L
ần đầu tiên gặp Charlotte Rittenmeyer, người đàn ông tên Harry đang là bác sĩ thực tập tại một bệnh viện ở New Orleans. Anh là con út trong một gia đình có ba người con và được vợ hai của bố sinh ra khi ông chẳng còn trẻ trung gì; khoảng cách mười sáu năm đã tạo ra sự khác biệt giữa anh và người nhỏ tuổi hơn trong số hai bà chị cùng cha khác mẹ với anh. Lên hai tuổi, anh mồ côi cả cha lẫn mẹ và được người chị cả nuôi dưỡng. Cha anh nguyên là một bác sĩ. Ông bắt đầu học và hoàn thành chương trình y khoa vào thời mà cái danh bác sĩ bao gồm đủ mọi thứ, từ dược lý, chẩn đoán học tới phẫu thuật, cái thời mà chi phí giáo dục có thể được trả bằng hàng hóa hoặc công lao động; ông Wilbourne từng làm bảo vệ ở ký túc xá, phục vụ bàn ở nhà ăn tập thể và đã hoàn thành chương trình đào tạo bốn năm với khoản kinh phí bằng tiền mặt không quá hai trăm đô la. Bởi vậy, khi mở di chúc của ông, người ta đọc được đoạn cuối như sau:
Đối với con trai tôi, Henry Wilbourne, tôi hiểu rằng ở thời của nó, điều kiện cũng như giá trị thực của đồng tiền đã thay đổi, bởi vậy tôi không thể mong nó sẽ lấy được bằng của khoa giải phẫu và bằng Y khoa với số tiền tương đương với chi phí ăn học của thời tôi còn sống, vì thế tôi để lại khoản tiền hai nghìn đô la dành cho việc học hành của nó để nó có thể lấy bằng đại học cũng như giấy phép hành nghề phẫu thuật và y khoa, và tôi tin rằng khoản tiền nói trên đủ cho mục đích đó.
Bản di chúc được lập hai ngày sau khi Harry chào đời vào năm 1910, và hai năm sau, cha anh qua đời vì ngộ độc do mút máu từ vết rắn cắn trên tay của một đứa trẻ nhà nghèo, vậy là người chị cả đảm nhận trách nhiệm nuôi nấng anh. Chồng chị làm việc tại cửa hàng thực phẩm ở một thị trấn nhỏ thuộc bang Oklahoma và họ đã có con, vậy nên khi Harry vào học trường Y - một trường được xếp hạng tương đối tốt nhưng lại có mức học phí vừa phải - thì khoản tiền hai nghìn đô la dành để trang trải chi phí học hành trong hơn bốn năm của anh đã mất giá, chẳng hơn gì hai trăm đô la ở thời của cha anh. Thậm chí điều kiện của anh còn khó khăn hơn, vì ở ký túc xá lúc bấy giờ đã có hệ thống sưởi ấm bằng hơi nước và trường đại học có căng tin bán hàng tự động không cần người phục vụ; cách duy nhất một người đàn ông trẻ có thể kiếm tiền ở trường là bắt bóng hoặc chặn người giữ bóng trong các trận đấu bóng. Chị gái đã giúp đỡ anh - thỉnh thoảng lại gửi cho anh một hoặc hai đô la hay thậm chí vài con tem được gấp cẩn thận trong một bức thư. Số tiền đó dùng để mua thuốc lá và bằng cách không hút thuốc trong một năm, anh đã tiết kiệm được một khoản đủ để nộp lệ phí cho Hội sinh viên của trường Y. Anh không còn một xu dính túi để đi chơi với các cô gái (trường có cả nam sinh và nữ sinh) nhưng dẫu sao hồi đó anh cũng chẳng có thời gian cho chuyện ấy; đằng sau vẻ bình thản của đời sống tu viện, anh phải vật vã trong một cuộc chiến liên miên không ngừng nghỉ giống như bất cứ người nào trong một tòa nhà chọc trời của phố Wall khi cố gắng cân đối khoản tiền đang vơi dần của mình với những trang sách giáo trình được lật qua.
Nhưng anh đã xoay xở được, và với những gì còn lại của hai nghìn đô la, anh có đủ tiền để quyết định vào phút chót giữa việc trở về thị trấn ở Oklahoma để giơ tấm bằng cho chị gái xem, hoặc đi thẳng tới New Orleans nhận nhiệm vụ bác sĩ thực tập, nhưng vào thời điểm đó, anh không có đủ tiền để làm cả hai việc. Anh đã chọn New Orleans. Hay nói đúng hơn, anh chẳng có lựa chọn nào khác; anh viết cho chị gái và anh rể một bức thư bày tỏ lòng biết ơn đối với họ, gửi kèm một tờ giấy có chữ ký, ghi đầy đủ số tiền của những con tem bưu điện và những khoản tiền mà chị gái đã gửi cho mình, cùng với lãi suất (anh cũng gửi tấm bằng tốt nghiệp có những con chữ được ghi bằng tiếng Latin với lời chào được dập nổi cùng những chữ ký khó đọc mà chị gái và anh rể anh chỉ có thể giải mã được duy nhất tên anh trong số đó) rồi gửi bưu điện cho họ, sau đó mua vé tàu, trải qua mười bốn tiếng đồng hồ trên chuyến tàu chạy ban ngày. Anh đến New Orleans với một chiếc túi xách và một đô la ba mươi sáu xu.
Giờ đây, anh đã làm việc ở bệnh viện được gần hai năm. Anh sống trong khu nhà dành cho bác sĩ thực tập nội trú cùng với hai người khác cũng giống như anh - chẳng giàu có gì; mỗi tuần anh hút thuốc một lần: Một bao thuốc lá để hút vào dịp cuối tuần khi anh thực hiện nghĩa vụ mà giấy ghi nợ của mình chỉ ra - gửi trả cho chị gái những khoản tiền một hoặc hai đô la; một chiếc túi duy nhất vẫn chứa được tất cả những thứ anh sở hữu - quần áo của bệnh viện, hai mươi sáu năm tuổi đời, hai nghìn đô la, tấm vé tàu đi New Orleans cùng một đô la và ba mươi sáu xu - để ở góc của căn phòng trông chẳng khác gì trại lính với những chiếc giường sắt giống kiểu giường của quân đội; vào buổi sáng của ngày sinh nhật lần thứ hai mươi bảy, anh thức dậy và nhìn xuống đôi bàn chân mình, cảm thấy dường như anh đang nhìn hai mươi bảy năm không thể chối bỏ của cuộc đời bị thu nhỏ lại và biến dạng, như thể cuộc sống của anh sắp sửa được đặt một cách thụ động lên lưng anh, còn anh đang trôi lững lờ vô định ngoài ý muốn trên một dòng suối không ngừng chảy mà chẳng cần chút nỗ lực nào. Những năm tháng ấy dường như hữu hình trước mắt anh: Những năm trống rỗng khi tuổi trẻ của anh đã mất hút, những năm của tuổi thanh xuân sôi nổi, quãng đời dành cho sự vui chơi buông thả và sống thỏa máu liều, những năm tháng dành cho những mối tình tuổi mới lớn sớm nở tối tàn bi thương và nồng cháy, những năm tháng dành cho sự khám phá và thôi thúc đầy hoang dại của xác thịt, và tất cả những điều đó đã không dành cho anh; anh nằm nghĩ, không hẳn với cảm giác tự hào mà cũng chẳng phải với nỗi tủi nhục, mà đúng hơn là với sự thanh thản của một vị quan thái giám ở tuổi trung niên nhìn lại quãng thời gian vô nghĩa trước khi ông ta bị biến đổi, nhìn những hình bóng mờ nhạt giờ chỉ còn lại trong ký ức và không phải bằng xương thịt: Mình đã khước từ tiền bạc và vì thế khước từ cả tình yêu. Không phải là mình từ bỏ những thứ đó, mà là không nhận chúng. Mình không cần những thứ ấy; năm sau hoặc hai năm, năm năm nữa mình sẽ biết chính xác những gì mà giờ đây mình tin: Mình thậm chí không nhất thiết cứ phải ham muốn những thứ ấy.
Tối hôm đó, anh đi làm về muộn hơn mọi ngày một chút; khi đi qua phòng ăn, anh nghe thấy tiếng chén bát leng keng cùng tiếng người trò chuyện xôn xao, còn ở phòng tập thể lúc đó không có ai khác ngoài một người tên là Flint vận quần âu cùng áo sơ mi, đang thắt chiếc cà vạt đen trước gương; anh ta quay ra nhìn khi Wilbourne bước vào, chỉ tay về phía một bức điện được đặt trên gối của anh. Bức điện đã bị mở. “Nó được để ở giường của tớ”, Flint nói. “Tớ đang mải thay đồ nên không kịp nhìn tên trên đó. Tớ cứ thế cầm nó lên và mở ra. Tớ xin lỗi.”
