài những vết cháy xém do thuốc lá gây ra trên mặt bàn. “Thậm chí không có dấu vết của tình yêu”, anh nói. “Không có dấu vết của sự đồng điệu ngọt ngào và hoang dại, không có dấu vết của bàn chân trần háo hức và vội vã bước về phía giường ngủ trong ánh đèn mờ ảo, không có dấu vết của tấm chăn bị lật một cách nôn nóng. Chỉ có tiếng rên rỉ của đệm lò xo, và sự giải phóng tuyến tiền liệt của cuộc hôn nhân tưởng chừng như đã kéo dài mười năm. Thời gian qua chúng ta quá bận; chúng ta đã phải thuê và trả tiền thuê nhà cho hai con rô bốt.” McCord đến và họ xách hai chiếc túi mình đã mang theo khi rời New Orleans ra khỏi căn hộ, cùng chiếc máy chữ. Gã quản lý căn hộ cho thuê bắt tay cả ba người bọn họ và bày tỏ niềm nuối tiếc trước sự tan rã của những mối ràng buộc thú vị của người một nhà. “Chỉ hai chúng tôi đi thôi”, Wilbourne nói. “Và không ai trong chúng tôi là người ái nam ái nữ đâu.” Gã quản lý nháy mắt, nhưng chỉ duy nhất một lần.

“Ôi”, ông ta nói. “Chúc các bạn một chuyến đi thú vị. Các bạn đã gọi taxi chưa?” Họ đã có xe của McCord; họ ra xe trong ánh sáng dìu dịu, lấp lánh của bóng đèn nê-ông cuối cùng còn sáng và tiếng tắt đèn lách tách. Người khuân vác chuyển hai cái túi và chiếc máy chữ của họ cho người xếp hành lý trên tàu.

“Chúng ta vẫn còn thời gian để uống với nhau một ly đấy”, McCord nói.

“Anh và Harry uống với nhau đi”, Charlotte nói. “Tôi lên tàu ngủ một lát đây.” Cô bước tới, choàng tay ôm McCord trong khi mặt hướng lên cao. “Tạm biệt, Mac.” McCord cử động và hôn cô. Cô lùi lại rồi quay gót bước đi; hai người đàn ông nhìn cô bước lên tàu và mất hút. Ngay lúc đó, Wilbourne cảm nhận được rằng McCord biết anh ta sẽ không bao giờ còn gặp lại Charlotte nữa.

“Uống với nhau một ly nhé?”, McCord nói. Họ đi tới quán bar của nhà ga và tìm đến một chiếc bàn; khi họ ngồi xuống như bao nhiêu chiều đã ngồi với nhau trong khi đợi Charlotte, vẫn những khuôn mặt đỏ bừng bừng vì bia rượu, vẫn những chiếc áo trắng của những người hầu bàn và phục vụ ở quầy rượu, những chiếc ly lấp lánh được xếp trên giá, chỉ thiếu những bát rượu tỏa hơi và những nhành cây trang trí cho Giáng Sinh (McCord nói Giáng Sinh là sự giải phóng khỏi đời trần tục của giai cấp tư sản, mùa mà thiên đường và trái đất hòa hợp làm một, ra chỉ dụ và đòi hỏi tất cả những người chồng, người cha phải ở bên trong chúng ta, dịp mà trước bệ thờ có hình dạng của một máng ăn cho gia súc được mạ vàng và người đàn ông bị trừng phạt có thể nằm úp sấp trong sự tôn sùng ủy mị trước câu chuyện cổ tích đã chinh phục thế giới phương Tây, khi mà trong bảy ngày, người giàu trở nên giàu hơn và người nghèo càng nghèo tợn trong sự xá tội: Sự làm mới của một tuần theo ước định để lại một trang trắng tinh khôi cho các ghi chép của xác thịt, và trong chốc lát, giống như một chú ngựa (“có ngựa”, McCord nói) đầy hằn học và hận thù), người hầu bàn bước tới - cũng cái măng sét màu trắng, khuôn mặt của kẻ vô danh tiểu tốt này chẳng có nét nào đặc biệt. “Cho bia”, McCord nói. “Cậu uống gì?”

