• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Cọ hoang
  3. Trang 7

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • Sau

Ông già

K

hi bình minh muộn màng ló rạng, hai tù nhân cùng với hai mươi người khác đang ở trên xe tải.

Một tù nhân được giao nhiệm vụ lái xe, hai người cai ngục có vũ trang ngồi trong buồng lái với anh ta. Trên thùng xe cao ngất ngưởng không có mái che giống chuồng ngựa, các tù nhân đứng chen chúc nhau như những que diêm trong một bao diêm bị dựng đứng hoặc giống như những quả đạn côđít hình bút chì được xếp trong vỏ đạn pháo, bị xích chân bằng một sợi dây xích duy nhất, chạy ngoằn ngoèo, len lỏi giữa những bàn chân bất động và những cẳng chân khẽ đung đưa, những chiếc cuốc chim và xẻng được chốt cả hai đầu vào thân xe bằng thép.

Thế rồi đột nhiên, họ thấy trận lụt mà tù nhân có vóc người thấp đậm từng đọc cho họ nghe suốt hai tuần nay lù lù hiện ra trước mắt. Con đường đê dẫn xuống phía nam mà dân địa phương gọi là “dump”, cao hơn mặt đất bằng phẳng xung quanh khoảng tám feet, hai bên đường là những cái hố để lấy đất đắp đê. Những cái hố này đã giữ nước sau những trận mưa thu trong suốt mùa đông, nhưng giờ đây họ nhận thấy chúng đã biến mất ở một bên đường, thay vào đó là một vùng nước màu nâu phẳng lặng đang lan rộng tới những cánh đồng phía dưới, trải ra thành những mảng bất động kéo dài đến cuối các luống cầy, hơi ánh lên dưới ánh sáng của một ngày u ám tựa như những thanh ngang dọc của tấm lưới sắt khổng lồ. Và rồi (chiếc xe tải đang chạy khá nhanh) trong khi họ im lặng quan sát (họ thôi không nói chuyện nữa mà hầu hết đã trở nên im lặng và trang nghiêm, nhích chân và nghển cổ để hướng những con mắt thao láo về phía tây), chóp của các luống cầy cũng nhanh chóng biến mất để lại vùng nước màu nâu bất động, phẳng lặng - nơi có các cột điện thoại cùng hàng rào thẳng đứng đánh dấu những ranh giới dường như bất di bất dịch và chắc như thể được đổ bê tông.

Đó là sự bất động hoàn toàn và phẳng lặng tuyệt đối. Vùng nước lụt đó không những trông có vẻ vô hại mà còn hiền hòa. Quả thật trông nó gần như êm ả. Tựa hồ người ta có thể bước trên bề mặt của nó vậy. Vùng nước phẳng lặng đến mức các tù nhân không hiểu nó có khả năng chuyển động hay không cho đến khi họ tới cây cầu đầu tiên. Có một con mương ở phía dưới cầu cùng một dòng suối nhỏ, nhưng giờ đây, cả con mương và dòng suối đều đã biến mất, chỉ còn những hàng bách và những bụi mâm xôi biểu thị hình hài, đánh dấu đường đi của chúng. Ở đây họ vừa nhìn vừa nghe thấy sự chuyển động chậm của bề mặt phẳng lặng ngược với hướng chảy của con sông (“nước chảy ngược”, một tù nhân nói khẽ) và nghiêng về phía đông, sâu bên dưới bề mặt ấy vọng lên tiếng ầm ì (mặc dù không ai trên xe tải có thể so sánh) nghe như có một con tàu điện ngầm đang chạy dưới lòng đất với vận tốc rất cao và đầy bí ẩn. Cứ như thể nước có ba tầng riêng rẽ và tách biệt, bề mặt hiền hòa và êm ả mang váng bọt cùng những đám cành cây nổi lềnh bềnh, tiếp đến là trận lụt xông tới ào ạt và cuồng nộ dường như được che đậy bởi sự tính toán thâm hiểm, và cuối cùng là con suối nguyên thủy, chảy thành dòng nhỏ róc rách một cách vô tư và vô thức theo chiều ngược lại, đáp ứng đích đến của cuộc phiêu lưu tựa như một đàn kiến trên những thanh ray đường tàu, chúng (những con kiến) không ý thức được sức mạnh và cơn cuồng nộ của trận lụt tựa như một trận lốc xoáy đang quét qua sao Hỏa.

Giờ đây, ở cả phía bên trái và bên phải của con đường đều có nước, cứ như thể bọn họ vừa mới nhận ra chuyển động của nước thì lập tức nước rũ bỏ vẻ gian dối cùng sự che đậy của nó, và bọn họ dường như có thể nhìn thấy nước đang dâng lên sườn đê; những thân cây cao phía sau họ vài dặm, khi họ đi qua còn chưa ngập nước mà lúc này đã bị ngập đến các cành thấp, chỉ còn phần ngọn nhô trên mặt nước trông như những bụi cây trên một bãi cỏ đã được cắt tỉa. Chiếc xe tải chạy ngang qua một căn nhà tranh của người da đen đã bị nước dâng lên đến bệ cửa sổ. Một người đàn bà đang ôm chặt hai đứa trẻ ngồi xổm trên nóc nhà, một người đàn ông và một đứa trẻ mới lớn đứng trong biển nước ngập đến ngang thắt lưng đang cố lôi một con lợn kêu eng éc lên cái mái dốc của nhà kho - nơi có những con gà giò và một con gà tây đậu thành hàng. Gần nhà kho đó có một đống cỏ khô với một con bò cái đứng trên ngọn được buộc dây vào cây cột ở chính giữa đang rống liên hồi; một thằng bé da đen vừa quát tháo vừa quất mạnh con la không có yên cương, hai cẳng chân ghì lấy bụng con la trong khi nghiêng người kéo sợi dây thừng lôi con la thứ hai đến chỗ đống cỏ, người và la lội bì bõm, làm nước bắn tung tóe. Người đàn bà trên mái nhà bắt đầu thét gọi chiếc xe tải đang chạy qua, giọng của bà ta vang lên giữa vùng nước đục ngầu nghe yếu ớt và thê thảm, nhỏ dần, nhỏ dần khi chiếc xe chạy qua, để rồi cuối cùng tắt lịm, không biết do xe đã chạy xa hay vì bà ta đã ngừng gào thét.