“Không sao đâu”, Wilbourne đáp. “Khối người đã thấy một bức điện trước khi nó trở thành thứ riêng tư.” Anh lôi mảnh giấy màu vàng được gấp gọn ra khỏi chiếc phong bì. Bức điện được trang trí bởi những biểu tượng hình tràng hoa và những đường xoáy trôn ốc là do chị gái anh gửi: Một trong những bức điện mừng sinh nhật được in hàng loạt mà công ty điện tín gửi đến bất cứ đâu trong phạm vi nước Mỹ với giá hai mươi lăm xu. Anh nhận thấy Flint đang quan sát mình.
“Vậy ra hôm nay là sinh nhật của cậu”, Flint nói. “Tổ chức mừng sinh nhật chứ nhỉ?”
“Không”, Wilbourne nói. “Tớ nghĩ là không.”
“Gì cơ? Nghe này. Tớ sắp sửa đi dự tiệc ở khu phố Pháp. Tại sao cậu không đi cùng tớ nhỉ?”
“Không”, Wilbourne trả lời. “Dẫu sao cũng cảm ơn cậu.” Anh chưa kịp nghĩ tại sao không. “Tớ có được mời đâu.”
“Không quan trọng. Thực ra đó không hẳn là một bữa tiệc. Nó diễn ra tại một xưởng vẽ. Một anh chàng họa sĩ. Chỉ là một đám bạn bè ngồi với nhau trên sàn nhà uống rượu thôi mà. Đi nào. Cậu không muốn chết gí ở đây trong ngày sinh nhật của cậu đấy chứ.” Bây giờ anh mới bắt đầu nghĩ, Tại sao không? Tại sao mình lại không đi chứ? Và bây giờ, anh gần như có thể nhìn thấy người canh gác sự bình yên được rèn luyện, có thâm niên và biết cam chịu trong anh đang giơ vũ khí lên, ngài Moses1 nghiêm khắc, không hề hoảng hốt, miễn dịch trước cơn hoảng hốt, nhất nhất cấm đoán một cách hăng hái và dữ tợn: Không. Mi sẽ không đi. Có sao để vậy. Bây giờ mi đang được bình yên; mi chớ có đòi hỏi thêm.
1 Một lãnh tụ và nhà tiên tri quan trọng trong các tôn giáo.
“Vả lại mình chẳng có bộ đồ nào để mặc cả.”
“Không cần đâu. Chủ tiệc có thể sẽ mặc áo choàng tắm ấy chứ. Cậu có một bộ com lê đen, đúng không?”
“Nhưng mình không...”
“Thôi nào”, Flint nói. “De Montigny có một bộ vest đấy. Cậu ấy mặc cùng cỡ với cậu. Tớ sẽ lấy bộ đó cho cậu.” Cậu ta đi đến tủ treo áo dùng chung của cả phòng.
“Nhưng mình không...”, Wilbourne đáp.
“Thôi nào”, Flint nói. Cậu ta đặt chiếc áo thứ hai lên giường sau đó tháo thắt lưng và bắt đầu cởi quần. “Tớ sẽ mặc bộ của Montigny còn cậu sẽ mặc bộ của tớ. Ba đứa chúng mình mặc cùng cỡ mà.”
Một giờ sau, trong bộ đồ đi mượn mà trước đó chưa từng mặc bao giờ, anh và Flint dừng lại tại một con phố chật hẹp, mờ tối với những ban công lô xô nằm giữa quảng trường Jackson và khu Hoàng gia ở khu phố Pháp - một bức tường gạch mịn với một cây cọ bắp cải xổ lá bờm xờm, tả tơi phía trên và từ bên kia bức tường, mùi hương hoa nhài tỏa ra thơm ngát - mùi hương mà người ta dường như có thể nhìn thấy trên lớp không khí đậm đặc tù đọng vốn đã thấm đẫm mùi đường, chuối và gai dầu từ bến cảng, tựa một làn sương hoặc thậm chí như một lớp sơn. Một cánh cổng gỗ được lắp hơi lệch hiện ra, bên cạnh là sợi dây kéo chuông - vật tạo ra chuỗi âm thanh chói tai, lảnh lót và xa xăm dưới bàn tay của Flint. Họ nghe thấy tiếng đàn dương cầm trong nhà đang ngân lên một bản nhạc của Gershwin.
“Thấy chưa”, Flint nói. “Cậu không cần phải ngại gì về bữa tiệc này đâu. Cậu đã ngửi thấy mùi rượu Gin nhà nấu rồi đấy. Gershwin có lẽ cũng tự vẽ tranh để ngắm. Tôi dám đánh cược rằng Gershwin có thể vẽ thứ mà Crowe gọi là tranh giỏi hơn Crowe chơi cái mà Gershwin gọi là âm nhạc.”
Flint lại tiếp tục giật chuông nhưng chẳng thấy ai trả lời. “Dù sao cổng cũng không khóa”, Wilbourne nói. Đúng vậy, và họ bước vào một mảnh sân được lát những viên gạch mỏng đã bắt đầu xuống cấp. Ở đây có một bể nước tù đọng, một bức tượng bằng đất nung, một đám cây xuyến chi tốt um, một cây cọ, một khóm nhài rậm lá nở đầy hoa trắng muốt được ánh đèn điện qua ô cửa kiểu Pháp mở rộng rọi sáng, một ban công nhô ra ở ba mặt của ngôi nhà, những bức tường được xây bằng cùng một loại gạch nung như Wilbourne đã thấy ở sân nâng đỡ một dãy lan can đã gãy đôi chỗ chẳng ăn nhập gì với ánh sáng thành phố trên nền trời u ám; trên tất cả là sự tinh vi giả tạo, âm thanh vang giòn, nghịch tai và mỏng manh của đàn dương cầm, tựa như các biểu tượng mà những đứa con trai mới lớn vẽ nguệch ngoạc lên một ngôi mộ cổ đổ nát đã bị đào bới.
Họ đi qua sân, tiến về phía những ô cửa sổ kiểu Pháp và nơi tiếng dương cầm cũng những giọng nói vọng ra. Đó là một căn phòng dài, sàn phòng không được phẳng cho lắm và những bức tường giăng kín các bức vẽ không được đóng khung; ngay lập tức, Wilbourne bị ảnh hưởng của sự rối rắm và trìu tượng mà chúng tạo ra tác động, tựa hồ cảm giác khi ta bất ngờ nhìn thấy một bức tranh quảng cáo cỡ lớn của rạp xiếc ở một khoảng cách rất gần mà từ đó thị giác, con ngươi của ta, dường như bắt đầu co lại một cách dữ dội trong cơn choáng váng. Căn phòng không có bất cứ đồ đạc gì ngoài chiếc đàn dương cầm mà một người đàn ông mặc áo choàng tắm, đội mũ Ba-xcơ đang chơi. Có khoảng hơn chục người khác đang ngồi hoặc đứng trên sàn với ly rượu trên tay; một người phụ nữ mặc áo dài lanh không tay kêu lên: “Ôi Chúa ơi, có đám tang ở đâu vậy?” rồi bước tới, hôn Flint trong khi vẫn cầm ly rượu.
“Xin giới thiệu với các chàng trai và các cô gái, đây là bác sĩ Wilbourne”, Flint nói. “Hãy ngắm nhìn cậu ấy đi. Cậu ấy có một tập ngân phiếu trắng trong túi quần và một con dao mổ trong ống tay áo.” Chủ nhà thậm chí không quay đầu lại nhìn, mặc dù ngay sau đó có một người phụ nữ mang đến cho Wilbourne một ly rượu. Wilbourne biết đó là bà chủ của bữa tiệc, mặc dù không ai nói với anh điều này; người phụ nữ ấy đứng nói chuyện với anh, hay nói đúng hơn, đứng ở chỗ anh một lát, bởi vì anh không nghe thấy cô ta nói, chỉ nhìn đăm đăm những bức tranh trên tường; sau đó anh vẫn cầm ly rượu trong lúc đứng một mình trước bức tường. Trước đấy, anh đã từng ngắm những bức tranh và bản sao của chúng trên các tạp chí song không hề thấy tò mò, bởi vì ngắm thì ngắm đấy nhưng anh không có chút tin cậy nào dành cho chúng, hệt như một kẻ quê mùa nhìn vào bức tranh vẽ một con khủng long vậy. Nhưng giờ đây, kẻ quê mùa đó đang nhìn một con quái vật và quả thật Wilbourne đang đứng trước các bức vẽ với sự tập trung tuyệt đối. Không phải anh say sưa ngắm đối tượng được vẽ, không phải vì cách vẽ hay màu sắc đã thu hút anh; những điều đó chẳng có ý nghĩa gì với anh hết. Không hề giận dữ hay ghen tị, anh đứng ngắm những bức tranh ấy với thái độ sửng sốt trước điều kiện có thể mang đến cho một người đàn ông sự nhàn rỗi không thể phủ nhận và tiền bạc để dành thời gian vào việc vẽ những bức tranh như vậy, vào các buổi tối chơi dương cầm, cung cấp rượu cho những người mà anh ta không thèm để ý tới và (ít nhất trong một dịp) cả những người mà ngay đến tên của họ anh ta cũng chẳng cần biết. Anh đang đứng như thế thì một người nào đó từ phía sau lên tiếng “Rat và Charley đây”; và anh vẫn đứng im khi Charlotte nói qua vai.