“Bia gừng”, Wilbourne đáp. “Gì cơ?”

“Tôi không uống rượu.” “Từ khi nào vậy?”

“Từ tối qua. Tôi không còn tiền để uống rượu nữa.” McCord nhìn anh.

“Khốn kiếp”, McCord nói. “Mang cho tôi một ly rượu rye.” Người hầu bàn lui gót. McCord vẫn nhìn Wilbourne trừng trừng. “Đồng ý với cậu”, anh ta nói, “Nghe này. Tôi hiểu đó không phải việc của mình nhưng vẫn muốn nói. Ở đây cậu vẫn có thể kiếm tiền, còn Charlotte có việc làm tốt, các cậu có một chỗ không đến nỗi nào để chui ra chui vào. Vậy mà bỗng nhiên cậu bỏ tất cả, giữa tháng Hai bắt Charlotte phải nghỉ việc đến sống ở một vùng mỏ, nơi không có đường xe lửa, không điện thoại, thậm chí không có một cái nhà vệ sinh hợp tiêu chuẩn, chỉ có một khoản lương...”.

“Vì điều này. Vì lý do này mà chúng tôi chuyển đến đó. Tôi đã trở thành...”, anh bỏ lửng câu nói. Người hầu bàn đặt đồ uống lên bàn rồi đi ra. Wilbourne nâng ly bia gừng lên.

“Hãy nâng cốc vì sự tự do.”

“Được”, McCord làu bàu. “Có lẽ cậu nên uống nhiều vào bởi tôi nghĩ còn lâu cậu mới lại được thưởng thức thứ đó. Cả nước ngọt, thậm chí soda nữa. Và có lẽ cậu sẽ phải chôn chân ở một nơi khó sống hơn nơi này. Bởi vì lão Callaghan đó rất thâm hiểm đấy. Tôi biết chút ít về hắn. Hắn là một con mèo rừng. Nếu sự thật về hắn được viết trên một tấm bia mộ thì đó sẽ không phải là văn bia đâu, mà là hồ sơ tội phạm.”

“Được rồi”, Wilbourne nói. “Vậy thì hãy nâng cốc vì tình yêu.” Có một chiếc đồng hồ được treo ở lối vào quầy bar, mặt đồng hồ được tạo theo kiểu rập khuôn đầy cảnh báo bí hiểm và vô cảm; anh còn đúng hai mươi phút. Mình chỉ mất hai phút để nói điều mình phải mất hai tháng mới phát hiện ra, anh nghĩ. “Tôi thực sự đã trở thành một người chồng”, anh nói. “Vì lý do ấy đấy. Tôi thậm chí không biết điều đó cho tới khi Charllote nói với tôi rằng cửa hàng đã đề nghị cô ấy ở lại làm việc đến hè. Thoạt đầu, tôi cứ phải thận trọng, phải luyện tập để có đủ tự tin thốt ra hai tiếng “vợ tôi” hoặc “bà Wilbourne”, sau đó phát hiện ra rằng mình đã e ngại không dám thốt ra hai tiếng đó trong suốt nhiều tháng; từ khi chúng tôi ở vùng hồ đó về, đã đôi lần tôi nghĩ ‘mình muốn vợ mình được hưởng những gì tốt nhất’ giống như một người chồng thực sự với chiếc phong bì trong đó có lương tháng được lĩnh vào ngày thứ Bảy, với căn nhà ở ngoại ô được trang bị đầy đủ các thiết bị hiện đại giúp ích cho người vợ trong việc nội trợ, với tấm khăn phủ bàn bằng vải gai mịn óng ánh vào sáng Chủ nhật - buổi sáng của riêng anh miễn là anh không bị sa thải hoặc bị xe cán trong mười năm tới - kẻ tội đồ trước mọi đam mê và điếc đặc trước mọi hy vọng, thậm chí không hề biết trên đời có đam mê và hy vọng, không nhận thức được rằng trong bóng tối, sự mông muội và nhạo báng đang chờ cơ hội để hủy diệt mình. Tôi thậm chí đã thôi không cảm thấy xấu hổ về cái cách mình kiếm tiền hay hối lỗi vì những mẩu truyện mình đã viết nữa, cũng như anh công nhân vệ sinh có căn nhà mua trả góp để vợ anh ta có thể có được điều kiện sống tốt nhất mà không cảm thấy xấu hổ về tấm thẻ nhân viên và cái thụt bồn cầu mà anh ta mang theo bên mình nữa. Thực ra, ngoài lý do viết để kiếm tiền, tôi đã trở nên thích viết những mẩu truyện đó, giống như một thằng bé chưa bao giờ nhìn thấy băng phấn khích khi muốn đi trượt băng sau khi học được cách trượt. Còn nữa, sau khi bắt đầu viết những mẩu truyện đó, tôi hiểu ra rằng trước đó, mình đã không biết về nguồn gốc sâu xa của sự đồi bại mà con người có khả năng tạo ra, và đó chính là...”