Rồi con đường biến mất. Không có một đoạn dốc nào báo hiệu điều đó, nhưng quả thực con đường đột ngột lủi mất bên dưới mặt nước đục ngầu không gợn sóng, chẳng có ranh giới, giống một lưỡi dao mỏng và phẳng được xiên vào thịt bởi một bàn tay khéo léo, được tôi trong nước mà không gây ra chút xáo động nào, cứ như thể nó vốn dĩ đã như thế, được xây dựng theo cách đó. Chiếc xe tải dừng lại. Người cầm lái nhảy xuống khỏi ca bin, bước về phía sau xe, lôi hai cái xẻng được để giữa những bàn chân xuống, từng lưỡi xẻng chạm vào sợi xích chạy ngoằn ngoèo giữa các cổ chân phát ra tiếng kêu loảng xoảng. “Chuyện gì thế này?”, một người hỏi, “Các người định làm gì thế hả?”. Người tù làm nhiệm vụ lái xe không trả lời. Anh ta quay trở lại phía đầu xe, nơi mà một trong hai người lính gác đã ra khỏi buồng lái mà không mang theo súng ngắn. Anh ta và người lái xe đều đi ủng, mỗi người cầm một cái xẻng, thận trọng lội xuống nước rồi dò đường bằng cán xẻng. Tù nhân ban nãy lại lên tiếng. Đó là một người đàn ông trung niên có mái tóc màu xám bù xù và khuôn mặt đầy bực tức. “Bọn họ làm cái quái gì thế hả?”, ông ta hỏi. Một lần nữa không ai trả lời ông ta. Chiếc xe tải chuyển bánh, chuẩn bị tiến vào trận lụt, nhích từng tí một phía sau hai người dò đường, bắt đầu dấn mình vào vùng nước đục ngầu. Thế rồi tù nhân có mái tóc màu xám bắt đầu gào lên: “Mẹ kiếp, mở khóa xích ra đi!”. Ông ta bắt đầu vùng vẫy, giãy đạp dữ dội, đánh đấm những người đứng gần mình cho đến khi ông ta tới được sát buồng lái, vừa đấm thình thình lên mái buồng lái vừa gào: “Mẹ kiếp! Tháo xích cho bọn tao đi! Tháo xích ra mau! Đồ chó đẻ!”. Ông ta gào lên, không nhằm vào một ai, “Bọn chúng sắp dìm chết chúng ta rồi! Mở khóa xích đi!”. Ông ta không nhận được câu trả lời, cứ như thể tất những người ở trong bán kính mà giọng nói của ông ta có thể vọng tới đều đã chết. Chiếc xe vẫn bò lên phía trước, người lính gác và người tù trước đó làm nhiệm vụ lái xe vẫn đang dùng cán xẻng để dò đường, người lính gác thứ hai giờ đây làm nhiệm vụ lái xe, hai mươi hai tù nhân bị xích chân đứng chen chúc trên sàn xe. Họ đi qua một cây cầu nữa, hai hàng thanh chắn bằng sắt hiện ra nghiêng nghiêng trên mặt nước trông thật phi lý và mỏng manh, chạy song song một đoạn, rồi lại nghiêng nghiêng chìm xuống nước theo một kiểu rất kỳ quặc, có nghĩa mà lại như vô nghĩa tựa như chuyện trong một giấc mơ nhưng không hẳn là ác mộng. Chiếc xe tải vẫn bò lên phía trước.

Gần trưa họ tới một thị xã - điểm đến của họ. Đường phố được lát đá; giờ đây, bánh xe tải tạo ra những âm thanh nghe như tiếng xé vải. Xe chạy nhanh hơn, người lính gác và người tù được tín nhiệm giờ đây đã trở lại buồng lái, chiếc xe chạy nhanh hơn nữa, sóng ở đầu xe dạt sang hai bên vỉa hè tới những bãi cỏ liền kề và những cổng vòm của các ngôi nhà - nơi có những người dân đứng giữa những đống đồ đạc ngổn ngang. Họ đi qua một khu phố thương mại; trong cửa hiệu có một người đàn ông đi ủng lội trong nước ngập đến đầu gối đang kéo chiếc xuồng có đáy phẳng chở một chiếc két sắt.

Cuối cùng họ cũng tới được đường tàu. Nó nằm vắt ngang đường phố ở góc phải, chia thị xã ra làm hai phần. Nó cũng nằm trên một con đê, cao khoảng tám hoặc mười feet so với mặt bằng thị xã; đường phố chạy thẳng về phía đường tàu, rẽ ngoặt theo góc phải bên một xưởng ép bông và một cái sàn chất hàng được dựng trên những cột cao cỡ ngang bằng với cửa toa chở hàng của tàu hỏa. Trên sàn căng một cái lều dã chiến bằng vải bạt và có một vệ binh quốc gia mặc đồng phục, đeo súng trường cùng dây gài đạn.