“Anh nghĩ gì về bức vẽ đó?” Anh quay đầu lại thì thấy một phụ nữ trẻ, thấp hơn anh nhiều; thoạt đầu anh nghĩ cô hơi béo cho tới khi nhận ra không phải thế; cô có thân hình phát triển tự nhiên với khung xương rộng như khung xương của những con ngựa cái Ả Rập - một người phụ nữ dưới hai mươi lăm tuổi, mặc bộ váy hoa bằng vải cotton không được xinh xắn lắm, để mặt mộc ngoại trừ cặp môi dày được tô son và một vết sẹo mờ dài khoảng hơn hai phân ở một bên má mà anh nhận ra là một vết bỏng lâu năm, chắc chắn có từ khi cô còn bé. “Anh vẫn chưa quyết định được, đúng không?”
“Không”, anh nói. “Tôi không biết.”
“Anh không biết mình đang nghĩ gì, hay không biết mình có đang cố xác định xem bản thân có đang nghĩ gì hay không?”
“Vâng. Có lẽ vậy. Cô nghĩ gì về bức tranh này?”
“Thục quỳ và cải ngựa”, cô nói ngay. “Tôi cũng vẽ tranh mà”, cô nói thêm. “Tôi có thể nói vậy. Tôi cũng có thể nói mình vẽ được những bức trên tài bức đó. Anh tên là gì nhỉ? Anh mặc đồ như thế này để làm gì, chỉ để đi nắm tình hình ở khu ổ chuột thôi sao? Để tất cả chúng tôi biết anh đang đi thăm khu ổ chuột à?”
Wilbourne nói cho cô nghe sự tình và cô nhìn anh; anh nhận thấy đôi mắt không mang màu hổ phách như anh nghĩ mà có màu vàng giống như mắt mèo của cô đang quan sát mình bằng cái nhìn điềm tĩnh đầy suy đoán giống như cái nhìn của một người đàn ông, một cái nhìn chăm chú vượt trên cả sự bạo dạn đơn thuần. “Tôi mượn bộ com lê này của bạn. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi vận kiểu y phục này.” Rồi sau đó anh không định nói tiếp, thậm chí không ý thức được rằng mình sẽ nói, nhưng anh vẫn nói bởi vì dường như cả ý muốn và ý chí của anh đều đắm chìm trong cái nhìn của đôi mắt màu vàng đó: “Hôm nay là sinh nhật của tôi. Hôm nay tôi tròn hai mươi bảy tuổi”.
“Ồ”, cô thốt lên. Cô quay người lại, nắm cổ tay anh, một cái nắm tay kiên quyết và cứng rắn, kéo anh đi theo mình. “Đi nào.” Anh đi theo cô đầy ngượng nghịu, cố gắng không dẫm lên gót chân cô, sau đó cô buông tay anh ra và bước lên trước, đi sang phía bên kia căn phòng - nơi có ba người đàn ông và hai người phụ nữ đang ngồi quanh một chiếc bàn bày đầy những chai rượu và những chiếc ly. Cô dừng bước, lại nắm cổ tay anh và kéo anh về phía một người đàn ông chạc tuổi anh đang mặc bộ com lê cài khuy chéo sẫm màu, có mái tóc vàng gợn sóng hơi mỏng và khuôn mặt không quá đẹp, khá điềm tĩnh, toát lên sự khôn ngoan hơn là vẻ thông minh, nhìn tổng thể thì anh ta có vẻ đàng hoàng, thuộc kiểu người lịch thiệp và thành đạt. “Đây là Rat1”, người phụ nữ giới thiệu. “Anh ấy là cựu sinh viên năm thứ nhất của Đại học Alabama. Đó là lý do tại sao chúng tôi vẫn gọi anh ấy là Rat. Anh cũng có thể gọi anh ấy là Rat.”
1 Tiếng lóng dùng để chỉ sinh viên, đặc biệt là sinh viên năm thứ nhất.
Tiếp đó - sau nửa đêm và sau khi Flint cùng người phụ nữ lúc trước hôn anh ta biến mất - họ ngồi trong sân bên khóm hoa nhài. “Tôi có hai con, đều là gái”, cô nói. “Buồn cười thật đấy, bởi nhà tôi toàn con trai, mỗi mình tôi là gái. Tôi thích anh cả của tôi nhất, nhưng bạn không thể ngủ với anh trai của mình được; lúc còn đi học, anh tôi và Rat ở chung phòng ký túc xá vì vậy, tôi kết hôn với Rat, và bây giờ tôi có hai con gái; hồi bảy tuổi, tôi bị ngã vào lò sưởi trong lúc hai anh em tôi đánh nhau, vì thế tôi có cái sẹo này. Vai, sườn, mông tôi cũng có sẹo và tôi có thói quen kể với mọi người về những cái sẹo đó trước khi họ mở miệng hỏi; bây giờ tôi vẫn giữ thói quen ấy ngay cả khi chuyện đó không còn quan trọng nữa.”
“Với ai cô cũng kể điều này à? Với người nào mới gặp lần đầu cô cũng thế à?”
“Về anh trai của tôi hay về cái sẹo?” “Cả hai. Có lẽ về vết sẹo.”
“Không. Buồn cười thật. Tôi đã quên rồi. Lâu lắm tôi không kể với ai về cơ thể mình. Đã năm năm rồi.”
“Nhưng cô đã kể với tôi đấy thôi.”
“Đúng vậy. Buồn cười lần thứ hai. Không, lần thứ ba rồi. Nghe này. Tôi đã nói dối anh đấy. Thực ra tôi không vẽ tranh đâu. Tôi làm việc với đất sét, thỉnh thoảng sử dụng chất liệu đồng, có khi dùng một mẩu đá, đục và vồ. Sờ tay tôi mà xem này.” Cô cầm tay anh, miết các đầu ngón tay anh dọc lòng bàn tay mình - bàn tay có các ngón mềm mại, khỏe, ngắn, với móng tay được cắt sát da như thể bị cắn, da ở lòng bàn tay và khớp ngón tay không hẳn chai mà nhẵn và rắn như da gót chân. “Tôi làm ra thứ đó: Một thứ mà anh có thể chạm vào, cầm lên, một thứ có trọng lượng trong tay anh mà anh có thể nhìn vào mặt sau của nó, một thứ gì đó chiếm chỗ của không khí, của nước và khi làm rơi nó thì chân anh bị gãy chứ nó không vỡ. Đó không phải là việc dùng một con dao hay một cái bút lông chọc vào một mảnh vải như kiểu anh đang cố chơi trò ghép hình. Đấy là lý do tại sao tôi lại nói rằng mình có thể vẽ trên tài anh ta”, cô nói. Cô không nhúc nhích, thậm chí không hất đầu để ám chỉ căn phòng phía sau họ. “Không chỉ là thứ gì đó kích thích chồi vị giác của anh trong một giây để rồi trôi xuống, bị thải vào đường cống cũ kỹ, thứ mà chẳng có lý do gì để lưu lại. Mai tôi mời anh đến ăn tối nhé?”
“Tôi không thể. Đêm mai tôi phải trực.”
“Vậy tối ngày kia được không? Mấy giờ nào?” “Chẳng phải cô có hẹn với một vài người rồi sao?”
“Có vài người sẽ đến vào tối ngày kia. Nhưng họ sẽ không làm phiền anh đâu.” Cô nhìn anh. “Thôi được, nếu anh không muốn gặp gỡ nhiều người, tôi sẽ hủy hẹn với họ. Tối ngày kia được không? Bảy giờ nhé? Anh có muốn tôi đến bệnh viện đón anh bằng xe hơi không?”
“Không. Đừng làm như vậy.” “Tôi có thể, anh biết mà.”
“Tôi biết”, anh nói. “Tôi biết. Nghe này...”
“Vào trong đi”, cô nói. “Tôi sắp về rồi. Đừng mặc thứ này. Hãy mặc đồ của anh. Tôi muốn thấy anh mặc đồ của anh.”