“Cậu muốn nói nguồn gốc sâu xa của sự đồi bại là sự sung sướng”, McCord nói.

“... sự đứng đắn. Có lúc nghĩ lại, tôi phát hiện ra rằng sự lười nhác sản sinh ra tất cả những ưu điểm và phẩm chất dễ chịu nhất của chúng ta - trầm tư, điềm đạm, không hấp tấp, không quấy rầy người khác; khả năng tiêu hóa tốt của cả tinh thần và thể xác: Sự khôn ngoan để tập trung vào những thú vui phàm tục - ăn uống và vệ sinh, làm tình và tắm nắng - còn hơn là cách sống chẳng có gì thú vị, chẳng có ái tình, chẳng có gì khác trên đời này, chỉ sống một cuộc đời ngắn ngủi với ý thức về sự ngắn ngủi đó. Ồ phải, cô ấy đã dạy tôi điều đó đấy. Nhưng tôi hiểu được nó một cách rõ ràng chỉ mới đây thôi, và sau đó đi đến một kết luận có tính logic, rằng chính những đức tính mà chúng ta gọi quan trọng - tiết kiệm, siêng năng, tự lập - đã sản sinh ra tất cả mọi thói xấu - cuồng tín, tự mãn, hay xía vào chuyện của người khác, sợ hãi, và tội tệ nhất là tính đứng đắn. Như chúng tôi chẳng hạn. Để mình (lần đầu tiên trong đời) trở thành người có khả năng thanh toán, để biết chắc chắn thức ăn cho ngày mai sẽ đến từ đâu (tiền, tiền, chết tiệt thật; ban đêm, chúng tôi nằm thao thức lập kế hoạch chi tiêu; đến mùa xuân chúng tôi sẽ mang theo nó trong túi áo), tôi đã thực sự trở thành kẻ tôi đòi và nô lệ của sự đứng đắn như bất kỳ...”

“Như bất kỳ ai trừ cô ấy”, McCord nói.

“Không. Nhưng cô ấy làm đàn ông tốt hơn tôi. Chính anh đã từng nói như vậy. Tôi muốn nói như bất cứ người nào phụ thuộc vào rượu và thuốc phiện rằng mình đã trở thành một bà nội trợ. Tôi đúng là một bà nội trợ, chỉ còn thiếu sự công nhận chính thức trên giấy tờ và thẻ an sinh xã hội mà thôi. Chúng tôi đã sống trong một căn hộ không phải kiểu nhà của người du mục, cũng chẳng phải một tổ uyên ương thu nhỏ, thậm chí không thuộc một phần của thành phố mà ở một khu dân sinh nơi quy chế và kiến trúc đều cho thấy đó là chỗ ở dành cho những người có mức thu nhập cỡ năm nghìn đô la một năm. Tôi luôn bị đánh thức vào buổi sáng bởi tiếng ồn của những đứa trẻ đi lại trên đường phố; khi mùa xuân đến và các ô cửa sổ buộc phải mở thông thống, hầu như suốt ngày tôi phải nghe tiếng la hét đầy bực bội của những ả bảo mẫu người Thụy Điển theo gió vọng tới từ công viên và ngửi mùi nước tiểu của trẻ con. Tôi gọi đó là nhà, có một góc mà cả hai chúng tôi gọi là thư phòng; tôi thậm chí đã mua cái máy đánh chữ chết tiệt ấy - thứ mà trong hai mươi tám năm không có, thậm chí không cần biết đến sự tồn tại của nó, tôi vẫn xoay xở để sống được, một đồ vật quá nặng và cồng kềnh để mang theo, nhưng là thứ mà tôi không dám bỏ lại cũng như không dám bỏ...”