Chiếc xe rẽ ngoặt và bò khỏi vùng nước, leo lên con dốc mà những chiếc xe chở bông từng sử dụng đồng thời là nơi những chiếc xe tải cùng xe con chở đầy đồ đạc đến và xếp các thứ lên sàn chất hàng. Các tù nhân được giải phóng khỏi sợi dây xích trên xe tải và bị còng chân hai người một, chen chúc giữa đống đồ đạc lộn xộn gồm giường tủ, hòm xiểng, bếp ga, bếp điện, đài, bàn, ghế, những bức tranh đóng khung mà một hàng dài người da đen đã khuân vác đến dưới sự giám sát của một người da trắng râu ria xồm xoàm mang ủng lội nước, mặc chiếc quần nhung kẻ dính đầy bùn đất, đi tới cửa chính của xưởng ép bông được một người lính khác đang đứng với cây súng trường lăm lăm trong tay canh gác, họ (các tù nhân) không dừng lại mà bị hai người lính mang súng ngắn lùa vào một nhà xưởng sâu hút và tối tăm nơi những kiện bông cùng những chiếc gương được lắp trên những cái bàn trang điểm và bàn có ngăn kéo lấp lánh trong sự câm nín đồng nhất với sự hội tụ không phản chiếu của ánh sáng vàng vọt giữa đống đồ đạc hỗn tạp.

Họ di chuyển lên sàn chất hàng nơi có chiếc lều dã chiến và người lính gác. Họ đợi ở đó. Không ai nói cho họ biết họ đang chờ đợi điều gì cũng như tại sao họ lại phải làm vậy. Trong khi hai người lính áp giải tù nhân nói chuyện với người lính gác trên sàn chất hàng trước cửa lều, các tù nhân ngồi thành một hàng dọc theo rìa của sàn chất hàng như những con chim ó Buteo đậu trên hàng rào, những cái chân bị xích đung đưa phía trên mặt nước màu nâu phẳng lặng mà từ đó con đê có đường tàu nhô lên, sạch sẽ và nguyên vẹn trong cái kiểu cự tuyệt có tính chất phủ nhận đầy nghịch lý trước sự đổi thay và những điềm báo. Những người tù không nói chuyện, chỉ im lặng nhìn sang phía bên kia đường tàu - nơi mà một nửa của thị xã bị chia cắt dường như đang nổi lềnh bềnh, nhà cửa, cây cối hiện lên theo trật tự giống một đám rước lộng lẫy trên bình nguyên mênh mông nước dưới bầu trời đầy mây xám xịt.

Một lúc sau, bốn chiếc xe tải khác từ trại giam chạy tới.

Chúng nối đuôi nhau thành một cụm, bộ tản nhiệt của xe này gần sát với đèn chiếu hậu của xe kia, với bốn tiếng động cơ riêng rẽ đanh như xé vải và biến mất ở phía bên kia xưởng ép bông. Không lâu sau, đám người trên sàn chất hàng nghe thấy tiếng bước chân, tiếng lách cách của những cái còng, toàn bộ trọng tải (tất cả tù nhân) của chiếc xe tải đầu tiên từ xưởng ép bông xuất hiện, rồi đến toán tù nhân của chiếc xe thứ hai, thứ ba; có hơn một trăm người mặc quần áo tù với khoảng mười lăm, hai mươi lính gác mang súng trường và súng ngắn. Toán tù nhân của chiếc xe tải thứ nhất đứng dậy, hai người một bị còng bằng những cái còng tựa như những dây rốn biết phát ra tiếng loảng xoảng, lạch cạch; sau đó trời bắt đầu mưa - một trận mưa phùn ảm đạm, đều đều, với nhịp độ chậm tựa như mưa tháng Mười một chứ không phải mưa tháng Năm. Tuy nhiên không ai trong số họ nhúc nhích dù chỉ một phân về phía cánh cửa để mở của xưởng ép bông. Họ thậm chí không nhìn về phía đó bằng ánh mắt mong đợi hoặc hy vọng, cũng chẳng phải ánh mắt không biểu hiện những điều đó. Nếu động não suy nghĩ, chắc hẳn họ biết rằng chỗ trong cái nhà xưởng đó dành để chứa đồ đạc, cho dù bây giờ nó vẫn chưa chật kín. Hoặc có lẽ họ biết rằng, dù trong đó còn chỗ trống chăng nữa, nó cũng chẳng dành cho họ; không phải những người lính gác muốn họ bị ướt mà là những người lính gác không quan tâm đến việc tránh cho họ khỏi bị ướt. Vậy nên họ chỉ im lặng đứng đó như những con chó trong một cuộc thi săn mồi trên cánh đồng, bất động, kiên nhẫn, trầm ngâm với những cổ áo được dựng lên và những cái còng số tám, quay lưng về phía mưa như cách những con cừu và gia súc thường đứng.

Một lúc sau, họ biết rằng số lính gác đã tăng thêm mười hai người hoặc hơn thế, những người lính gác không hề bị lạnh và ướt trong chiếc áo ponsô bằng cao su, có một viên sĩ quan mang súng lục ở thắt lưng, thế rồi, không di chuyển một phân nào, họ bắt đầu ngửi thấy mùi thức ăn; quay đầu lại nhìn, họ thấy một căn bếp dã chiến được dựng ngay bên trong cửa của xưởng ép bông. Nhưng họ vẫn không nhúc nhích mà đợi đến khi bị lùa vào hàng mới dịch từng tí một về phía trước, cúi đầu đầy kiên nhẫn trong mưa, rồi mỗi người nhận một tô thịt hầm, một cốc vại cà phê và hai lát bánh mì. Họ ăn những thứ đó trong mưa. Vì sàn chất hàng ướt nên họ không ngồi bệt mà ngồi xổm, cúi người về phía trước cố che cho bát thức ăn và cốc cà phê đang bị những giọt mưa rơi vào đều đặn như rơi vào những cái ao nhỏ và, chẳng có hình dạng cũng chẳng có âm thanh, mưa làm những lát bánh mì ướt nhẹp.