Hai hôm sau, anh đến ăn tối. Anh nhận ra nơi mình tìm tới là một căn hộ tiện dụng nhưng đơn sơ nằm trong khu dân cư không thể chê vào đâu được gần công viên Audubon, có một cô giúp việc da đen, hai đứa trẻ khoảng hai và bốn tuổi thực sự không đáng chú ý lắm, đều có mái tóc giống cô nhưng có những điểm khác giống bố chúng (người đàn ông mặc một bộ com lê cài khuy chéo màu đen, không phải bộ đồ mà Wilbourne thấy lần trước, đang pha một ly cocktail, một người không thật sự nổi bật và cứ khăng khăng rằng Wilbourne nên gọi mình là Rat), còn cô vận một bộ đồ vừa có thể mặc trong những bữa tiệc thân mật vừa có thể dùng cho các sự kiện trang trọng; bộ trang phục ấy đơn giản (không trau chuốt, cầu kỳ) giống lần đầu tiên anh gặp cô. Sau bữa ăn có chất lượng khá hơn những ly cocktail, cô đi ra ngoài cùng đứa con lớn đã cùng ngồi ăn tối với họ, nhưng một lúc sau, cô quay trở vào và nằm dài trên sô pha hút thuốc trong khi Rittenmeyer tiếp tục hỏi Wilbourne những câu về nghề nghiệp như thể anh ta là chủ tịch Hội sinh viên trường Y. Mười giờ, Wilbourne nói anh phải về. “Không”, cô nói, “đừng về vội”. Vậy nên anh nán lại; mười rưỡi, Rittenmeyer bảo rằng hôm sau anh ta phải làm việc nên cần đi ngủ, rồi để cô và Wilbourne lại với nhau. Khi chỉ còn hai người, cô liền dụi điếu thuốc rồi đứng dậy và bước tới chỗ anh bên cạnh lò sưởi nguội lạnh, dừng lại và nhìn thẳng vào mắt anh. “Phải làm gì... Mọi người gọi anh là Harry đúng không? Phải làm gì đây, Harry?”
“Tôi không biết. Tôi chưa yêu bao giờ.”
“Em yêu rồi. Nhưng em cũng chẳng biết nữa. Anh có muốn em gọi taxi cho anh không?”
“Không.” Anh quay gót và cô tiễn anh ra cửa phòng. “Tôi sẽ đi bộ thôi.”
“Anh nghèo đến thế sao? Hãy để em trả tiền taxi cho anh. Anh không thể đi bộ về bệnh viện được. Ba dặm đường chứ có ít đâu.”
“Không xa lắm đâu.”
“Không phải tiền của anh ta đâu mà ngại. Em có tiền riêng. Em đã tiết kiệm được một ít tiền để dùng vào việc mà em chẳng biết là gì.” Cô đưa mũ cho anh và đứng đó, tay đặt trên nắm cửa.
“Ba dặm không xa đâu. Tôi đi bộ được mà...”
“Ừ”, cô nói. Cô mở cửa và họ nhìn nhau. Rồi cánh cửa được sơn màu trắng khép lại giữa họ. Họ không bắt tay tạm biệt nhau.
Trong sáu tuần tiếp theo, họ gặp nhau thêm năm lần nữa. Họ đi ăn trưa với nhau ở trung tâm thành phố, vì anh không tới nhà của chồng cô nữa và định mệnh hoặc may mắn (hay cũng có thể là vận rủi, bởi nếu không phải là vận rủi thì anh có thể đã phát hiện ra rằng cũng giống như ánh mặt trời, tình yêu chỉ tồn tại ở một điểm, trong một khoảng thời gian nhất định, ở một bộ phận của sự hiện sinh trên trái đất này) không mang đến cho anh thêm một lời mời dự tiệc theo kiểu “bắc cầu” nào. Họ gặp nhau ở chỗ này, chỗ kia của khu phố Pháp, nơi họ có thể ăn trưa bằng số tiền hai đô la mà trước đó anh dành để gửi trả nợ cho chị gái. Vào buổi hẹn hò thứ ba của hai người, cô đột nhiên nói: “Em đã nói cho Rat biết rồi”.
“Em đã nói cho anh ta biết rồi ư?”
“Về những bữa ăn trưa. Em đã nói cho anh ấy biết em đang hẹn hò với anh.” Sau đó cô không bao giờ nhắc đến chồng mình nữa. Trong lần hẹn hò thứ năm, họ không ăn trưa. Họ tới một khách sạn như đã định. Anh phát hiện ra rằng mình chẳng biết phải làm chuyện ấy như thế nào cho đúng cách, chỉ biết phỏng đoán và tưởng tượng mà thôi; bởi vì hoàn toàn mù tịt về nó nên anh tin rằng chắc chắn phải có một bí quyết nào đó để thành công, không phải cách thức bí mật để làm theo mà đúng hơn là một phép thuật vô hại: Một từ hay động tác bình thường hoặc rất tinh vi của bàn tay như khi mở một ngăn kéo tủ hay kéo một tấm ván. Đã có lần anh nghĩ tới việc hỏi cô phải bắt đầu chuyện ấy như thế nào vì anh chắc chắn cô biết, cũng như biết chắc chắn rằng cô muốn làm gì là làm bằng được, không chỉ bởi sự phối hợp hoàn hảo của cô mà còn bởi chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, anh đã khám phá ra khả năng trời phú và bất bại của phụ nữ trong chuyện yêu đương thực tế. Nhưng anh không hỏi cô vì tự nhủ rằng khi cô nói cho anh biết phải làm gì (chắc chắn cô sẽ nói) và sẽ nói chính xác, thì anh có thể sẽ tin rằng cô từng làm chuyện ấy rồi, và rằng cho dù cô đã làm rồi, anh cũng không muốn biết điều đó. Vậy nên anh hỏi Flint.
“Chúa ơi”, Flint kêu lên. “Cậu đang hẹn hò ư? Tớ thậm chí không biết cậu đã quen một cô gái.” Wilbourne gần như có thể nhận thấy Flint đang nghĩ rất nhanh, và gần như giật bắn người. “Là cái bữa tiệc ồn ào tại nhà Crowe tối hôm đó phải không? Nhưng thôi, đó là việc của cậu, đúng không nào? Chuyện đó dễ ợt. Hãy mang một chiếc túi chứa vài viên gạch được bọc trong khăn tắm để chúng không phát ra tiếng lạch cạch và bước vào khách sạn. Tất nhiên, tớ sẽ không chọn khách sạn Saint Charles hay Roosevelt đâu. Hãy chọn một khách sạn nhỏ hơn, nhưng đừng quá nhỏ. Có lẽ một khách sạn ở phía nhà ga ấy. Hãy bọc những viên gạch riêng ra nhé, như thế này này, bọc chúng lại. Và nhớ mang áo khoác ngoài theo nhé. Áo đi mưa ấy.”
“Ừ. Cậu có nghĩ rằng tớ nên bảo cô ấy cũng mang áo khoác theo không?”
Flint bật cười thành tiếng, tiếng cười cụt ngủn, không vang to. “Tớ nghĩ là không. Tớ cho rằng cô ả chẳng cần bất cứ sự huấn luyện nào từ cậu hoặc từ tớ... Này”, anh ta nói nhanh, “khoan đã, để tớ nói nốt đã. Tớ không biết cô ta. Tớ không nói gì về cô ta đâu nhé. Tớ chỉ nói về đàn bà thôi. Cô ta có thể cũng sẽ đến đó với túi và áo khoác của chính mình với một tấm mạng che mặt cùng mẩu vé tàu Pullman thò ra từ túi xách tay, như thế không có nghĩa rằng cô ta từng làm chuyện ấy rồi đâu. Phụ nữ là thế. Trong chuyện này, không có bất cứ lời khuyên nào mà Don Juan hay Solomon có thể đưa ra cho cô gái mười bốn tuổi trẻ nhất, non dạ nhất từng được sinh ra trên đời này đâu.”
“Không vấn đề gì”, anh nói. “Có lẽ cô ấy sẽ chẳng đến đâu.” Anh nhận thấy rằng mình thực sự tin điều bản thân vừa nói. Thậm chí khi chiếc taxi dừng lại bên lề đường nơi anh đang đứng đợi cùng với cái túi xách, anh vẫn tin cô có lẽ sẽ không tới. Cô có mang áo khoác, nhưng chẳng mang theo túi cũng chẳng che mạng. Khi anh mở cửa taxi, cô lập tức bước khỏi xe, mặt cô toát lên vẻ cứng cỏi, tỉnh táo, ánh mắt ngời lên màu vàng lạ lùng, giọng khàn khàn: “Thế nào? Đi đâu đây?”
Anh nói cho cô biết địa điểm. “Không xa đâu. Chúng ta có thể...” Cô quay gót, chực bước trở vào trong xe. “Chúng ta có thể đi bộ...”