“Tôi thấy cậu vẫn mang nó theo đấy thôi”, McCord nói. “Tôi không dám bỏ hay bỏ lại cái thứ ấy... Đúng thế.

Lòng can đảm chính là mối hoài nghi đối với sự may mắn.

Nếu không, đó chẳng phải là lòng can đảm. Tôi không dám bỏ nó lại cũng như không dám bỏ lông mi của mình. Tôi đã tự trói chân tay mình bằng cái băng mực nhỏ xíu, hàng ngày thấy mình bị kẹt cứng như con gián vướng phải mạng nhện; mỗi buổi sáng, để vợ mình có thể đi làm đúng giờ, tôi cọ rửa ấm pha cà phê, bồn rửa và cứ hai tuần một lần (cũng vì lý do đó) tôi mua sườn lợn để tự chế biến vào ngày Chủ nhật từ chính cái cửa hàng chúng tôi thường mua rau củ; chúng tôi mặc và cởi đồ lót trước mặt nhau, tắt đèn trước khi làm tình. Thế đấy. Không phải chí hướng quyết định nghề nghiệp của chúng ta đâu, chính sự đứng đắn tạo ra những người chữa bệnh bằng phương pháp nắn khớp xương, những nhân viên bán hàng, những người dán áp phích quảng cáo, những người lái xe điện và những kẻ viết truyện giật gân.” Trong quán bar có một cái loa phát thanh; lúc này một giọng nói không rõ từ đâu gào lên một câu mà trong đó có một từ được nhấn mạnh vài lần - từ “tàu”, rồi hai hoặc ba giây sau, người nghe nhận ra các từ khác mà cái loa đó phát ra là tên của các thành phố xa xôi nào đó nằm rải rác trên lục địa phố chỉ được nghe tên hơn là nhìn thấy, cứ như thể người nghe (giọng nói trong loa quá to) đang bị treo lơ lửng trong vũ trụ, nhìn quả địa cầu quay chầm chậm thoắt ẩn thoắt hiện để lộ ra các phần của thiên cầu lấp ló, rồi lại giấu những phần đó vào mây sương trước khi nhãn quan và nhận thức có thể nắm bắt chúng. Anh lại nhìn đồng hồ; anh vẫn còn mười bốn phút nữa. Mười bốn phút để cố nói những gì mà mình đã nói rồi, chỉ gói gọn trong vài từ, anh nghĩ.

“Nghe này, tôi thích. Tôi chưa bao giờ phủ nhận điều đó. Tôi thích. Tôi thích đồng tiền mình làm ra. Tôi thậm chí thích cái cách mình làm ra tiền cũng như thứ mình tạo nên, như tôi đã nói với anh. Không phải vì một hôm tôi ý thức được rằng mình đang nghĩ, ‘Vợ mình phải có được những gì tốt nhất’, mà bởi phát hiện ra mình đang lo sợ. Đồng thời tôi nhận ra rằng mình vẫn sẽ lo sợ, cho dù làm gì chăng nữa, rằng chừng nào cô ấy còn sống hoặc chừng nào còn sống, tôi vẫn sẽ lo sợ.”

“Bây giờ cậu vẫn còn lo sợ ư?”

“Đúng vậy. Và không phải tôi lo sợ về vấn đề tiền bạc.