Họ đứng trên sàn chất hàng ba tiếng đồng hồ thì tàu đến. Những người đứng ở rìa sàn chất hàng lặng lẽ quan sát đoàn tàu chở khách có vẻ đang chạy bằng năng lượng tự sinh, kéo theo một đám khói tỏa ra từ ống khói mà họ không nhìn thấy, một đám mây được tạo thành từ khói tàu không bay lên cao mà dạt sang bên trông có vẻ nặng nề và chậm chạp rồi nằm bẹp xuống mặt đất bị ngập nước trong tình trạng không trọng lượng và kiệt sức. Con tàu từ từ tiến đến rồi dừng lại, một toa chở hàng duy nhất được ghép bằng gỗ theo kiểu cổ với phần cuối không được che chắn được nối với đầu tàu có động cơ trông nhỏ hơn đáng kể so với phần toa được nó kéo. Họ bị lùa vào trong toa tàu, từng người từng người nối gót nhau tiến về phía cuối toa nơi có một cái lò sưởi nhỏ bằng sắt nung. Không có lửa trong lò sưởi, tuy vậy họ cứ tiến về phía nó - cái khối sắt câm lặng, lạnh lẽo bị những vết dụi thuốc lá làm cáu bẩn và những bóng ma của cả nghìn chuyến du hí vào ngày Chủ nhật đến Memphis hoặc Moorhead và cả những chuyến trở về đeo bám - những củ lạc, quả chuối, tã bẩn của trẻ con - được dồn thành đống ở một góc gần lò sưởi. “Vào đi, vào đi”, một người lính gác quát lên. “Ngồi xuống.” Ít nhất ba người lính đã bỏ súng xuống để đi giữa bọn họ, không cho phép họ đứng túm tụm lại gần lò sưởi, buộc họ phải vào chỗ ngồi.

Không có đủ chỗ ngồi cho tất cả bọn họ. Những người không được ngồi thì đứng ở lối đi, tay vẫn bị còng; họ nghe tiếng con tàu nhả phanh rít lên trong không khí, tiếng động cơ bật ra bốn tiếng nổ hơi, toa chở khách chuyển động với một cú giật bất thình lình; sàn chất hàng và xưởng ép bông biến mất trong nháy mắt khi con tàu dường như đổi từ trạng thái bất động sang chạy hết tốc lực với cùng một kiểu hư ảo, ma mị như khi nó xuất hiện, cứ như thể nó chạy lùi mặc dù động cơ ở đằng trước, cũng như nó đã chạy về phía trước với động cơ ở đằng sau.

Các tù nhân thậm chí không biết con tàu chạy đến đoạn đường ray bị ngập nước. Họ cảm giác như tàu dừng lại, nghe thấy động cơ phát ra một tiếng nổ hơi rền rĩ không có âm thanh dội lại giữa một vùng đìu hiu, hoang vắng, và họ thậm chí không tò mò; họ ngồi hoặc đứng phía sau những ô cửa sổ tàu khi con tàu lại chuyển động như thể đang bò, tự tìm đường như chiếc xe tải lúc trước đã dò dẫm nhích lên phía trước trong khi dòng nước lụt đục ngầu cuộn xoáy giữa những chiếc xe tải và nan hoa của bánh xe đang chạy, táp làn hơi nước như mây sương vào cái bụng đầy lửa đang kéo toa của máy tàu; một lần nữa, động cơ tàu lại phát ra bốn tiếng nổ hơi ngắn ngủi tràn đầy niềm hân hoan hoang dại và thách thức, nhưng đồng thời thể hiện lời chia tay thậm chí vĩnh biệt, như thể cái khối sắt có khớp nối ấy biết rằng nó không dám dừng lại và sẽ không thể quay trở về. Hai giờ sau, trong bóng chiều nhập nhoạng, qua những ô cửa sổ mờ hơi nước, họ nhìn thấy một nhà đồn điền đang bốc cháy. Căn nhà đó đứng trơ vơ, chẳng liền kề cái gì hết, chẳng có nhà hàng xóm láng giềng nào, một ngọn lửa tựa như giàn thiêu cháy không ngừng khăng khăng trốn khỏi cái bóng của chính nó, rừng rực trong bóng tối trên một vùng tiêu điều, hoang tàn ngập lụt theo cái kiểu đầy nghịch lý, tức tối và kỳ quái.

Sau khi trời tối, con tàu thỉnh thoảng lại dừng lại. Các tù nhân không biết mình đang ở đâu. Họ không hỏi hay nghĩ đến chuyện hỏi mình đang ở đâu, cũng như chẳng buồn thắc mắc tại sao mình phải lên tàu và lên để làm gì. Họ thậm chí không thể nhìn thấy, bởi vì toa tàu không được thắp sáng còn các ô cửa sổ thì bị mưa làm mờ mặt ngoài và nhiệt tỏa ra từ những cơ thể chen chúc nhau làm mờ mặt trong. Tất cả những gì họ có thể nhìn thấy là những tia sáng đèn pin màu trắng đục không rõ phát ra từ đâu. Họ có thể nghe thấy tiếng la hét, tiếng ra lệnh, thế rồi những người lính gác trong toa tàu bắt đầu quát tháo; họ lùa những đôi chân ra phía cửa lên xuống, các cổ chân bị xích phát ra tiếng lách cách, loảng xoảng. Họ bước xuống trong tiếng rít của hơi nước tơi tả thổi qua toa tàu. Nằm dọc cạnh con tàu và trông na ná như con tàu là một động cơ cũ kỹ được gắn với một dãy những chiếc xuồng nhỏ và thuyền đáy phẳng. Có thêm nhiều lính nữa; ánh đèn pin nhảy nhót trên những nòng súng và dây gài đạn, chiếu loang loáng trên những sợi xích ở cổ chân của các tù nhân khi họ bước rón rén xuống vùng nước ngập đến đầu gối và lên thuyền; giờ đây cả toa tàu lẫn đầu tàu đều biến mất hoàn toàn trong màn hơi nước khi đội lái tàu bắt đầu dập lửa trong thùng đốt nhiên liệu.