“Anh là kẻ khốn khổ chết tiệt”, cô nói. “Lên xe đi. Khẩn trương lên.” Anh lên xe. Xe chuyển bánh. Khách sạn cách chỗ đó không xa. Một người khuân vác da đen làm nhiệm vụ xách túi cho anh. Sau đó, dường như Wilbourne cảm thấy đời mình chưa bao giờ và sẽ không bao giờ nhận thức rõ ràng về cô như lúc này khi cô đứng giữa tiền sảnh u ám của khách sạn tán chuyện với những kẻ không quen biết trong lúc anh dùng hai cái tên giả để đăng ký phòng và đưa cho nhân viên tiếp tân sáu đô la, những đồng tiền mà đáng lẽ anh phải gửi cho chị gái, và cô đợi anh, không hề cố giấu mình, cũng chẳng cố im lặng hoặc kìm nén theo cái kiểu bi thảm mà anh biết (anh nhanh chóng hiểu ra) là không chỉ riêng cô mới có, mà đó là một thuộc tính của mọi phụ nữ ở hoàn cảnh này, một thuộc tính khiến họ có vẻ đứng đắn, gần như đoan trang khi che đậy sự nghiêng ngả cuối cùng cũng như thái độ đầu hàng chung cuộc phảng phất tính khôi hài. Anh theo cô đi dọc hành lang tới một căn phòng mà người khuân vác đã mở sẵn cửa, tống tiễn người khuân vác rồi đóng cửa vào, nhìn cô đi tới ô cửa sổ duy nhất, cũ kỹ và bụi bặm, vẫn chưa bỏ mũ và cởi áo khoác trong lúc quay đầu lại mà không dừng bước, giống như một đứa trẻ đang chơi trò bắt tù binh rồi bước trở lại chỗ anh, đôi mắt màu vàng, toàn bộ khuôn mặt mà anh đã quyết định gọi là đẹp, toát lên vẻ cứng rắn và kiên định. “Ôi, Lạy Chúa, Harry”, cô nói. Cô đấm ngực anh thùm thụp bằng hai nắm tay siết chặt. “Không phải như thế này. Chúa ơi, không phải như thế này.”
“Được rồi”, anh nói. “Bình tĩnh nào.” Anh nắm lấy hai cổ tay cô trong khi hai bàn tay cô vẫn siết thành nắm đấm hướng vào ngực anh và cô vẫn cố giật tay ra để tiếp tục đấm anh. Được rồi, anh nghĩ. Không phải như thế này và không bao giờ như thế này. “Bình tĩnh nào.”
“Không phải như thế này, Harry. Không phải như thế này. Em đã nói rồi mà: Với em chuyện gì xảy ra và em làm gì không quan trọng, nhưng không phải lén lút và vụng trộm như thế này. Nếu chỉ là nhục dục để thỏa mãn ham muốn xác thịt với một người đàn ông, thì em cứ nhắm mắt làm thôi, chẳng bao giờ nhìn lên cao hơn cổ áo của người đàn ông và nghĩ ngợi gì hết. Nhưng chuyện của chúng ta không phải như vậy Harry ạ. Không phải anh. Không phải anh.”
“Bình tĩnh nào”, anh nói. “Không sao đâu.” Anh dẫn cô tới giường và đứng nhìn cô trong khi vẫn nắm cổ tay cô.
“Em đã kể với anh rằng em muốn làm chuyện đó như thế nào, lấy một ít đồng sạch, cứng và tốt hoặc một mảnh đá rồi cắt nó ra, dù nó rắn như thế nào, dù mất bao nhiêu thời gian, biến nó thành thứ gì đó đẹp đẽ mà em có thể hãnh diện khoe với người khác - thứ mà anh có thể chạm vào, cầm lấy, ngắm nghía nó từ mặt sau và cảm nhận sức nặng, độ rắn của nó - và khi anh đánh rơi, vật đó sẽ không bị vỡ nhưng bàn chân bị nó rơi vào sẽ gãy vì độ rắn, trái tim sẽ vỡ chứ không phải bàn chân, nếu như em có trái tim. Nhưng lạy Chúa, Harry, em làm chuyện đó cho anh như thế này này.” Cô xòe bàn tay ra, và trước khi cô chạm vào anh, anh hiểu rằng cô sẽ vặn gãy hông anh.
“Anh không sao đâu”, anh nói. “Em không phải lo lắng về anh đâu. Em có muốn hút một điếu thuốc không?”
“Cho em xin một điếu.” Anh đưa cho cô một điếu thuốc và châm lửa giúp cô, nhìn theo góc nghiêng xuống mũi và cằm cô trong khi cô hút thuốc. Anh ném que diêm đi. “Hừm”, cô nói. “Thế đấy. Sẽ không có chuyện ly dị đâu.”
“Không ly dị ư?” “Rat theo đạo Thiên Chúa. Anh ta sẽ không chịu ly dị đâu.” “Em nói như vậy có nghĩa là anh ta...”
“Em đã nói cho anh ta biết chuyện của chúng mình rồi. Em không nói rằng em sẽ gặp anh ở một khách sạn. Em chỉ nói, giả sử em làm như vậy, thì chuyện gì sẽ xảy ra. Anh ta vẫn nói không thể ly dị được.”
“Em không thể ly dị ư?”
“Lấy cớ gì để ly dị chứ? Anh ta sẽ đấu tranh. Thẩm phán là người theo đạo Thiên Chúa. Và còn có vấn đề khác nữa. Có lẽ em không thể làm thế được.”
“Ừ”, anh nói. “Còn các con của em nữa.”
Cô vừa hút thuốc vừa nhìn anh. “Không phải em đang nghĩ về các con của em. Ý em là em đã nghĩ về bọn trẻ rồi. Vậy nên bây giờ, em không cần nghĩ về chúng nữa bởi em biết câu trả lời cho vấn đề đó, biết mình không thể thay đổi câu trả lời và không nghĩ mình có thể thay đổi bản thân vì lần thứ hai nhìn thấy anh, em đã biết những gì mình đọc được trong sách nhưng chưa bao giờ thực sự tin: Rằng tình yêu và đau khổ là một và giá trị của tình yêu là tổng cộng của tất cả những gì anh phải trả giá cho nó; bất cứ khi nào có được nó với giá rẻ nghĩa là khi ấy anh đã tự lừa dối bản thân. Vậy nên em đã quyết định không cần phải nghĩ về bọn trẻ từ lâu rồi. Em chỉ nghĩ về tiền thôi. Giáng Sinh nào anh trai em cũng gửi cho em hai mươi lăm đô la và em đã tiết kiệm khoản tiền đó trong năm năm qua. Tối hôm trước em nói với anh rằng em không biết tại sao mình lại dành dụm khoản tiền đó. Có lẽ em đã để dành cho chuyện này và chắc hẳn đây là điều đáng buồn cười nhất: Em đã tiết kiệm tiền trong ngần ấy năm và toàn bộ khoản tiền tiết kiệm được chỉ vỏn vẹn một trăm hai mươi lăm đô la, gần như không đủ cho hai chúng ta đi Chicago. Còn anh thì chẳng có gì hết.” Cô nghiêng người về phía chiếc bàn ở đầu giường, dụi điếu thuốc một cách chậm rãi và cực kỳ cẩn thận, rồi ngồi thẳng người lên. “Hết rồi. Chỉ có vậy thôi.”
“Không”, anh nói. “Không! Không đời nào.”
“Anh muốn cứ tiếp tục như thế này sao? Cứ hẹn hò với em và giữ cho em trong trắng ngây thơ như một quả táo ở trên cành ư?” Cô nhấc chiếc áo đi mưa của anh khỏi ghế và vắt nó lên cánh tay mình, đứng đó đợi.
“Em không muốn đi trước sao?”, anh nói. “Anh sẽ đợi khoảng ba mươi phút, sau đó sẽ...”
“Và mặc anh đi bộ một mình với cái túi qua cái sảnh đó để nhân viên lễ tân và gã khuân vác cười thầm bởi bọn họ đã nhìn thấy em ra khỏi khách sạn trước khi em có thời gian cởi và mặc lại đồ ư?” Cô đi ra và đặt tay lên nắm cửa. Anh nhấc túi xách của mình lên, bước theo cô. Nhưng cô không mở cửa ngay. “Nghe này. Hãy nói với em lần nữa rằng anh không có tiền. Nói đi. Nói đi để em có thể nghe lọt tai một lý do thích hợp cho dù em không thể hiểu nổi. Một lý do thuyết phục mà em có thể chấp nhận để lý giải vì sao chúng ta không thể vượt qua dẫu em chẳng thể tin và hiểu được rằng đó chỉ là vấn đề tiền bạc cùng trở ngại về tiền bạc mà thôi. Nào. Nói đi.”