Tiền bạc, cái thứ chết tiệt đó. Tôi có thể kiếm đủ số tiền chúng tôi cần; chắc chắn không có giới hạn trong việc tôi sáng tạo ra những mẩu truyện về vấn đề tình dục của phụ nữ. Không phải tôi lo sợ về vấn đề tiền bạc, cũng chẳng phải về Utah đâu. Tôi muốn nói tôi lo sợ về chính bản thân chúng tôi kia. Về tình yêu. Bởi vì tình yêu không thể tồn tại mãi được. Không có chỗ cho tình yêu trong thế giới ngày nay, thậm chí ở Utah cũng không. Chúng ta đã giết chết nó rồi. Chúng ta đã mất một thời gian dài để làm điều đó, nhưng con người rất giỏi, có khả năng sáng tạo vô hạn nên cuối cùng chúng ta đã tống khứ tình yêu giống như tống tiễn lễ Giáng Sinh vậy. Chúng ta có radio thay cho giọng nói của Chúa và thay vì chắt chiu tiền bạc có liên quan với chúng ta về mặt cảm xúc trong nhiều tháng, nhiều năm cho một cơ hội dùng toàn bộ tiền vì tình yêu, giờ đây chúng ta có thể dàn mỏng nó ra thành những đồng xu và tự kích thích mình trước bất cứ quầy bán báo nào để có được cảm giác thỏa mãn nhất thời giống như cảm giác mà những chiếc kẹo cao su hoặc những thanh sô cô la từ máy bán hàng tự động có thể mang lại. Nếu hôm nay, Chúa Jesus tái thế thì chúng ta sẽ phải mau chóng đóng đinh câu rút Ngài trong sự phòng thủ, để biện minh và bảo vệ cho công cuộc văn minh hóa mà trong hai nghìn năm chúng ta đã lao động, chịu đựng khổ đau rồi chết trong cơn thét gào và nguyền rủa vì cuồng nộ, bất lực và kinh hoàng để tiến hành và hoàn thiện theo trí tưởng tượng của con người; nếu thần Vệ Nữ được tái sinh, thì thần sẽ là một người đàn ông bẩn thỉu trong một nhà vệ sinh thuộc hệ thống tàu điện ngầm cầm trong tay cả nắm bưu thiếp của Pháp...” McCord xoay người trên ghế ngồi và gọi người phục vụ bằng một cử chỉ thể hiện cơn quá khích được kìm nén. Người phục vụ xuất hiện, McCord chỉ tay vào ly của mình. Một lát sau, anh ta đã rót đầy rượu vào chiếc ly của McCord và biến khỏi đó.

“Được rồi”, McCord nói. “Vậy thì đã sao nào?”