Một giờ sau, họ bắt đầu nhìn thấy những ngọn đèn ở phía trước - một dãy đèn đỏ lập lòe, yếu ớt giăng dọc chân trời, như thể được treo lơ lửng ở một độ cao gần mặt đất. Nhưng phải mất ít nhất một giờ nữa họ mới tới được chỗ có những ngọn đèn đó trong khi các tù nhân ngồi xổm túm tụm lại trên thuyền trong những bộ quần áo ướt sũng (họ không còn cảm thấy mưa rơi thành giọt nữa) và dõi mắt đăm đăm về phía các ngọn đèn càng ngày càng gần hơn cho tới khi, cuối cùng, đỉnh của con đê hiện ra; giờ đây, họ có thể thấy rõ một dãy lều dã chiến nằm dọc mặt đê và những đám người ngồi xổm quanh các đống lửa, ánh sáng đèn phản chiếu trên mặt nước cho thấy một số lượng lớn thuyền nhẹ khác được neo vào sườn đê cao mờ tối phía trên. Ánh sáng đèn pin lóe lên, nhấp nháy dọc chân đê giữa những chiếc thuyền chở tù nhân đã được cột chặt lặng lẽ neo đậu ở đó trong đêm tối.

Khi lên tới mặt đê, các tù nhân có thể nhìn thấy một dãy lều bằng vải kaki được dựng rải rác với những đám người vây quanh đống lửa - đàn ông, đàn bà, trẻ con, người da đen, người da trắng - ngồi co ro hoặc đứng túm tụm giữa các bọc tư trang méo mó, đầu họ ngoái lại, con ngươi sáng lấp lánh trong ánh lửa khi lặng lẽ nhìn những bộ quần áo tù kẻ sọc và những sợi xích; ở một đoạn xa hơn của con đê là một đàn la và hai hoặc ba con bò cái cũng đứng chen chúc và bị buộc vào một chỗ. Thế rồi tù nhân có dáng người cao phát hiện ra một âm thanh khác. Không phải bây giờ hắn mới bất ngờ nghe thấy âm thanh ấy, hắn nhận ra rằng lúc nào mình cũng nghe thấy nó - thứ âm thanh nằm ngoài kinh nghiệm và khả năng thẩm thấu của mình, thứ âm thanh mà từ trước đến giờ hắn đã quên như một con kiến hoặc một con bọ chét quên mất âm thanh của trận tuyết lở từ đống tuyết mà nó đã bò lên; hắn đã di chuyển phía trên vùng con đê lụt nước này từ trưa và cũng đã điều khiển cái cày, cái bừa và cả máy gieo hạt di chuyển trong cái bóng của nó suốt bảy năm nay qua, nhưng hắn đã không nhận ra ngay lập tức tiếng rì rầm sâu thẳm vọng tới từ phía bên kia đê. Hắn dừng chân. Hàng dài tù nhân phía sau hắn cũng phải dừng bước như những toa tàu chở hàng đột nhiên bị dồn lại, với tiếng lách cách của kim loại vang lên hệt như tiếng va chạm của các toa tàu. “Đi!”, một người lính quát to.

“Tiếng gì thế nhỉ?”, hắn cất tiếng hỏi. Một người đàn ông da đen đang ngồi xổm cạnh đống lửa gần nhất trả lời: “Ông Già đấy. Đó là Ông Già.”

“Ông Già ư?”, hắn hỏi lại.

“Đi đi! Đi lên trên kia đi!”, người lính quát. Họ tiếp tục bước qua một đàn la khác đứng túm tụm với nhau, những con ngươi đảo qua đảo lại, những khuôn mặt dài ủ ê quay ra nhìn rồi lại hướng vào đống lửa; họ đi qua những đám người đó tới một chỗ có những cái lều dã chiến bỏ trống của một chiến dịch do quân đội triển khai có thể chứa hai người một. Lính gác lùa các tù nhân vào trong lều, ba tù nhân bị lùa vào một cái trong khi vẫn bị xích.

Họ bò vào lều bằng tứ chi, giống như những con chó bò vào những cái chuồng chật hẹp, và ở yên trong đó. Chẳng bao lâu sau những cái lều ấm lên nhờ nhiệt tỏa ra từ cơ thể họ. Họ yên lặng và khi đó tất cả đều có thể nghe thấy âm thanh ấy, họ nằm đó lắng nghe tiếng rì rầm trầm sâu, khỏe khoắn và đầy sức mạnh. “Ông Già ư?”, tù nhân bị kết tội trộm cướp trên tàu hỏa nói.

“Đúng”, tù nhân khác đáp. “Lão ấy không nói khoác đâu.” Lính gác đánh thức họ dậy vào lúc rạng đông bằng cách đá vào những bàn chân thò ra khỏi lều. Ở phía đối diện với bến sông lầy lội và những chiếc thuyền lấm láp đang đỗ san sát thành từng cụm là một căn bếp dã chiến mới dựng, và họ đã có thể ngửi thấy mùi cà phê. Tù nhân có dáng người cao không di chuyển ngay lập tức về phía có thức ăn mặc dù ngày hôm qua hắn chỉ được ăn một bữa duy nhất vào buổi trưa trời mưa tầm tã. Thay vì thế, lần đầu tiên hắn thấy con sông mình đã ở trong cái bóng của nó suốt bảy năm cuộc đời nhưng chưa bao giờ được nhìn tận mắt; hắn đứng lặng trong nỗi kinh ngạc, nhìn mặt nước màu nâu không vỡ thành những con sóng mà chỉ hơi dập dềnh. Nước trải dài từ chỗ con đê hắn đang đứng tới hết tầm nhìn - một vùng nước mênh mông ngầu bọt mang màu sô cô la, nặng nề và chậm chạp chỉ bị cắt bởi một đường kẻ mỏng kéo dài một dặm xa trông thật mỏng manh tựa như một sợi tóc, và lát sau, hắn nhận ra cái thứ trông như sợi tóc ấy là gì. Đó là một con đê khác, hắn thầm nghĩ. Từ chỗ đó nhìn ra đây người ta cũng sẽ thấy con đê này giống như thế. Mình đang đứng ở cái chỗ mà nhìn từ đó, người ta cũng thấy nó hệt như vậy. Hắn bị thúc từ phía sau; giọng nói của một lính gác vọng lên phía trước: “Đi nào! Đi nào! Các anh còn khối thời gian để ngắm nhìn cái đó!”.