“Anh không có tiền.”
“Được rồi. Lý do thích hợp đấy. Chắc chắn rồi. Đó sẽ là lý do thích hợp.” Cô bắt đầu run rẩy như một người đang trong cơn giận, xương khớp của cô dường như cũng rung theo. “Đó sẽ...”
“Charlotte”, anh nói. Anh đặt chiếc túi xuống và bước về phía cô. “Charlotte...”
“Đừng động vào em!”, cô khẽ nói trong cơn giận dữ đầy căng thẳng. “Đừng động vào em!” Tuy vậy trong khoảnh khắc đó, anh tin rằng cô chực bước về phía mình; cô dường như hơi ngả người về phía trước, ngoái nhìn về phía chiếc giường với vẻ day dứt và thất vọng. Rồi ổ khóa kêu tách một cái, cánh cửa bật mở và cô bước ra khỏi phòng.
Họ chia tay ngay khi anh kiếm được một chiếc taxi cho cô. Anh định bước lên xe theo cô để vào trung tâm thành phố tới bãi đỗ có chiếc xe hơi của cô. Đây là lần đầu tiên trong số hai lần trong đời anh thấy cô khóc. Cô ngồi đó, khuôn mặt toát lên vẻ khổ sở như thể đang bị vò xé, đầy tức giận với những giọt lệ tựa những giọt mồ hôi. “Ôi, kẻ khốn khổ, kẻ khốn khổ, đồ xuẩn ngốc. Lại là vấn đề về tiền. Anh đã trả cho cái khách sạn đó hai đô la, số tiền mà đáng lẽ anh nên gửi cho chị gái anh, mà chẳng nhận được gì, và bây giờ anh muốn dùng những đồng tiền mà anh định trả cho tiệm giặt để thanh toán tiền taxi mà chẳng nhận được gì ngoài quyền chở cái mông chết tiệt đã từ chối anh vào phút cuối, và sẽ luôn chối từ...” Cô nghiêng người về phía lái xe. “Đi thôi!”, cô nói bằng giọng cáu kỉnh. “Đi! Vào trung tâm!”
Xe phóng nhanh; anh biết nó biến mất gần như ngay tức khắc, mặc dù anh không nhìn theo. Một lát sau, anh nói thành tiếng một mình: “Mình mang theo những viên gạch hóa ra chẳng được tích sự gì”. Vậy là anh đi bộ đến một thùng rác trên vỉa hè và, trong khi những người đi đường liếc nhìn anh bằng ánh mắt tò mò hoặc không gợn chút tò mò nào, anh mở túi ra, gỡ những viên gạch khỏi chiếc khăn tắm rồi bỏ chúng vào thùng rác. Thùng rác chứa cả đống những tờ báo bị bỏ đi, vỏ trái cây cùng cả mớ rác thải không tên của những người đi qua nó trong mười hai tiếng đồng hồ. Những viên gạch được ném vào thùng rác mà không gây ra tiếng động nào; và rồi chẳng có tiếng vo ve hay tiếng kêu vù vù báo trước, mép của những tờ báo chỉ nghiêng đi đôi chút làm lộ ra một chiếc ví da. Trong chiếc ví đó có cuống của năm tấm vé quay số dự thưởng tại công viên Washington, một thẻ nhận dạng khách hàng của quỹ Thác tín Xăng dầu Quốc gia, một tấm thẻ khác của tổ chức xã hội B.P.O.E ở Longview, Taxas, và một nghìn hai trăm bảy mươi tám đô la tiền mặt.
Chỉ sau khi đến bệnh viện, anh mới biết chính xác số tiền trong ví, thoạt đầu, trong lúc rảo bước về phía chi nhánh bưu điện anh chỉ nghĩ, Mình sẽ không nhận dù chỉ một đô la tiền biếu, sau đó (bưu điện không chỉ ở cách đó sáu dãy phố, mà còn ngược với đường anh đến bệnh viện) anh nghĩ, Mình thậm chí sẽ không dùng tiền trong ví để đi taxi và chủ nhân của chiếc ví sẽ chẳng phiền lòng đâu. Không phải mình muốn cuốc bộ đâu mà muốn chuyện này kéo dài, kéo dài mãi để không còn khoảng trống nào từ bây giờ đến sáu giờ tối khi có thể trốn trong chiếc áo choàng trắng, để bản thân bận ngập đầu với công việc nhàm chán hàng ngày như những gã da đen kéo chăn lên tận mặt khi đi ngủ. Thế rồi anh đứng trước những cánh cửa khóa kỹ vào chiều thứ Bảy của chi nhánh bưu điện và khi nhét chiếc ví vào túi quần rồi cài cúc, anh nghĩ làm sao mình lại không nhớ hôm nay là thứ mấy nhỉ và tiếp tục xách chiếc túi nhẹ tênh đi bộ qua mười hai dãy phố, nghĩ bụng, Thôi thì cũng được việc; dù sao mình cũng tránh được ít nhất bốn mươi lăm phút nhàm chán, nếu không mình cũng chẳng biết phải làm gì để giết thời gian.
Phòng tập thể vắng tanh. Anh cất túi xách, tìm thấy một chiếc hộp dẹt bằng bìa các tông có in hình những nhành cây holly đựng một chiếc khăn tay mà chị gái gửi cho anh vào dịp Giáng Sinh năm trước; anh lấy kéo và hồ dán sửa nó thành một cái hộp để đựng chiếc ví, chép tên và địa chỉ từ những tấm thẻ trong ví lên đó rồi nhét chiếc hộp xuống dưới đám quần áo của mình trong ngăn kéo; như thế coi như xong việc. Mình có thể đọc sách, anh nghĩ. Sau đó anh chửi thề, và nghĩ, Thế đấy. Tất cả đều đảo ngược. Sách và người trong sách lại tạo ra chúng ta và đọc về chúng ta cơ đấy, chứ không phải chúng ta tạo ra những nhân vật trong sách và đọc về họ - Những Doe, Roe và Wilbourne, Smith - những người đàn ông và những người đàn bà không có bộ phận sinh dục.
Sáu giờ, anh đi trực. Bảy giờ, anh tạm rảnh để đi ăn tối. Anh đang ăn thì một cô y tá thực tập ngó vào phòng, nói rằng có người muốn gặp anh qua điện thoại. Chắc chắn phải là người ở xa, anh nghĩ. Có thể là chị gái anh, đã năm tuần rồi anh chưa viết thư về, kể từ khi gửi khoản tiền hai đô la cuối cùng cho chị, và bây giờ chắc hẳn chị gọi điện cho anh, chị sẽ tiêu hai đô la, không phải để trách mắng anh mà để hỏi thăm xem anh có khỏe không (Nàng nói đúng, anh nghĩ, không phải anh đang nói về chị của mình. Thật buồn cười. Còn hơn cả hài kịch. Buồn cười thật. Mình đã làm người mình yêu lẫn người yêu thương mình thất vọng. Vậy nên khi giọng nói ở đầu dây vang lên “Wilbourne phải không?”, anh nghĩ đó là ông anh rể cho đến khi Rittenmeyer tiếp tục: “Charlotte muốn nói chuyện với anh”.
“Harry phải không?”, cô nói. Cô nói nhanh nhưng giọng rất bình tĩnh: “Em đã nói cho Rat biết chuyện hôm nay rồi, và cả kết cục không thành. Vậy nên bây giờ đến lượt anh ấy có quyền. Anh ấy đã cho em cơ hội nhưng em lại không tận dụng nó. Vậy nên lúc này đến lượt anh ấy cũng là công bằng thôi. Thật đứng đắn, chỉ có điều ‘đứng đắn’ là từ đáng ghét buộc phải sử dụng giữa anh và em để nói với anh rằng mối quan hệ của chúng ta đã...”.
“Charlotte”, anh ngắt lời cô. “Nghe này, Charlotte...” “Tạm biệt, Harry. Chúc may mắn. Và chúc...” “Nghe này, Charlotte. Em nghe anh nói đã được không?” “Gì cơ? Chuyện gì vậy?”
“Nghe này. Buồn cười lắm. Anh đã đợi em gọi cho anh suốt cả buổi chiều, chỉ có điều bây giờ anh mới biết điều này. Bây giờ anh mới biết rằng chiều thứ Bảy anh đi bộ về phía bưu điện... Em có nghe anh nói không đấy? Charlotte?”
“Chuyện gì vậy? Sao cơ?”
“Anh có một nghìn hai trăm bảy mươi tám đô la, Charlotte ạ.”