“Tôi đã ở ngoài quỹ đạo của thời gian. Chuyện bắt đầu từ cái đêm ở New Orleans khi tôi nói với cô ấy rằng tôi có một nghìn hai trăm đô la, và số tiền đó đã giúp chúng tôi tồn tại cho đến cái đêm cô ấy cho tôi biết cửa hàng sẽ giữ cô ấy lại làm việc. Tôi vẫn gắn với thời gian, dựa vào nó trong không gian giống như anh gắn với nó, dựa vào nó từ khi cái không phải anh trở thành anh, và anh vẫn sẽ như vậy cho đến khi cái không anh kết thúc thông qua phương tiện mà bản thân anh từng dựa vào - đó là sự vĩnh hằng - nhưng chỉ dựa vào nó thôi, không truyền xung thần kinh, giống như con chim sẻ có khả năng đứng được trên đường dây điện cao thế nhờ đôi chân không dẫn điện, chỉ dựa vào dòng thời gian chạy qua trí nhớ - điều mà chỉ tồn tại trong mối liên quan với dữ kiện trực tiếp của ý thức và hiện tại mà chúng ta biết (tôi cũng đã hiểu ra điều đó), ngoài ra thời gian không tồn tại. Anh biết đấy: Tôi không phải là quá khứ. Tôi là hiện tại, tôi sống, cảm nhận và chỉ khi đó thời gian mới bắt đầu tồn tại, có ý nghĩa, là quá khứ, là tương lai. Khi tôi là quá khứ, không sống và không phải là hiện tại, thời gian không tồn tại1. Cũng giống như khoảnh khắc ngắn ngủi của trinh tiết vậy: Trinh tiết là trạng thái thực ra không tồn tại ngoại trừ trong cái khoảnh khắc anh biết anh mình mất trinh; với tôi, trạng thái đó tồn tại lâu như vậy bởi tôi quá già, đã đợi quá lâu; hai mươi bảy năm là sự chờ đợi quá lâu để tống ra khỏi hệ thống cơ thể của anh thứ mà anh nên tống ra từ lúc mười bốn, mười lăm tuổi hoặc thậm chí nhỏ hơn - cuộc sờ soạng cuống cuồng của hai kẻ non nớt thở hổn hển ở bậc cửa hoặc trong một vựa cỏ khô vào giữa trưa. Anh hãy nhớ điều này: Vách núi dựng đứng và tăm tối; cả nhân loại, ai cũng tiến về phía vách núi đó, chỉ là đến trước, hoặc sau anh mà thôi, nhưng điều đó chẳng có nghĩa gì với anh cả bởi vì người khác không thể cảnh báo hay nói cho anh biết phải làm gì để sống sót. Đó là hành trình cô độc. Anh phải thực hiện hành trình đó trong cô độc và có thể chịu đựng được sự cô độc khủng khiếp đó mà vẫn sống, giống như điện ấy. Và trong một hoặc hai giây, anh sẽ hoàn toàn cô độc: Chẳng phải trước đó anh đã cô độc và sau đó không cô độc mà bởi vì anh chưa bao giờ cô độc; dù trước hay sau đó anh cũng được an toàn và có bầu bạn trong sự ẩn danh rối rắm không thể lần dò ra được: Cát bụi sinh ra từ cát bụi; cái gì sinh ra từ đất rồi thì cũng trở về với đất thôi. Nhưng anh sắp cô độc rồi, anh buộc phải cô độc, anh biết điều đó, cái gì đến sẽ phải đến; anh kết bạn với con vật mà anh cưỡi trong suốt cuộc đời, một con ngựa già quen thuộc, để tiến lên cái vách núi dựng đứng đó...”

1 Đoạn này cho thấy William Faukner chịu ảnh hưởng của nhà triết học Bergson, người đã xây dựng một triết lý dựa hoàn toàn trên thời gian. Đó không phải là thời gian của khoa học, của vật lý, của máy móc, của đồng hồ, không phải thời gian được đo tính, phân tích, mổ xẻ, chuyển đổi thành không gian. Mà là thời gian được định nghĩa qua trải nghiệm sống và cảm nhận của con người.

“Có giống ngựa chết tiệt đó cơ đấy”, McCord nói. “Tôi đang đợi nó đây. Cậu đang cường điệu và phân tích quá kỹ mọi chuyện. Không phải chúng ta đang nói chuyện mà là đang lên mặt dạy dỗ nhau giống như hai mục sư truyền giáo lưu động cùng đi trong một con hẻm.”

“... có thể anh luôn nghĩ rằng mình có thể kiềm chế khi cần, có thể cứu vãn được điều gì đó, cũng có thể không, nhưng rồi anh biết mình không thể, lúc nào cũng hiểu rõ mình không thể và không thể; anh là sự xác nhận bỏ đạo cũng như khẳng định vững chắc duy nhất trong nỗi kinh hoàng mà qua đó anh từ bỏ ý chí, hy vọng, từ bỏ tất cả - bóng tối, sự rơi ngã, tiếng sấm của nỗi cô độc, cơn choáng váng và cái chết - thời điểm khi bị chặn lại bởi khối đất sét có trọng lượng1, anh cảm thấy toàn bộ nhựa sống chảy ra khỏi mình và đổ dồn vào cái tử cung dễ tiếp nhận không thể nhìn thấy, cái nền chất lỏng ấm nóng khó nhận biết - cái hệ thống hầm mộ - tử cung hay tử cung - hầm mộ chỉ là một mà thôi. Nhưng rồi anh trở lại trạng thái bình thường: Hẳn là anh luôn biết khi trở lại trạng thái bình thường, anh có thể sống một cuộc đời bảy mươi năm hoặc đại khái thế, nhưng mãi mãi về sau anh sẽ biết rằng mình đã mất đi một khoảng thời gian nhất định, một hoặc hai giây tồn tại trong không gian, chứ không phải trong quỹ đạo thời gian, rằng chẳng phải anh sống bảy mươi năm như người ta đã quy cho anh mà một ngày nào đó anh sẽ phải tính lại - là sáu mươi chín năm ba trăm sáu mươi tư ngày hai mươi ba giờ năm mươi tám...”