Giống như ngày hôm trước, họ cũng nhận được các suất ăn gồm xúp thịt hầm, cà phê và bánh mì, họ lại ngồi xổm, cúi cong lưng trước những tô xúp và những cốc cà phê y như thế, mặc dù bây giờ trời không mưa. Một cái nhà kho ghép bằng gỗ còn nguyên vẹn đã bị trôi trong đêm. Giờ đây, nó bị mắc kẹt cạnh con đê trong khi một đám người da đen xúm lại mạnh ai người ấy rút những tấm ván lợp và ván lót sàn rồi mang chúng lên bờ; ngồi ăn một cách bình tĩnh và nhẩn nha, tù nhân có dáng người cao nhìn cái nhà kho nhanh chóng chìm xuống dưới mặt nước y như một con ruồi chết biến mất trước một đàn kiến siêng năng.

Họ ăn xong. Trong khi họ đứng hoặc ngồi xổm trong những bộ quần áo thô cứng chưa kịp khô qua một đêm nhưng đã trở nên ấm hơn không khí ngoài trời một chút, trời lại bắt đầu mưa. Một lát sau họ bị thúc đứng dậy, buộc phải chia thành hai nhóm, một trong hai nhóm được trang bị những chiếc cuốc chim và xẻng dính đầy bùn ở gần đó và được ra lệnh đi thành hàng trên mặt đê. Một lát sau, chiếc xuồng máy cùng đoàn thuyền chở đầy những người da đen lẫn da trắng ôm khư khư gói bọc tư trang trong lòng lặc lè kéo tới qua một vùng có lẽ là cánh đồng trồng bông đã bị ngập trắng. Khi động cơ của cái xuồng kia ngừng bặt, tiếng ghi ta từ đâu đó khẽ ngân lên trên mặt nước. Những chiếc thuyền được kéo vào bờ; các tù nhân nhìn những người đàn ông, đàn bà và trẻ con vất vả trèo lên con dốc lầy lội, mang vác các bao tải nặng và gói bọc lỉnh kỉnh. Tiếng ghi ta vẫn không ngừng cất lên giai điệu và giờ đây các tù nhân nhìn thấy người chơi đàn - một người đàn ông da đen còn trẻ, mông móp tọp, đeo cây ghi ta trên người bằng một sợi dây vải buộc quanh cổ. Anh ta leo lên đê, vừa đi vừa gẩy đàn. Anh ta không mang theo bất cứ thứ gì khác, không thức ăn, không tư trang, thậm chí cả áo khoác cũng không.

Tù nhân có dáng người cao mải nhìn cảnh đó đến nỗi không nghe thấy người lính gác đứng ngay bên cạnh đang gọi tên hắn. “Nghe đây!”, người lính gác gào lên. “Các anh có biết chèo thuyền không?”

“Chèo thuyền ở đâu kia chứ?”, tù nhân có dáng người cao ngơ ngác hỏi.

“Ở dưới nước chứ còn ở đâu nữa”, người lính nói.

“Thế anh nghĩ chèo thuyền ở đâu hả?”

“Tôi sẽ không chèo thuyền ở chỗ kia đâu”, tù nhân có dáng người cao nói, hất hàm về phía con sông nằm khuất bên kia con đê phía sau lưng hắn.

“Không, ở bên này cơ”, người lính nói. Anh ta cúi xuống thật nhanh, mở khóa xích nối giữa tù nhân có dáng người cao và tù nhân thấp đậm, đầu hói. “Ở dưới đường kia cơ.” Anh ta đứng lên. Hai tù nhân đi theo anh ta xuống thuyền. “Cứ chèo thuyền theo những cái cột điện kia cho đến khi các anh tới một trạm xăng. Các anh có thể trông thấy mái của trạm xăng vẫn chưa bị ngập. Nó nằm cạnh một nhánh sông và các anh có thể nhận ra nhánh sông đó nhờ những ngọn cây chồi lên khỏi mặt nước. Hãy đi theo nhánh sông đó cho tới khi các anh tới một cây bách bị gãy ngang và có một người phụ nữ ở trên đó. Hãy đón cô ta xuống và đi theo hướng tây cho tới khi tới một trang trại có người đàn ông ngồi trên mái nhà...” Anh ta quay đầu lại, nhìn hai tù nhân giờ đây đang đứng im như phỗng, thoạt tiên nhìn chiếc thuyền sau đó nhìn mặt nước với vẻ điềm tĩnh tuyệt đối. “Thế nào? Các anh còn chờ đợi gì nữa hả?”

“Tôi không biết chèo thuyền”, tù nhân có dáng người thấp đậm nói.

“Vậy thì đã đến lúc các anh phải học chèo thuyền rồi đấy”, người lính gác nói. “Xuống thuyền đi”, anh ta ra lệnh.

“Nước không làm các anh đau đâu mà sợ. Không ai bắt các anh tắm đâu mà lo.”