Bốn giờ sáng hôm sau, trong phòng thí nghiệm vắng người, anh dùng lưỡi dao bào cắt chiếc ví và những chiếc thẻ thành mảnh nhỏ rồi đem đốt, bỏ tro vào bồn vệ sinh và xả nước. Trưa ngày hôm sau, với hai vé tàu đi Chicago cùng phần còn lại của số tiền một nghìn hai trăm bảy mươi tám đô la trong túi quần cài khuy và chiếc túi xách được đặt trên chiếc ghế đối diện, anh đã ngồi trên chuyến tàu chầm chậm lăn bánh vào ga ở đại lộ Carrolton và nhìn ra ngoài cửa sổ. Hai vợ chồng Charlotte đều có mặt ở đó, người chồng trong bộ com lê tối màu thường thấy với khuôn mặt của kẻ đàn anh không biểu lộ cảm xúc, tạo vẻ đứng đắn nghiêm trang và hoàn hảo cho một hành động ngược đời - trao vợ cho tình địch theo cái cách y hệt như nghi thức người cha trao dâu - một nghi thức đã thành tập tục trong các đám cưới tại nhà thờ, còn người vợ đứng bên cạnh mặc bộ váy đen và chiếc áo khoác không cài cúc, chăm chú nhìn những toa tàu chuyển động chậm chầm, tuy nhiên không phải bằng ánh mắt hoài nghi hay căng thẳng, và Wilbourne lại trầm ngâm suy nghĩ về khả năng thích nghi bẩm sinh với cơ chế sống chung như vợ chồng của phụ nữ, ngay cả với những phụ nữ ít kinh nghiệm và ngây thơ - nghĩ về sự tin tưởng đầy thanh thản vào cái số đa tình của họ như những con chim tin vào đôi cánh của mình - về niềm tin vững chắc và thầm lặng vào hạnh phúc xứng đáng sắp đến ngay tức thì nuôi dưỡng họ trở thành những con chim đủ lông đủ cánh, cho phép họ bay từ bến đậu của sự đứng đắn vào không gian chưa được chứng minh, chưa được thử nghiệm, nơi chẳng có bến đỗ nào hết (Không phải là tội lỗi đâu, anh nghĩ. Mình không tin vào tội lỗi. Cái đó nằm ngoài thời gian. Con người chúng ta sinh ra đã bị nhấn chìm trong những bước đi sát gót bởi hằng hà sa số những kẻ ẩn danh sống cùng thời, cùng thế hệ; chỉ cần đi trật hay chùn bước một lần là anh bị giẫm chết liền), không hề có nỗi kinh hoàng hay hốt hoảng và vì thế suy ra chẳng có lòng can đảm hay gan dạ ở đây: Chỉ có niềm tin tuyệt đối vào đôi cánh mỏng manh và bay bổng chưa được thử nghiệm - biểu tượng của tình yêu - đã làm họ thất bại một lần bởi vì, với sự đồng thuận và chấp nhận, họ đã ngẫm nghĩ về cái nghi lễ mình đã khước từ khi bay lên. Hai người đi lướt qua rồi biến mất, và trước khi họ khuất dạng, Wilbourne thấy người chồng cúi xuống xách chiếc túi; tiếng con tàu hãm phanh rít lên trong không khí và anh nghĩ, Anh ta sẽ lên tàu cùng nàng, cực chẳng đã anh ta mới phải làm việc đó, và mình cũng chẳng muốn (còn nàng thì sao nhỉ?), nhưng anh ta buộc phải làm thế cũng giống như cứ phải mặc bộ com lê tối màu mà mình tin rằng anh ta chẳng muốn mặc, phải hiện diện ở buổi tiệc đêm đầu tiên ấy và uống nhiều như bất cứ gã đàn ông nào có mặt tại đó mà không một lần ngồi trên sàn nhà để một cô vợ (vợ của anh ta hoặc vợ của người khác) nằm ườn trên đầu gối.
Một lát sau, Wilbourne nhìn lên và thấy hai người bọn họ đang đứng bên cạnh ghế của mình; anh liền đứng dậy và giờ đây, cả ba người họ đang chắn mất lối đi giữa của toa tàu trong khi những hành khách khác dồn lại chen qua họ hoặc đứng lại đợi họ di chuyển; Rittenmeyer đang xách túi - một việc mà bình thường sẽ không tự mình làm khi ở đó có nhân viên khuân vác của hãng Pullman cũng như sẽ không tự đứng dậy lấy cho mình một ly nước ở nhà hàng vậy; nhìn khuôn mặt không tì vết và chẳng biểu lộ chút cảm xúc của anh ta hiển hiện phía trên chiếc sơ mi và chiếc cà vạt hoàn hảo không thể chê vào đâu được, Wilbourne ngạc nhiên nghĩ, Tại sao chứ, anh ta đang đau khổ, thực sự anh ta đang đau khổ, có lẽ chẳng phải chúng ta đau khổ vì chúng ta có trái tim hoặc cơ quan cảm giác mà bởi chúng ta có khả năng đau khổ, tự huyễn hoặc, tự lừa dối mình hoặc có lẽ có khả năng tự hành hạ mình. “Đi nào”, Rittenmeyer nói. “Tránh khỏi lối đi nào.” Giọng anh ta gay gắt, bàn tay anh ta gần như thô lỗ khi đẩy Charlotte vào ghế ngồi và đặt chiếc túi xuống bên cạnh túi xách của anh. “Hãy nhớ đấy. Nếu không nhận được tin tức gì trước ngày mùng Mười hằng tháng thì tôi sẽ báo cho thám tử. Và nhớ là không được nói dối, hiểu chưa? Không được dối trá.” Anh ta quay đi, thậm chí không thèm nhìn Wilbourne mà hất đầu về phía cuối toa tàu. “Tôi muốn nói chuyện riêng với anh”, anh ta nói bằng giọng cố kìm nén cơn tức giận. “Đi nào.” Khi họ đi được nửa đường xuống cuối toa, tàu hỏa bắt đầu chuyển bánh, Wilbourne tưởng rằng anh ta sẽ chạy vội ra cửa toa, và một lần nữa nghĩ, Anh ta đang đau khổ, ngay cả trong trường hợp này, lịch tàu chạy cũng đang tạo ra một tấn hài kịch trong cái bi kịch mà anh ta buộc phải diễn cho đến đoạn kết cay đắng hoặc dừng lại để thở.
Nhưng người đàn ông kia thậm chí không vội xuống tàu. Anh ta vẫn bước đi với vẻ bình tĩnh, gạt tấm rèm dẫn vào phòng dành cho người hút thuốc sang một bên, và đợi Wilbourne bước vào. Dường như anh ta đọc được vẻ ngạc nhiên trên khuôn mặt anh. “Tôi mua vé tàu đi đến tận Hammond”, anh ta nói bằng giọng khàn khàn. “Anh khỏi cần lo cho tôi.” Có vẻ như một câu hỏi ngầm đang khiến anh ta nổi giận; Wilbourne gần như có thể thấy rằng anh ta đang đấu tranh để ghìm giọng của mình xuống. “Hãy lo cho cái thân anh đi, hiểu chưa? Lo cho cái thân anh ấy. Hoặc vì Chúa hãy...” Anh ta lại cố gắng ghìm giọng xuống, kiềm chế nó như thể ghìm cương ngựa, tuy nhiên vẫn bắt nó phải tiếp tục cất lên; anh ta rút một chiếc ví từ trong túi quần ra. “Nếu anh mà...”, anh ta nói. “Nếu anh dám...”
Anh ta không thể nói ra điều đó, Wilbourne nghĩ. Anh ta thậm chí không thể chịu đựng nổi việc nói ra điều đó. “Nếu tôi không đối xử tốt với cô ấy, không tử tế với cô ấy. Anh muốn nói như vậy phải không?”
“Nếu anh đối xử tệ với cô ấy thì tôi sẽ biết liền”, Rittenmeyer nói. “Nếu không nhận được tin tức gì của cô ấy trước ngày mùng Mười hằng tháng, tôi sẽ cho thám tử điều tra. Và đừng có hòng nói dối tôi, hiểu chưa? Hiểu chưa hả?” Người anh ta run lên, khuôn mặt hoàn hảo đầy giận dữ phía dưới mái tóc cũng hoàn hảo như tóc giả. “Cô ấy có một trăm hai mươi lăm đô la tiền riêng và không chịu cầm thêm. Nhưng khỉ thật, cô ấy không sử dụng những đồng tiền đó. Cô ấy sẽ giữ nó đến khi nào cần thiết tới mức buộc phải sử dụng. Vậy nên, đây, hãy cầm lấy.” Anh ta rút một tấm ngân phiếu từ trong ví ra rồi đưa cho Wilbourne. Đó là một tấm ngân phiếu trị giá ba trăm đô la, có thể dùng để thanh toán cho hãng đường sắt Pullman America và được xác nhận ở một góc bằng mực đỏ: Dùng để thanh toán cho một vé tàu hỏa đến New Orleans, Louisiana.