1 Harry nói về tình dục, nhưng từ mà anh dùng cũng bao gồm sự thỏa mãn của Charllote khi cô nặn tượng. Việc làm tình và tạo ra các tác phẩm nghệ thuật đã thúc đẩy hai người đến với niềm say mê, cho phép họ có được sự đụng chạm mang lại cảm giác thỏa mãn thật sự.

“Lạy Chúa”, McCord nói. “Lạy các tiểu thiên sứ. Nếu không may tôi có một đứa con trai, thì vào ngày sinh nhật lần thứ mười của thằng bé tôi sẽ dẫn nó đến một nhà thổ sạch sẽ và thú vị.”

“Đó là những gì đã xảy ra với tôi đấy”, Wilbourne nói. “Tôi đã đợi quá lâu. Hai giây ở tuổi mười bốn hoặc mười lăm bằng tám tháng ở tuổi hai mươi bảy. Tôi đã nằm ngoài quỹ đạo thời gian, bên cái hồ ở Wisconsin với chín đô la hai mươi xu thực phẩm, chúng tôi gần như đã hết cái ăn và sắp chết đói. Tôi nghĩ mình đã vượt qua được. Tôi tin rằng mình đã tỉnh táo lại đúng lúc và vượt qua được; chúng tôi trở về đây và cứ nghĩ mình đã chiến thắng cho đến đêm trước Giáng Sinh khi Charlotte nói với tôi rằng cửa hiệu đó muốn giữ cô ấy lại làm việc, tôi liền hiểu ra tình trạng của hai đứa rằng cái đói chẳng là gì cả, nó không gây ra chuyện gì hết ngoài việc giết chết chúng ta, trong khi điều này còn tồi tệ hơn cả cái chết hoặc sự chia lìa: Đó là lăng mộ của tình yêu, cái linh cữu hôi thối của xác chết giữa những hình hài di động không có cơ quan khứu giác của xác thịt lâu đời với đòi hỏi gay gắt, không có cảm giác và bất tử.” Những cái loa phóng thanh lại đồng thời phát ra tiếng nói oang oang; đúng lúc đó người hầu bàn xuất hiện và McCord thanh toán tiền. “Vậy nên tôi lo sợ”, Wilbourne nói. “Dạo đó, khi còn ở vùng hồ ấy, tôi không lo sợ bởi vì tôi ở ngoài thời gian, nhưng bây giờ tôi đã nhận thức được và tôi đã biết lo sợ, ơn Chúa. Bởi vì cái năm 1938 sau Công nguyên này không còn chỗ cho tình yêu nữa. Người đời sử dụng đồng tiền để chống lại tôi trong khi tôi đang ngủ bởi vì tôi dễ bị đồng tiền làm tổn thương. Sau đó tôi thức dậy, kiểm soát vấn đề tài chính và nghĩ mình có thể chiến thắng họ cho tới tối hôm phát hiện ra rằng người đời đã lấy sự đứng đắn để chơi tôi và cái đó còn khó chống đỡ hơn cả tiền. Bây giờ thì tôi không dễ bị tổn thương bởi tiền bạc hay sự đứng đắn nữa, vậy nên người đời sẽ phải tìm thứ gì đó khác để buộc chúng tôi phải thích nghi với cái kiểu sống của con người mà giờ đây đã tiến hóa đến mức có thể tồn tại mà không cần tình yêu - thích nghi hoặc là chết.”