Tù nhân có dáng người thấp đậm giữ vị trí ở mũi thuyền, người còn lại ngồi ở phía đuôi thuyền, họ đẩy chiếc thuyền ra khỏi bờ đê, thấy những cặp tù nhân khác được tháo xích và đang tiến đến những chiếc thuyền còn lại. “Tôi không biết có bao nhiêu tù nhân cũng giống như chúng ta lần đầu tiên trong đời nhìn thấy nhiều nước như thế này”, tù nhân có dáng người cao nói. Người bạn đồng hành của hắn không trả lời. Gã quỳ trong lòng thuyền, thỉnh thoảng lại dùng mái chèo khuấy nước một cách thận trọng. Tấm lưng dày của gã dường như toát lên nỗi mệt mỏi và lo lắng đầy căng thẳng.

Sau nửa đêm, thỉnh thoảng lại có một chiếc xuồng cứu hộ chở đầy những người đàn ông, đàn bà và trẻ con mất nhà đậu tại Vicksburg. Đó là một chiếc xuồng chạy bằng động cơ có đáy nông; suốt cả ngày nó chạy lên, chạy xuống dọc nhánh sông có cây bách và chạy qua những cánh đồng trồng bông (nơi mà nhiều lần, thay vì bơi, nó đã lội qua) thu lượm những “chuyến hàng” tiều tụy của mình từ những nóc nhà, nhà kho, thậm chí trên các chạc cây, và bây giờ nó được kéo vào cái thành phố phát triển nhanh như nấm của sự đìu hiu và buồn tẻ - nơi mà những ngọn đèn dầu nhả khói trong mưa phùn còn những bóng đèn điện được mắc một cách vội vàng thì tỏa sáng phía trên các lưỡi lê của cảnh sát, các băng đeo tay có hình chữ thập đỏ của các bác sĩ, y tá và những người cung cấp đồ ăn thức uống tại chỗ. Con dốc phía trên gần như kín những lều là lều, tuy nhiên từng ấy lều vẫn không đủ cho tất cả mọi người; những người đến một mình hay đến cùng gia đình ngồi hoặc nằm dưới bất kỳ mái che nào họ có thể tìm thấy, đôi khi nằm dưới mưa, trong cảm giác mệt lử như thể đang chết lâm sàng trong khi các bác sĩ, y tá và những người lính đi lại xung quanh họ.

Trong số những người lên bờ đầu tiên có phó giám đốc trại tù, theo sau ông ta là tù nhân có dáng người thấp đậm và một người đàn ông da trắng khác - người đàn ông nhỏ thó với khuôn mặt xanh xao, hốc hác, râu ria xồm xoàm vẫn còn hằn rõ vẻ tức giận đầy hoài nghi. Phó giám đốc trại dường như biết chính xác mình muốn đi đâu. Với hai người đồng hành sát gót, ông ta bước nhanh giữa những đống đồ đạc ngổn ngang và những người đang ngủ để rồi một lát sau đứng trong một văn phòng được dựng tạm bợ có ánh điện sáng chói mắt gần giống phòng chỉ huy của quân đội, nơi giám đốc trại ngồi cùng với hai sĩ quan đeo lon thiếu tá. Phó giám đốc trại lên tiếng, “Chúng ta bị mất một người”. Rồi ông nói tên của tù nhân có dáng người cao.

“Không thấy anh ta đâu ư?”, giám đốc trại hỏi.

“Đúng vậy. Hắn chết đuối rồi.” Không quay đầu lại, ông ta nói với tù nhân có dáng người thấp đậm: “Hãy kể cho ông ấy nghe đầu đuôi sự việc đi”.

“Anh ta nói biết chèo thuyền”, tù nhân có dáng người thấp đậm nói. “Tôi thì không. Tôi nói với anh ta như vậy...”, gã minh họa bằng một cái lắc đầu, “... tôi thì không thể. Vậy nên khi chúng tôi chèo thuyền tới nhánh sông...”. “Chuyện gì đã xảy ra?”, giám đốc trại hỏi.

“ Xuồng cứu hộ mang tin về”, phó giám đốc trại nói. “Người đàn bà ngồi trên chạc cây bách ở nhánh sông, và người này...”, ông chỉ tay vào người đàn ông thứ ba; giám đốc trại và hai sĩ quan nhìn người đàn ông thứ ba. “... ở trên mái của một nhà trang trại. Xuồng cứu hộ không còn chỗ để đón họ xuống... Kể tiếp đi.”

“Vậy là chúng tôi đến nhánh sông”, tù nhân có dáng người thấp đậm tiếp tục kể bằng giọng đều đều, không hề chuyển điệu. “Sau đó thuyền và anh ta mỗi người một nơi. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra. Tôi chỉ ngồi yên bởi anh ta quả quyết rằng anh ta biết chèo thuyền. Tôi chẳng nhìn thấy nước xoáy. Tôi chỉ thấy bỗng nhiên thuyền quay vòng tròn rồi bắt đầu trôi theo kiểu giật lùi với tốc độ rất nhanh giống như bị tàu hỏa kéo đi vậy, rồi nó lại xoay tít, và khi nhìn lên, tôi thấy một cánh tay ở phía trên đầu mình; tôi túm lấy cánh tay đó nhưng chiếc thuyền giật một cái giống như ông giật một cái tất ra khỏi chân vậy, rồi tôi lại thấy chiếc thuyền như thể đang lật úp còn anh ta, cái người nói rằng biết chèo thuyền ấy, cố bám vào thuyền bằng một tay còn tay kia vẫn cầm mái chèo...” Hắn ngừng nói. Giọng hắn không đuối dần, chỉ đơn giản ngừng bặt và hắn đứng im lặng nhìn chai whiskey chỉ còn một nửa trên bàn.