“Tôi sẽ thanh toán bằng tiền của tôi”, Wilbourne nói. “Khốn kiếp”, người kia nói. “Cái này để thanh toán vé tàu. Nếu nó được đổi để lấy tiền mặt và được chuyển về cho ngân hàng mà không có vé tàu nào được mua, tôi sẽ khiến anh bị bắt vì tội gian lận. Hiểu chưa? Đừng hòng giỡn mặt tôi.”
“Ý anh là anh muốn cô ấy quay trở về? Anh sẽ chấp nhận cô ấy nếu cô ấy quay về với anh?” Nhưng Wilbourne không cần phải nhìn thẳng vào mặt người đàn ông kia, anh nói nhanh: “Tôi xin lỗi. Tôi xin rút lại câu hỏi đó. Không người đàn ông nào có đủ sức chịu đựng để trả lời câu hỏi đó”.
“Chúa ơi”, người kia nói, “Chúa ơi. Tôi phải đấm anh mới được”. Anh ta nói thêm bằng giọng ngạc nhiên pha lẫn hoài nghi, “Mà tại sao tôi lại không đấm anh nhỉ? Anh có thể nói cho tôi biết được không hả? Chẳng riêng gì một bác sĩ mà bất cứ bác sĩ nào cũng được cho là có quyền lực đối với các tuyến cơ thể của con người hay sao?”.
Thế rồi bỗng nhiên, Wilbourne nghe thấy giọng của chính mình cất lên trong nỗi hoài nghi và ngạc nhiên thầm lặng; dường như đối với anh giờ đây, cả hai bọn họ đều đang đứng trong cùng một hàng, đều phải chịu số phận bi đát và đều thất bại trước đàn bà: “Tôi không biết. Có lẽ làm như thế sẽ khiến anh cảm thấy dễ chịu hơn”. Nhưng khoảnh khắc đó đã trôi qua. Rittenmayer quay đi, lấy một điếu thuốc từ trong túi áo khoác ra và đưa tay tìm diêm từ một chiếc hộp gắn trên tường. Wilbourne nhìn anh ta từ phía sau, muốn hỏi liệu người này có muốn anh ở đây làm bầu bạn cho tới khi tàu đến Hammond hay không. Nhưng lại một lần nữa Rittenmeyer dường như đã đọc được ý nghĩ ấy.
“Đi đi”, anh ta nói. “Hãy cút khỏi đây và để tôi yên.” Wilbourne để mặc anh ta đứng nhìn ra ngoài cửa sổ và đi về chỗ ngồi của mình. Charlotte không ngước lên mà ngồi bất động nhìn ra cửa sổ, cầm một điếu thuốc chưa được châm lửa trên tay. Lúc này, tàu đang chạy dọc theo một bờ hồ lớn, chẳng bao lâu nữa sẽ đi qua giao điểm giữa Maurepas và Pontchartrain. Tiếng rít của động cơ tàu vọng lại phía sau và con tàu chạy chầm chậm trong khi bên dưới nó vang lên âm thanh dội lại của trụ cầu. Cả hai phía đều là nước, một vùng nước mênh mông có những cầu tàu gỗ đang xuống cấp bao quanh - nơi những con thuyền xám xịt neo đậu. “Em thích nước”, cô nói. “Đó sẽ là nơi để chết. Không phải là chết trong không trung oi bức, trên mặt đất nóng hầm hập, rồi phải đợi nhiều giờ máu mới đủ lạnh để khiến ta chìm vào giấc ngủ và thậm chí phải mất nhiều tuần để tóc ta ngừng phát triển. Nước mát làm ta lạnh thật nhanh để ta có thể ngủ, rửa sạch não, tẩy hết những gì ta từng nhìn thấy khỏi mắt và máu của ta, xóa hết những gì ta đã nghĩ, đã cảm thấy, đã khao khát và đã chối bỏ. Anh ấy đang ở trong toa dành cho người hút thuốc phải không? Em vào đó nói chuyện với anh ấy một lát được không?”
“Em có thể đi ư?...”
“Sắp tới ga Hammond rồi.”
Tại sao em lại hỏi anh chứ, anh ta là chồng của em kia mà, anh định nói như vậy nhưng lại cố kiềm chế. “Anh ta ở trong phòng dành riêng cho nam”, anh nói. “Có lẽ anh nên...” Nhưng cô đã đứng dậy và đi qua anh; anh nghĩ, Nếu nàng dừng bước và ngoái lại nhìn mình thì như vậy nghĩa là nàng đang nghĩ, “Sau này mình có thể biết chắc rằng chí ít mình đã nói lời tạm biệt anh ấy” và quả thật cô đã dừng lại, họ nhìn nhau, rồi cô lại tiếp tục bước đi. Giờ đây, vùng nước mênh mông đã bị bỏ lại phía sau, tiếng dội lại của trụ cầu không còn nữa và tiếng rít của động cơ tàu lại vang lên trong khi con tàu tiếp tục tăng tốc, và gần như ngay lập tức họ thấy nó đang đưa họ đi qua một vùng ngoại ô có những ngôi nhà tồi tàn chắc hẳn là thuộc Hammond, và họ tránh nhìn ra ngoài cửa sổ lúc con tàu dừng lại một lát rồi tiếp tục chuyển bánh; anh thậm chí không có thời gian để đứng lên khi cô quay trở lại, đi nhanh qua anh và ngồi vào ghế của mình. “Vậy là em đã quay lại”, anh nói.
“Anh nghĩ em sẽ không quay lại chứ gì. Em cũng không nghĩ mình sẽ quay lại.”
“Nhưng em đã quay lại.”
“Chỉ có điều mọi chuyện chưa kết thúc đâu. Nếu anh ta lại lên tàu, với một tấm vé đi Slidell thì...” Cô quay đầu lại, nhìn anh đăm đăm mặc dù không chạm vào anh. “Chưa xong đâu. Nó sẽ phải bị cắt bỏ.” “Bị cắt bỏ ư?”
“‘Nếu mắt của ngươi làm ngươi sa vào tội lỗi thì hãy móc mắt ra, và với các bộ phận khác cũng vậy”. Thế đấy. Phải cắt toàn bộ... một thứ gì đó. Em phải cắt nó đi mới được. Phòng đặc biệt ở đằng kia không có người. Hãy tìm người phụ trách tàu và kiếm chỗ ở phòng đó để đến Jackson.”
“Phòng đặc biệt ư? Phòng đó có giá...”
“Đồ ngốc!”, cô nói. Lúc này nàng không yêu mình, anh nghĩ. Lúc này nàng không yêu bất cứ thứ gì. Cô vừa nói bằng giọng thầm thì đầy căng thẳng, vừa đấm đầu gối anh thùm thụp. “Đồ ngốc!” Cô đứng dậy.
“Đợi đã”, anh nói, chộp lấy cổ tay cô. “Anh sẽ lo chuyện đó.” Anh không mất thời gian để tìm thấy người phụ trách chuyến tàu ở lối đi cuối toa. “Được rồi”, anh nói. Cô đứng dậy ngay lập tức, cầm túi xách và áo khoác lên. “Nhân viên khuân vác sẽ đến...”, anh nói. Cô không dừng lại. “Để anh xách cho”, anh cầm lấy túi xách từ tay cô lẫn túi của mình rồi bước theo cô dọc lối đi. Sau này nhớ lại, anh thấy đó đúng là một cuộc đi bộ tưởng như vô cùng tận giữa những hàng ghế đầy người, nơi mà các hành khách ngồi đó chẳng có việc gì khác để làm ngoài việc nhìn anh và cô đi qua, cảm tưởng như thể tất cả mọi người trên tàu chắc chắn đều biết chuyện của họ, biết rõ hai người bọn họ đã gieo rắc ra xung quanh cái mùi của sự xấu xa và thảm họa. Họ đi vào phòng đặc biệt.
“Khóa cửa lại”, cô nói. Anh đặt hai chiếc túi xuống và khóa cửa. Anh chưa từng ở trong phòng đặc biệt trên tàu hỏa nên loay hoay với cái ổ khóa một lúc. Khi anh quay trở vào cô đã cởi váy - chiếc váy nằm dưới sàn tạo thành một vòng tròn quanh chỗ cô đứng, trong bộ đồ lót của năm 1937 ít vải và đầy nữ tính, giơ hai tay che mặt. Rồi cô bỏ tay xuống và anh nhận thấy khuôn mặt cô chẳng hề biểu lộ nỗi xấu hổ hay e thẹn, cũng tuyệt nhiên không có những giọt nước mắt, anh không mong điều ấy. Sau đó cô bước ra khỏi cái vòng tròn được tạo từ chiếc váy, bước tới và bắt đầu tháo cà vạt của anh, gạt những ngón tay vụng về của anh ra.