Họ đi vào khu vực có mái che dành cho tàu hỏa - nơi ảm đạm như một cái hang luôn có điện và không biết đến ánh sáng tự nhiên, ngày cũng như đêm chỉ có ánh đèn vàng vọt của mùa đông giữa những làn khói của động cơ; ở đó có một hàng dài những toa xe lửa đen thui dường như đứng ngập sâu, bị vùi và gắn vĩnh viễn vào nền xi măng. Họ đi qua những bức tường bằng kim loại đen nhẻm, các dãy phòng ngủ nhỏ như những chiếc hộp đầy tiếng ngáy, để đến toa tàu có hành lang. “Vậy nên tôi lo sợ. Bởi vì người đời tinh ranh, xảo quyệt, họ sẽ vẫn tinh ranh và xảo quyệt như vốn có; nếu để chúng tôi chiến thắng họ, họ cảm thấy như vậy chẳng khác nào việc để mặc cho một vụ giết người hoặc trộm cướp xảy ra. Tất nhiên chúng tôi không thể chiến thắng họ; tất nhiên chúng tôi thất bại; đó là lý do tại sao tôi lo sợ. Không phải là tôi lo sợ cho bản thân; anh có nhớ cái đêm ở bên hồ, anh đã nói với tôi rằng một bà già được một cảnh sát hoặc một cậu hướng đạo sinh dắt qua đường, và rằng khi một chiếc xe do một kẻ say rượu lái chạy đến thì không phải là bà già, mà là...”

“Nhưng tại sao hai người lại phải đi Utah giữa tháng Hai để chiến thắng các quan niệm xã hội chứ? Và nếu không thể đánh bại những quan niệm đó thì tại sao cậu lại phải đi Utah chứ?”

“Bởi vì tôi...” Hơi nước cùng không khí phát ra những tiếng xì xì phía sau họ như một tiếng thở dài; người khuân vác, cũng giống như người hầu bàn, không biết từ đâu bất ngờ xuất hiện.

“Nào, các ông”, anh ta nói. “Chúng ta đi thôi.” Wilbourne và McCord bắt tay nhau. “Có thể tôi sẽ viết thư cho anh”, Wilbourne nói. “Charlotte có thể sẽ viết thư cho anh. Cô ấy làm một quý ông lịch sự tốt hơn tôi.” Anh bước vào trong toa tàu rồi quay đầu lại, người khuân vác ở phía sau anh, tay anh ta đặt trên nắm cửa trong lúc chờ đợi; anh và McCord nhìn nhau, trao đổi hai lời nói lặng thầm, mỗi người đều biết rằng họ sẽ không nói thành lời: Tôi sẽ không bao giờ gặp lại anh nữa và Không. Anh sẽ không bao giờ gặp lại chúng tôi nữa. “Bởi vì những con quạ và chim sẻ bị bắn rơi khỏi cành cây, chết đuối trong cơn lũ hoặc bị giết bởi các cơn bão và hỏa hoạn, chứ không phải bởi những con diều hâu. Và có lẽ tôi có thể là chồng của một con chim ưng, dù tôi là một con quạ.” Tàu dồn toa và bắt đầu di chuyển, các toa nối đuôi nhau chạy phía dưới chân anh. “Và có một điều tôi tự nhủ trong thời gian ở vùng hồ đó”, anh nói. “Rằng có gì đó trong tôi mách bảo rằng cô ấy không phải là người tình mà là mẹ. Tôi đã đi xa thêm một bước rồi đấy.” Tàu chuyển động, anh nghiêng người ra ngoài, McCord cũng bắt đầu chạy để bắt kịp anh. “Rằng có điều gì đó trong tôi nói với tôi rằng anh và cô ấy là cha mẹ. Hãy chúc tôi may mắn đi.”

“Hãy nhận sự nguyền rủa của tôi thì có”, McCord nói.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • Sau