“Làm thế nào ông biết hắn đã chết đuối?”, giám đốc trại nói với cấp phó của mình. “Làm thế nào ông dám chắc không phải hắn nhận thấy có cơ hội bỏ trốn và đã tận dụng nó?”

“Bỏ trốn ư?”, người kia nói. “Toàn bộ vùng châu thổ đều bị ngập lụt rồi. Nước ngập sâu tới mười lăm thước khắp năm mươi dặm, nước dâng lên tận những quả đồi. Vả lại chiếc thuyền đã bị lật mà.”

“Anh ta bị chết đuối rồi”, tù nhân có dáng người thấp đậm nói. “Ông không cần phải lo lắng về anh ta đâu. Anh ta đã được giải tội rồi; sẽ không ai gặp vấn đề gì khi ký giấy xác nhận điều đó đâu.”

“Không ai khác nhìn thấy anh ta sao?”, giám đốc trại nói. “Thế còn người đàn bà ở trên cây thì sao?”

“Tôi không biết”, phó giám đốc nói. “Tôi chưa tìm thấy cô ta. Tôi cho rằng một chiếc thuyền khác đã cứu cô ta rồi. Còn đây là người đàn ông ở trên mái nhà trang trại.”

Một lần nữa, giám đốc trại và hai sĩ quan lại nhìn người đàn ông thứ ba, kẻ có khuôn mặt hốc hác, râu ria xồm xoàm, một khuôn mặt vẫn hiện hữu nỗi kinh hoàng cùng sự pha trộn giữa sợ hãi, bất lực và giận dữ.

“Anh ta không đến cứu ông đúng không?”, giám đốc trại nói. “Ông không hề nhìn thấy anh ta đúng không?”

“Chẳng ai đến cứu tôi hết”, người tị nạn nói. Ông ta bắt đầu run rẩy mặc dù thoạt đầu nói bằng giọng khá bình tĩnh. “Tôi ở trên đó, trên cái mái nhà chết tiệt ấy, mong được cứu từng phút, và tôi nhìn thấy cái xuồng cứu hộ ấy chạy đến nhưng nó không còn chỗ cho tôi. Xuồng chở đầy những thằng con hoang da đen và một thằng trong số chúng ngồi trên xuồng, điềm nhiên chơi đàn ghi ta; xuồng chở cái thứ ấy, một chiếc đàn ghi ta, vậy mà không có chỗ cho tôi!”, ông ta nói bằng giọng giận dữ; bây giờ ông ta bắt đầu gào lên trong run rẩy, mặt ông ta méo mó, vẹo vọ. “Cái xuồng đó có chỗ cho một thằng con hoang da đen nhưng không có chỗ cho tôi...”

“Bình tĩnh nào”, giám đốc trại nói. “Hãy bình tĩnh.” “Hãy rót cho ông ta một ly rượu”, một trong hai viên sĩ quan nói. Giám đốc trại rót rượu. Phó giám đốc trại đưa ly rượu cho người đàn ông tị nạn, và ông ta cầm lấy ly rượu bằng đôi tay run run, cố gắng đưa ly rượu lên miệng. Họ nhìn ông ta trong khoảng hai mươi giây, sau đó phó giám đốc trại cầm lấy ly rượu từ tay người tị nạn đưa lên miệng cho ông ta uống. Rượu chảy thành dòng nhỏ từ hai bên mép ông ta xuống cái cằm lởm chởm râu.

“Vậy nên chúng tôi đưa ông ta và...”, phó giám đốc trại nhắc tên của tù nhân có dáng người thấp đậm, “... lên thuyền, cứu cả hai trước khi trời tối rồi đưa về đây. Nhưng người tù kia đã biến mất”.

“Vậy đấy”, giám đốc trại nói. “Trong mười năm qua, tôi chưa để mất một tù nhân nào, thế mà bây giờ chuyện này lại xảy ra... Ngày mai tôi sẽ cử ông quay lại trại. Hãy thông báo cho gia đình tù nhân đó biết, và hoàn thành các thủ tục giấy tờ cần thiết ngay lập tức.”

“Được thôi”, phó giám đốc trại nói. “Thưa giám đốc, hắn không phải là một tù nhân tồi và có lẽ không biết điều khiển chiếc thuyền. Có điều hắn nói mình biết chèo thuyền. Nghe này. Hay là tôi viết vào giấy chứng nhận giải tội rằng hắn đã chết đuối trong khi cố gắng cứu người gặp nạn tại vùng lụt và gửi cho thống đốc ký. Sẽ thật tốt nếu như người thân của hắn có thể treo cái giấy chứng nhận đó lên tường khi hàng xóm láng giềng tới chia buồn. Thậm chí có thể gia đình hắn sẽ nhận được một khoản tiền bởi vì suy cho cùng, người ta đưa hắn đến trại để trồng bông chứ không phải để làm thằng ngốc trên chiếc thuyền trong lũ lụt.”

“Được”, giám đốc trại nói. “Tôi sẽ suy nghĩ về chuyện đó. Điều quan trọng phải làm là gạch tên hắn khỏi sổ sách vì lý do đã chết trước khi chính trị gia nào đó cố bỏ túi tiền trợ cấp thức ăn của hắn.”

“Được”, phó giám đốc trại nói. Ông ta quay ra và dồn những người đi cùng rời khỏi lều. Trong đêm tối lất phất mưa phùn, ông ta nói với tù nhân có dáng người thấp đậm: “Bạn đồng hành của anh khá hơn anh đấy. Anh ta đã được tự do. Anh ta đã mãn hạn tù rồi nhưng anh thì vẫn còn một chặng đường dài phải đi đấy”.

“Đúng vậy”, tù nhân có dáng người thấp đậm nói. “Tự do. Anh ta đã có được tự do.”